TOP 12 mẫu Tóm tắt Mấy ý nghĩ về thơ (2024) hay, ngắn gọn - Kết nối tri thức
Với Tóm tắt Mấy ý nghĩ về thơ Ngữ văn lớp 12 hay, ngắn gọn sách Kết nối tri thức giúp học sinh nắm được trọng tâm văn bản Mấy ý nghĩ về thơ từ đó học tốt môn Ngữ văn 12.
Tóm tắt Mấy ý nghĩ về thơ - Kết nối tri thức
Tóm tắt Mấy ý nghĩ về thơ - Mẫu 1
Bài tiểu luận Mấy ý nghĩ về thơ nêu lên những suy nghĩ, những quan điểm độc đáo và mới mẻ đồng thời là những đề xuất của tác giả Nguyễn Đình Thi về thơ. Nhà văn khẳng định thơ chính là tâm hồn, là tiếng nói tâm tình của con người. Tuy nhiên, đó phải là tâm hồn có chiều sâu của tư tưởng, và phải được biểu đạt qua hình ảnh, qua nhạc điệu, nhịp điệu và ngôn ngữ. Đường đi của nghệ thuật nói chung, của thơ nói riêng là từ tình cảm, từ trái tim nhà thơ đến với bạn đọc. Thơ là sự cô đọng kết tinh, là sự tổng hợp tất cả những tinh túy trong ngôn ngữ. Nguyễn Đình Thi đã làm một phép đối sánh để làm bật lên sự nổi trổi của thơ: Nếu văn xuôi cho phép không mười phân hoàn hảo, thì thơ lại luôn đòi hỏi sự toàn bích. Đối với thơ không vần, thơ tự do, Nguyễn Đình Thi đã bày tỏ quan điểm mới mẻ và đầy táo bạo như sau “không có vấn đề thơ tự do, thơ có vần hay không vần, chỉ có thơ thực và thơ giả, thơ hay và thơ không hay, thơ và không thơ…” Đây được xem như là sự phá cách trong suy nghĩ cũng như tư duy đối với thơ truyền thống, đồng thời cũng thể hiện sự quan tâm đến chất lượng thơ của tác giả Nguyễn Đình Thi.
Tóm tắt Mấy ý nghĩ về thơ - Mẫu 2
“Mấy ý nghĩ về thơ” là bài tiểu luận xuất sắc của tác giả Nguyễn Đình Thi trình bày quan niệm về thơ ca. Tác phẩm được ông viết tại Hội nghị tranh luận văn nghệ được tổ chức ở miền Bắc tháng 9 năm 1949. Bài viết được trình bày logic, mạch lạc với các nội dung rõ ràng. Trước hết tác giả chỉ ra cho người đọc thấy nguồn gốc của thơ ca là xuất phát từ tâm hồn và tình cảm của con người. Tác giả nhấn mạnh đó phải là tâm hồn có tư tưởng, có cảm xúc và thơ ca phải được tuôn trào ra từ đó. Nhà văn trình bày suy nghĩ của mình về các đặc trưng thơ ca: về hình ảnh “là hình ảnh thực nảy lên trong tâm hồn khi ta sống trong một cảnh huống hoặc trạng thái nào đấy”; về chữ và tiếng ngoài ý niệm còn có một giá trị khác “bỗng tự phá tung mở rộng ra, gọi đến xung quanh nó những cảm xúc, những hình ảnh không ngờ, tỏa ra xung quanh nó một vùng sáng sống động”; về nhịp điệu trong thơ là “nhịp điệu của hình ảnh, tình ý, nói chung là của tâm hồn”. Một vấn đề nổi bật về thơ ca được tác giả nhắc đến là thơ tự do, thơ không vần. Nguyễn Đình Thi đã thẳng thắn trình bày suy nghĩ của mình: “không có vấn đề thơ tự do, thơ có vần và thơ không có vần. Chỉ có thơ thực và thơ giả, thơ hay và thơ không hay, thơ và không thơ”. Đây là một quan niệm mới mẻ đầy tính hiện đại, cách tân đối lập với thơ ca truyền thống. Phần cuối cùng tác giả nhấn mạnh đến thơ của thời đại mới: “phải nói lên được tình cảm, tư tưởng mới của thời đại.” Bài viết cho ta cách nhìn, cách hiểu, cách cảm sâu sắc, mới mẻ về thơ ca phù hợp với hoàn cảnh đất nước trong lúc bấy giờ.
Tóm tắt Mấy ý nghĩ về thơ - Mẫu 3
Tiểu luận Mấy ý nghĩ về thơ nêu lên những suy nghĩ, những quan điểm độc đáo và mới mẻ của tác giả Nguyễn Đình Thi về thơ. Nhà văn khẳng định thơ chính là tâm hồn, là tiếng nói tâm tình của con người. Tuy nhiên, đó phải là tâm hồn có chiều sâu của tư tưởng, và phải được biểu đạt qua hình ảnh, qua nhạc điệu, nhịp điệu và ngôn ngữ. Đường đi của nghệ thuật nói chung, của thơ nói riêng là từ tình cảm, từ trái tim nhà thơ đến với bạn đọc. Thơ là sự cô đọng kết tinh, là sự tổng hợp tất cả những tinh túy trong ngôn ngữ. Đối với thơ không vần, thơ tự do, Nguyễn Đình Thi đã bày tỏ quan điểm mới mẻ và đầy táo bạo. Đây được xem như là sự phá cách trong suy nghĩ cũng như tư duy đối với thơ truyền thống, đồng thời cũng thể hiện sự quan tâm đến chất lượng thơ của tác giả Nguyễn Đình Thi.
Tóm tắt Mấy ý nghĩ về thơ - Mẫu 4
Bài tiểu luận Mấy ý nghĩa về thơ nêu lên những quan niệm mới mẻ, có chiều sâu về thơ, trong đó có những suy nghĩ, đề xuất của tác giả có thể gọi là táo bạo trong hoàn cảnh năm 1949 lúc bấy giờ. Tác giả khẳng định thơ là tiếng nói tâm hồn của con người, nhưng tâm hồn đó phải có tư tưởng và được biểu hiện bằng hình ảnh, nhịp điệu, nhạc điệu và ngôn ngữ.
Đường đi của thơ là con đường đi thẳng vào tình cảm, từ trái tim nhà thơ đến với trái tim người đọc. Thơ là tổng hợp, kết tinh. Văn xuôi cho phép không mười phân hoàn hảo, nhưng thơ thì luôn luôn đòi hỏi sự toàn bích. Về thơ tự do, thơ không vần, tác giả có một quan niệm mới mẻ, táo bạo: “không có vấn đề thơ tự do, thơ có vần và thơ không vần. Chỉ có thơ thực và thơ giả, thơ hay và thơ không hay, thơ và không thơ”. Đây là một sự phá cách đối với thơ truyền thống nhưng lại cho ta thấy sự quan tâm đến chất lượng thơ của Nguyễn Đình Thi.
Bài nghị luận về quan niệm thơ được viết ra với những suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ, có ý nghĩa cách tân, in đậm bản lĩnh và những trải nghiệm về thơ của Nguyễn Đình Thi, lại được viết bằng một tư duy trong sáng, một lập luận chặt chẽ và một cách viết tài hoa. Thơ là một lĩnh vực khá trừu tượng, khó nắm bắt nhưng cách viết của tác giả lại dễ hiểu, cuốn hút người đọc vào vấn đề để cùng trao đổi, đối thoại. Văn lí luận của Nguyễn Đình Thi giàu hình ảnh, mang hơi thở của cuộc sống và nhiệt tình của người viết: đó là những yếu tố làm nên nét riêng và sức hấp dẫn của bài tiểu luận này.
Tóm tắt Mấy ý nghĩ về thơ - Mẫu 5
Văn bản thể hiện quan niệm về thơ của Nguyễn Đình Thi vẫn còn giá trị đến ngày nay vì sự đúng đắn trong nội dung tư tưởng, sự hấp dẫn trong nghệ thuật biểu đạt. Tiểu luận vẫn còn giá trị thời sự, tính khoa học đúng đắn, đi vào bản chất của thơ và làm mối quan hệ chặt chẽ của thơ với cuộc sống.
Tóm tắt Mấy ý nghĩ về thơ - Mẫu 6
Thơ ca là một loại hình nghệ thuật độc đáo phát khởi từ trái tim và hướng đến trái tim con người. Trong lịch sử phát triển của nó, thơ ca được con người hiểu và nhận thức không hoàn toàn giống nhau. Ở nước ta, trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, văn nghệ sĩ có nhiều vướng mắc về mặt tư tưởng và quan điểm sáng tác. Để phục vụ kháng chiến tốt hơn thơ ca cần được nhìn nhận, định hướng trên nhiều phương diện. Trong hội nghị tranh luận văn nghệ Việt Bắc (tháng 9 năm 1949), Nguyễn Đình Thi đã tham gia tranh luận với bài: “Mấy ý nghĩ về thơ”. Bài viết đã thể hiện một quan niệm đúng đắn về thơ nói chung và thơ kháng chiến nói riêng.
Trước hết nhà thơ khẳng định đặc trưng cơ bản nhất của thơ là thể hiện tâm hồn con người. Quá trình ra đời của một bài thơ bắt đầu từ một rung động thơ rồi đến làm thơ. Rung động thơ là khi tâm hồn ra khỏi trạng thái bình thường do có sự va chạm với thế giới bên ngoài và bật lên những tình ý mới mẻ. Làm thơ là thể hiện những rung động của tâm hồn con người bằng lời nói (hoặc chữ viết).
Theo tác giả, thơ gắn liền với ngôn ngữ, hình ảnh. Vì vậy thơ phải gắn với tư tưởng, tình cảm của con người, của thời đại. Thơ phải có hình ảnh, vừa là hình ảnh thực, sống động, mới lạ vừa chứa đựng cảm xúc thành thực. Thơ phải có nhịp điệu, âm điệu.
Nguyễn Đình Thi cũng đưa ra quan điểm của mình về thơ tự do và thơ không vần. Ông cho rằng: “Thơ tự do, thơ có vần và thơ không có vần, chỉ có vấn đề thơ thật và thơ giả, thơ hay và thơ không hay, thơ và không thơ,...”. bên cạnh đó, tác giả nhấn mạnh ngôn ngữ trong thơ có sự khác biệt so với ngôn ngữ kịch, ngôn ngữ truyện và kí.
Tóm tắt Mấy ý nghĩ về thơ - Mẫu 7
Tác phẩm là một bài tiểu luận xuất sắc của Nguyễn Đình Thi trình bày về quan niệm thơ ca, tác phẩm được viết tại Hội nghị tranh luận văn nghệ được tổ chức ở miền Bắc tháng 9/1949. Bài tiểu luận được trình bày logic và mạch lạc với các nội dung rõ ràng. Đầu tiên Nguyễn Đình Thi chỉ ra cho người đọc thấy nguồn gốc của thơ ca xuất phát từ tâm hồn và tình cảm của con người, ông nhấn mạnh đó phải là tâm hồn có tư tưởng, có cảm xúc và thơ ca phải được tuôn trào ra từ đó. Nguyễn Đình Thi trình bày suy nghĩ của mình về các đặc trưng của thơ cơ như sau: về hình ảnh “là hình ảnh thực nảy lên trong tâm hồn khi ta sống trong một cảnh huống hoặc trạng thái nào đấy”. Về chữ và tiếng ngoài ý niệm còn có một giá trị khác là “bỗng tự phá tung mở rộng ra, gọi đến xung quanh nó những cảm xúc, những hình ảnh không ngờ, tỏa ra xung quanh nó một vùng sáng sống động”. Về nhịp điệu trong thơ “nhịp điệu của hình ảnh, tình ý, nói chung là của tâm hồn”. Còn một vấn đề nổi bật về thơ ca được ông nhắc đến đó là thơ tự do và thơ không vần. Nhà văn thẳng thắn trình bày suy nghĩ của mình: “không có vấn đề thơ tự do, thơ có vần và thơ không có vần, chỉ có thơ thực và thơ giả, thơ hay và thơ không hay, thơ và không thơ”. Đó là quan niệm mới mẻ đầy hiện đại, cách tân đối lập với quan niệm thơ ca truyền thống. Phần kết Nguyễn Đình Thi nhấn mạnh đến thơ của thời đại mới: “phải nói lên được tình cảm, tư tưởng mới của thời đại.” Bài tiểu luận đã cho ta cách nhìn, cách hiểu và cách cảm nhận sâu sắc, mới mẻ về thơ ca phù hợp với hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ.
Tóm tắt Mấy ý nghĩ về thơ - Mẫu 8
Tiểu luận Mấy ý nghĩ về thơ nêu lên những suy nghĩ, những quan điểm độc đáo và mới mẻ của tác giả Nguyễn Đình Thi về thơ. Nhà văn khẳng định thơ chính là tâm hồn, là tiếng nói tâm tình của con người. Tuy nhiên, đó phải là tâm hồn có chiều sâu của tư tưởng, và phải được biểu đạt qua hình ảnh, qua nhạc điệu, nhịp điệu và ngôn ngữ. Đường đi của nghệ thuật nói chung, của thơ nói riêng là từ tình cảm, từ trái tim nhà thơ đến với bạn đọc. Thơ là sự cô đọng kết tinh, là sự tổng hợp tất cả những tinh túy trong ngôn ngữ. Đối với thơ không vần, thơ tự do, Nguyễn Đình Thi đã bày tỏ quan điểm mới mẻ và đầy táo bạo. Đây được xem như là sự phá cách trong suy nghĩ cũng như tư duy đối với thơ truyền thống, đồng thời cũng thể hiện sự quan tâm đến chất lượng thơ của tác giả Nguyễn Đình Thi.
Tóm tắt Mấy ý nghĩ về thơ - Mẫu 9
“Mấy suy nghĩ về thơ” là bài tiểu luận xuất sắc của tác giả Nguyễn Đình Thi trình bày quan điểm về thơ ca. Tác phẩm được ông viết tại Hội nghị tranh luận văn nghệ được tổ chức ở miền Bắc tháng 9 năm 1949. Bài viết được trình bày logic, mạch lạc với các nội dung rõ ràng. Trước hết tác giả chỉ ra cho người đọc thấy nguồn gốc của thơ ca là xuất phát từ tâm hồn và tình cảm của con người. Tác giả nhấn mạnh đó phải là tâm hồn có tư tưởng, có cảm xúc và thơ ca phải được tuôn trào ra từ đó. Nhà văn trình bày suy nghĩ của mình về các đặc trưng thơ ca: về hình ảnh “là hình ảnh thực nảy lên trong tâm hồn khi ta sống trong một cảnh huống hoặc trạng thái nào đấy”; về chữ và tiếng ngoài ý niệm còn có một giá trị khác “bỗng tự phá tung mở rộng ra, gọi đến xung quanh nó những cảm xúc, những hình ảnh không ngờ, tỏa ra xung quanh nó một vùng sáng sống động”; về nhịp điệu trong thơ là “nhịp điệu của hình ảnh, tình ý, nói chung là của tâm hồn”. Một vấn đề nổi bật về thơ ca được tác giả nhắc đến là thơ tự do, thơ không vần. Nguyễn Đình Thi đã thẳng thắn trình bày suy nghĩ của mình: “không có vấn đề thơ tự do, thơ có vần và thơ không có vần.Chỉ có thơ thực và thơ giả, thơ hay và thơ không hay, thơ và không thơ”. Đây là một quan niệm mới mẻ đầy tính hiện đại, cách tân đối lập với thơ ca truyền thống. Phần cuối cùng tác giả nhấn mạnh đến thơ của thời đại mới: “phải nói lên được tình cảm, tư tưởng mới của thời đại.” Bài viết cho ta cách nhìn, cách hiểu, cách cảm sâu sắc, mới mẻ về thơ ca phù hợp với hoàn cảnh đất nước trong lúc bấy giờ.
Tóm tắt Mấy ý nghĩ về thơ - Mẫu 10
Bài tiểu luận Mấy suy nghĩ về thơ nêu lên những suy nghĩ, những quan điểm độc đáo và mới mẻ đồng thời là những đề xuất của tác giả Nguyễn Đình Thi về thơ. Nhà văn khẳng định thơ chính là tâm hồn, là tiếng nói tâm tình của con người. Tuy nhiên, đó phải là tâm hồn có chiều sâu của tư tưởng, và phải được biểu đạt qua hình ảnh, qua nhạc điệu, nhịp điệu và ngôn ngữ.
Hành trình của nghệ thuật nói chung, của thơ nói riêng, bắt đầu từ tình cảm, từ trái tim của nhà thơ để đến với bạn đọc. Thơ là sự tinh túy, là sự kết tinh của ngôn ngữ. Nguyễn Đình Thi đã so sánh một cách tinh tế để làm nổi bật sự quan trọng của thơ: Nếu văn xuôi có thể không hoàn hảo, thì thơ luôn đòi hỏi sự toàn vẹn.
Với thơ không vần, thơ tự do, Nguyễn Đình Thi đã thể hiện quan điểm mới mẻ và táo bạo như sau “không có vấn đề thơ tự do, thơ có vần hay không vần, chỉ có thơ thực và thơ giả, thơ hay và thơ không hay, thơ và không thơ…” Điều này được xem như là một sự đột phá trong suy nghĩ và tư duy về thơ truyền thống, đồng thời cũng thể hiện sự quan tâm đến chất lượng thơ của Nguyễn Đình Thi.
Tóm tắt Mấy ý nghĩ về thơ - Mẫu 11
Bài tiểu luận Mấy ý nghĩ về thơ đưa ra những quan điểm mới mẻ, sâu sắc về thơ, trong đó có những suy nghĩ, đề xuất mà tác giả coi là táo bạo trong thời điểm năm 1949. Tác giả khẳng định thơ là tiếng nói của tâm hồn con người, nhưng tâm hồn ấy phải mang trong mình tư tưởng và được biểu hiện qua hình ảnh, nhịp điệu, nhạc điệu và ngôn ngữ.
Hành trình của thơ là con đường dẫn thẳng vào tình cảm, từ trái tim của nhà thơ đến với trái tim của người đọc. Thơ là sự kết tinh, sơ lược. Văn xuôi có thể không hoàn hảo, nhưng thơ luôn đòi hỏi sự hoàn mỹ. Về thơ tự do, thơ không vần, tác giả đã có một quan điểm mới mẻ, táo bạo: “không có vấn đề thơ tự do, thơ có vần và thơ không vần. Chỉ có thơ thực và thơ giả, thơ hay và thơ không hay, thơ và không thơ”. Điều này là một sự đột phá đối với thơ truyền thống nhưng lại thể hiện sự quan tâm đến chất lượng thơ của Nguyễn Đình Thi.
Bài luận về quan niệm về thơ được viết ra với những suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ, mang ý nghĩa cách tân, phản ánh bản lĩnh và những trải nghiệm về thơ của Nguyễn Đình Thi, lại được viết bằng một tư duy trong sáng, một lập luận chặt chẽ và một cách viết tài ba. Thơ là một lĩnh vực khá trừu tượng, khó nắm bắt nhưng cách viết của tác giả lại dễ hiểu, thu hút người đọc vào vấn đề để cùng trao đổi, thảo luận. Văn phong của Nguyễn Đình Thi đậm chất hình ảnh, thấm đẫm sự sống và nhiệt huyết của tác giả: đó chính là những yếu tố làm nên nét độc đáo và sức hấp dẫn của bài tiểu luận này.
Tóm tắt Mấy ý nghĩ về thơ - Mẫu 12
Tiểu luận Mấy ý nghĩ về thơ trình bày những suy nghĩ, quan điểm độc đáo và mới lạ của Nguyễn Đình Thi về thơ. Tác giả khẳng định rằng thơ là biểu hiện của tâm hồn con người, được thể hiện qua hình ảnh, nhạc điệu, nhịp điệu và ngôn ngữ. Nghệ thuật, đặc biệt là thơ, chủ yếu truyền đạt từ trái tim của nhà thơ đến trái tim của độc giả. Thơ là kết tinh của tinh hoa trong ngôn ngữ. Về thơ tự do và thơ không vần, Nguyễn Đình Thi đã có quan điểm mới mẻ và dũng cảm, đồng thời thể hiện sự quan tâm đến chất lượng thơ.
Tác giả tác phẩm: Mấy ý nghĩ về thơ - Ngữ văn 12
I. Tác giả Nguyễn Đình Thi
- Nguyễn Đình Thi (1924 - 2003), quê ở thành phố Hà Nội, là nhạc sĩ, nhà thơ, nhà văn, nhà viết kịch, nhà phê bình văn học, đã có những đóng góp quan trọng cho việc xây dựng nền văn học cách mạng Việt Nam.
- Ông từng tham gia kháng chiến và giữ nhiều chức vụ quan trọng của Đảng.
- Sáng tác của ông khá đa dạng về thể loại, nổi bật nhất là thơ, với những cách tân đáng kể trên phương diện hình thức.
II. Tìm hiểu văn bản Mấy ý nghĩ về thơ
1. Thể loại
- Tác phẩm Mấy ý nghĩ về thơ thuộc thể loại: Tiểu luận.
2. Xuất xứ
- Tuyển tác phẩm văn học Nguyễn Đình Thi, Tiểu luận – bút kí, NXB Văn học, Hà Nội, 200, in trong Ngữ văn 12 Nâng cao, tập một, Sđd, tr.50 – 54.
- “Mấy ý nghĩ về thơ” là tiểu luận được Nguyễn Đình Thi viết từ năm 1949, sau đó in trong tập “Mấy vấn đề văn học”.
3. Hoàn cảnh sáng tác
- Tháng 9 – 1949, Nguyễn Đình Thi trình bày quan niệm của mình về thơ tại Hội nghị tranh luận văn nghệ đã được tổ chức ở Việt Bắc.
- Sau này được đưa vào trong tập Mấy vấn đề văn học.
4. Phương thức biểu đạt
- Phương thức biểu đạt: nghị luận.
5. Bố cục Mấy ý nghĩa về thơ
- Phần 1 – Từ đầu đến “không phải là thơ”: Nhà văn nêu ra những định nghĩa về thơ, đồng thời khẳng định không có một định nghĩa đầy đủ.
- Phần 2 – Tiếp theo đến “xung quanh ngọn lửa”: Sự đồng cảm tự nhiên giữa nhà thơ và bạn đọc là sự rung động
- Phần 3 – Tiếp theo đến “mà không biết nhìn”: Vấn đề hình ảnh trong thơ cũng sự sự kì diệu của nó
- Phần 4 – Tiếp theo đến “đòi hỏi sự toàn bích”: Thơ tự do và thơ không vần.
- Phần 5 – Đoạn còn lại của tác phẩm: Thơ trong thời đại mới.
6. Tóm tắt Mấy ý nghĩa về thơ
“Mấy ý nghĩ về thơ” là bài tiểu luận xuất sắc của tác giả Nguyễn Đình Thi trình bày quan niệm về thơ ca. Tác phẩm được ông viết tại Hội nghị tranh luận văn nghệ được tổ chức ở miền Bắc tháng 9 năm 1949. Bài viết được trình bày logic, mạch lạc với các nội dung rõ ràng. Trước hết tác giả chỉ ra cho người đọc thấy nguồn gốc của thơ ca là xuất phát từ tâm hồn và tình cảm của con người. Tác giả nhấn mạnh đó phải là tâm hồn có tư tưởng, có cảm xúc và thơ ca phải được tuôn trào ra từ đó. Nhà văn trình bày suy nghĩ của mình về các đặc trưng thơ ca: về hình ảnh “là hình ảnh thực nảy lên trong tâm hồn khi ta sống trong một cảnh huống hoặc trạng thái nào đấy”; về chữ và tiếng ngoài ý niệm còn có một giá trị khác “bỗng tự phá tung mở rộng ra, gọi đến xung quanh nó những cảm xúc, những hình ảnh không ngờ, tỏa ra xung quanh nó một vùng sáng sống động”; về nhịp điệu trong thơ là “nhịp điệu của hình ảnh, tình ý, nói chung là của tâm hồn”. Một vấn đề nổi bật về thơ ca được tác giả nhắc đến là thơ tự do, thơ không vần. Nguyễn Đình Thi đã thẳng thắn trình bày suy nghĩ của mình: “không có vấn đề thơ tự do, thơ có vần và thơ không có vần. Chỉ có thơ thực và thơ giả, thơ hay và thơ không hay, thơ và không thơ”. Đây là một quan niệm mới mẻ đầy tính hiện đại, cách tân đối lập với thơ ca truyền thống. Phần cuối cùng tác giả nhấn mạnh đến thơ của thời đại mới: “phải nói lên được tình cảm, tư tưởng mới của thời đại.” Bài viết cho ta cách nhìn, cách hiểu, cách cảm sâu sắc, mới mẻ về thơ ca phù hợp với hoàn cảnh đất nước trong lúc bấy giờ.
7. Giá trị nội dung
- Quan niệm về thơ của Nguyễn Đình Thi vẫn còn giá trị đến ngày nay vì sự đúng đắn trong nội dung tư tưởng, sự hấp dẫn trong nghệ thuật biểu đạt.
- Tiểu luận vẫn còn giá trị thời sự, tính khoa học đúng đắn, đi vào bản chất của thơ và làm mối quan hệ chặt chẽ của thơ với cuộc sống.
8. Giá trị nghệ thuật
- Văn phong gần gũi, thân tình, chia sẻ tâm huyết, quan niệm và tình cảm chân thành với những người đồng nghiệp về thơ ca.
- Nghệ thuật lập luận hấp dẫn: hệ thống luận điểm chặt chẽ tiến bộ, trải nghiệm sâu sắc, tư duy sắc bén, hình ảnh sống động, từ ngữ sắc sảo, dẫn chứng giàu sức lay động.
- Kết hợp nhuần nhuyễn chính luận và trữ tình, nhiều câu nhiều đoạn mềm mại, giàu chất thơ.
III. Tìm hiểu chi tiết văn bản Mấy ý nghĩ về thơ
1. Đặc trưng cơ bản nhất của thơ là biểu hiện tâm hồn con người
- Để làm nổi bật đặc trưng cơ bản nhất của thơ là biểu hiện tâm hồn con người, Nguyễn Đình Thi đã phân tích, lý giải về mối quan hệ giữa thơ với tâm hồn của con người bằng cách đưa ra một loạt dẫn chứng:
“Ta nói trời hôm nay nên thơ, nhưng chính ra là lòng chúng ta mong một nỗi niềm vui buồn nào mà muốn làm thơ, hoặc đọc thơ về trời xanh. Mưa phùn như chính nỗi nhớ nhung gặp buổi chiều mưa mà muốn thì thầm những câu thơ chưa thành hình rõ".
+ “Làm một câu thơ yêu, tâm hồn cũng rung động như khi có người yêu trước mặt".
+ Những câu, những lời thơ diễn lên “làm sống ngay lên một tình cảm, một nỗi niềm trong lòng người đọc".
+ “Thơ là tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất của tâm hồn khi đụng chạm với cuộc sống".
Qua đó tác giả muốn nhấn mạnh giữa thơ với tâm hồn con người có sự tác động qua lại lẫn nhau.
- Tiếp theo tác giả đưa ra đặc điểm của thơ để khẳng định thơ diễn tả tâm hồn con người.
+ “Thơ là một thứ nhạc", “Một thứ nhịp điệu bên trong, một thứ nhịp điệu của hình ảnh, tình ý" nhưng nói chung những cái đó là “của tâm hồn".
+ Nhịp điệu thơ được hình thành từ những cảm xúc, hình ảnh và trong khoảng im lặng “cũng là nơi trú ngụ kín đáo của sự xúc động".
- Cuối cùng tác giả kết luận “đường đi của thơ là đi thẳng vào tình cảm". Điều đó có nghĩa thơ là phương tiện biểu hiện của tâm hồn con người.
2. Những yếu tố đặc trưng khác của thơ
- Hình ảnh thơ: “là hình ảnh thực nẩy lên trong tâm hồn khi ta sống trong một cảnh huống hoặc trạng thái nào đấy", ví như “những tia lửa loé lên khi búa đập vào sắt trên đi" được thu lượm kết nên một bó sáng.
- Tư tưởng trong thơ: “những tư tưởng trong thơ là tư tưởng dính liền với cuộc sống, ở trong cuộc sống. Tư tưởng của nhà thơ nằm ngay trong cảm xúc, tình tự"
- Cảm xúc trong thơ: “Cảm xúc là phần xương thịt hơn cả đời sống tâm hồn", “bất cứ cảm xúc tình tự nào của con người cũng dính liền với sự suy nghĩ".
- Cái thực trong thơ: “là những hình ảnh sống có sức lôi cuốn và thuyết phục người đọc. Đó là những hình ảnh chưa có vết nhoà của thói quen, không bị dập khuôn vào những ý niệm trừu tượng định trước".
IV. Đọc văn bản Mấy ý nghĩa về thơ
Mấy ý nghĩ về thơ (trích)
Nguyễn Đình Thi
(Lược đoạn đầu : Với dụng ý tranh luận, Nguyễn Đình Thi nêu ra rồi bác bỏ một số quan niệm có phần phiến diện về thơ – có người cho “thơ là ở những lời đẹp", lại có người cho "thơ khác với các thế văn khác ở chỗ thơ in sâu vào trí nhớ...).
Đầu mối của thơ có lẽ ta đi tìm ben trong tâm hồn con người chăng ? Ta nói trời xanh hôm nay nên thơ nhưng chính ra là lòng chúng ta mang một nỗi niềm vui buồn nào mà muốn làm thơ hoặc đọc thơ về trời xanh. Mưa phùn buổi chiều gợi những cau thơ nào nhớ nhung, nhưng chính nỗi nhớ nhung gặp buổi chiều mưa mà muốn thì thầm những cau thơ chưa thành hình rõ.
[...] Tam hồn chúng ta có một rung động thơ khi nó ra khỏi tình trạng bình thường, khi nó không còn chuỗi theo thói quen như một dây da trong bộ máy,
khi nó thức tỉnh tự soi vào nó để tự nhận thấy đang ở một độ rung chuyển khác thường, do một sự va chạm nào với thế giới bên ngoài, với thiên nhiên, với những người khác, rồi do sự tự soi sáng áy mà cảm xúc thành hình được hẳn.
Làm thơ, áy là dùng lời và những dấu hiệu thay cho lời nói, tức là chữ – để thể hiện một trạng thái tam lí đang rung chuyển khác thường. Làm thơ là đang sống, không phải chỉ nhìn lại sự sống, làm một câu thơ yêu, tam hồn cũng rung động như khi có người yêu trước mặt. Bài thơ là những cau, những lời diễn lên, làm sống ngay lên một tình cảm, một nỗi niềm trong lòng người đọc.
Bài thơ là sợi dây truyền tình cảm cho người đọc. Ta nói truyền sang hình như
người đọc chỉ đứng yên mà nhận. Nhưng kì thực, cái trạng thái tam lí truyền sang ấy là người đọc tự tạo cho mình, khi nhìn những chữ, khi nghe những lời,
khi mọi sợi day của tam hồn rung lên vì chạm thấy những hình ảnh, những ý nghĩ, những mong muốn, những tình cảm mà lời và chữ của bài thơ kéo theo đằng sau như vùng sáng xung quanh ngọn lửa.
Nói đến hình ảnh trong thơ. Thơ là tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất của tâm hồn khi đụng chạm với cuộc sống. Toé lên ở những nơi giao nhau của tâm hồn với ngoại vật, trước hết là những cảm xúc. Cảm xúc là phần thịt xương hơn cả của đời sống tâm hồn. Thơ phải có tư tưởng, có ý thức, vì bát cú cảm xúc, tình tự nào của con người cũng dính liền với sự suy nghĩ. Nhưng tư tưởng trong thơ là tư tưởng dính liền với cuộc sống, ở trong cuộc sống. Tư tưởng của thơ nằm ngay trong cảm xúc, tình tự. Không ai đọc thơ riêng bằng trí thức mà yêu thơ. Hiểu thơ kì thực là vấn đề của cả tâm hồn. Nên thơ không nói bằng ý niệm thuần tuý. Nói bằng ý niệm chúng ta sẽ có triết học, luan lí hay vệ sinh chứ không có thơ. Thơ tìm nói với một sự suy nghĩ toàn diện hơn là suy nghĩ riêng theo luận lí. Thơ muốn lay động những chiều sau của tâm hồn, đem cảm xúc mà đi thẳng vào sự suy nghĩ.
Trên trời có đám mây xanh
Ở giữa mây trắng, xung quanh mây vàng
Ước gì anh lấy được nàng...
Nhà luận lí ngồi khảo cứu mãi xem vì sao mà chuyện mây trắng may vàng lại đưa đến chuyện anh với nàng. Luận lí chưa hiểu, nhưng cả tâm hồn chúng ta đã hiểu và âm vang theo.
[...] Cho nên làm thơ không phải là phiên dịch ý tình bằng hình ảnh cầu kì.
Hình ảnh của thơ trái lại, phải là hình ảnh thực nảy lên trong tâm hồn khi ta sống trong một cảnh huống hoặc trạng thái nào đáy. Đụng chạm với hành động hằng ngày, tam hồn nảy lên bao nhiêu hình ảnh như những tia lửa toé lên khi búa đập vào sắt trên đe. Người làm thơ lượm những tia lửa ấy, kết nên một bó sáng, nó là hình ảnh thơ. Người chinh phụ đứng trước nhà ngóng theo bóng chồng, chỉ còn nghe thấy tiếng địch thỏi, bay giờ nói lên cho ta điều ấy và thơ Việt Nam đã có câu : “Tiếng địch thổi nghe chừng đồng vọng”. Cau thơ giản dị như câu nói thường mà ngân vang mãi. Thơ là nơi tư tưởng, tình tự, quấn quýt với hình ảnh như hồn với xác để tạo ra cái biết toàn thể, biết bằng tất cả tâm hồn, không phải chỉ biết bằng ý niệm, bằng ý thức.
[…] Thực trong thơ, là tìm được những hình ảnh sống, những hình ảnh có sức lôi cuốn và thuyết phục người đọc. Người làm thơ bắt chợt trong lòng mình một ý nghĩ hay tình cảm, dù thành thực và sau sắc, cũng không vội dùng lại, đem những tiếng có vần điệu chăng lưới bắt lấy ý nghĩ hay tình cảm ấy. Anh ta còn phải thấy được những hình ảnh trong ý nghĩ hay tình cảm của mình, thì tiếng nói của anh mới truyền cảm sâu sắc được cho người khác.
“Tìm hình ảnh”, nói như vậy tưởng chừng việc làm thơ là đào vào trong tâm hồn mình, cố gắng nặn nọt. Cũng có trường hợp như vậy, nhưng thực ra đáng lẽ là nhà thơ đi giữa cuộc đời, mở rộng cả tam hồn mình thì mỗi con mắt nhìn gặp trên đường, mỗi cảnh ngộ, mỗi con người cho đến mỗi tiếng nghe thấy, mỗi giọt nắng, mỗi chiếc lá tự nhiên mà vào trong lòng, để rồi động sâu đến tư tưởng và tình cảm. Trong việc làm thơ bấy giờ, hình ảnh tự nhiên hiện lên trước nhất.
Những hình ảnh còn tươi nguyên, mà nhà thơ tìm thấy, bao giờ cũng mới mễ, đột ngột lạ lùng. Vì nhà thơ nhìn bằng con mắt của người đầu tiên. Đó là những hình ảnh mới tinh, chưa có vết nhoà của thói quen, không bị rập khuôn vào những ý niệm trừu tượng định trước. Mượn câu nói của một nhà văn Pháp, nhà thơ bao giờ cũng là ngôi thứ nhất. Nhưng những hình ảnh mới lạ ấy đều ở trong đời thực, chúng ta đều thay. Hình ảnh của thơ vừa làm ta ngạc nhiên, vừa đã quen với chúng ta tự bao giờ. Cau thơ đột ngột làm cho ta nhạn thay những cái gần gũi nhất với chúng ta. Trước kia, ta vẫn gặp mà không biết nhìn.
[...] Chữ buồn ai cũng hiểu nghĩa, nhưng nói “tôi buồn” chưa làm cho ai buồn cả. Đó mới là một ý niệm. Cũng như nói trời lạnh, hoa trắng, ai cũng biết cả, nhưng chưa đủ làm cho ai thấy lạnh, thay trắng. Mỗi chữ và tiếng mới như một ngọn nến trắng cắt bằng giấy dán trên nền đen. Mỗi ngọn nến vẫn trắng như nền đen vẫn đen. Mỗi chữ là một nghĩa nhưng bài thơ vẫn chưa có hồn.
Chữ và tiếng trong thơ phải còn có một giá trị khác, ngoài giá trị ý niệm. Người làm thơ chọn chữ và tiếng không những vì ý nghĩa của nó, cái nghĩa thế nào là thế ấy, đóng lại trong một khung sắt. Điều kì diệu của thơ là mỗi tiếng, mỗi chữ, ngoài cái nghĩa của nó, ngoài công dụng gọi tên sự vật, bỗng tự phá tung mở rộng ra, gọi đến xung quanh nó những cảm xúc, những hình ảnh không ngờ, toả ra xung quanh nó một vùng ánh sáng động đạy. Sức mạnh nhất của cau thơ là ở sức gợi ay. Cau thơ hay, có cái gì làm rung những chiếc cốc kia trên bàn, làm động ánh trăng kia trên bờ đê. “Chim hôm thoi thót về rừng.”. Chúng ta đọc mà thấy rõ buổi chiều như hơi thở tắt dần, câu thơ không còn là một ý, một bức ảnh gắng gượng chụp lại cảnh chiều, nó đã bao phủ một vàng linh động truyền sang lòng ta cái nhịp pháp phồng của buổi chiều. Mỗi chữ như một ngọn nến đang cháy, những ngọn nến ấy xếp bên nhau thành một vùng sáng chung. Ánh sáng không những ở đầu ngọn nến, nó ở tất cả xung quanh những ngọn nến. Ý thơ không những trong những chữ, nó vây bọc xung quanh. Người xưa nói : Thi tại ngôn ngoại. Cái kì diệu ấy của tiếng nói trong thơ, có lẽ chẳng ta tìm nó trong nhịp điệu, trong nhạc của thơ. Nhịp điệu của thơ không những là nhịp điệu bằng bằng, trắc trắc, lên bổng xuống tràm như tiếng đàn em tai, một người ngoại
quốc không biết tiếng ta cũng có thể nghe thấy được. Nhạc của thơ không giới
hạn ở thứ nhạc ngoài tai ấy. Thơ có một thứ nhạc nữa, một thứ nhịp điệu bên
trong, một thứ nhịp điệu của hình ảnh, tình ý, nói chung là của tâm hồn.
Ngâm thơ véo von mới làm cho ta nghe thấy tiếng bổng trầm của bằng trắc, chép thơ, đọc thơ bằng mắt, hoặc đọc lên như khi ta nói, có lẽ dễ cho chúng ta nghe thấy hơn tiếng nhịp điệu thực của thơ. Đó là nhịp điệu hình thành của những cảm xúc, hình ảnh, liên tiếp hoà hợp, mà những tiếng và chữ gọi ra như
những ngân vang dài, ngay những khoảng lung linh giữa chữ, những khoảng
im lặng cũng là nơi trú ngụ kín đáo của sự xúc động.
Đường đi của thơ là con đường đưa thẳng vào tình cảm, không quanh co, qua những chặng những trung gian, những cột cây số. Văn xuôi lôi cuốn người như dòng nước, đưa ta đi lần lượt, từ điểm này qua điểm khác. Thơ, trái lại, chỉ chọn một ít điểm chính, bấm vào những điểm ấy thì toàn thể động lên theo. Thơ là tổng hợp, kết tinh. Văn xuôi được phép không mười phần hoàn hảo, nhưng thơ thì luôn luôn đòi hỏi sự toàn bích.
Cuối cùng, tôi muốn nói tới vấn đề thơ tự do, thơ không vần. Theo tôi, những luật lệ của thơ, từ am điệu, đến vàn, đều là những võ khí rát mạnh trong tay người làm thơ. Nhưng không phải hễ thiếu những võ khí ấy là trận đánh nhất định thua. Thiếu võ khí áy, trận đánh gay go thêm nhiều, nhưng người làm thơ vẫn có thể thắng. Câu chuyện vàn hay không vẫn ở thơ ta gần đay cũng được đem ra bàn cãi. Có bạn cho rằng thơ Việt Nam, khác với thơ các nước, không thể thiếu vàn. Tiếng Việt Nam có đứng riêng hẳn như thế không ? Thơ Việt Nam có thể bỏ vàn mà vẫn Việt Nam hay không ? Thiết tưởng cách đáp hay hơn cả là để cho Những hình thức ấy gồm có những phát minh mới, cùng với những hình thức cũ, nhưng bao giờ cũng đã tái tạo và nâng cao đến một độ khác hẳn xưa.
Thơ chúng ta ngày nay đang ở tuổi trẻ nhất của thời đại mới. Nhịp sống chúng ta, từ sau Cách mạng, đạp lên nhiều phen dữ dội đến bàng hoàng, đồng thời mở rộng ào ạt. Chúng ta không còn sống khoan thai như một thời nào trước. Nhịp điệu cũ, theo tôi, không còn đủ cho thơ của chúng ta. Nhiều nhà thơ đang đập vỡ để xây dựng, thơ tìm tòi trăm nghìn phía nhưng lúc nào cũng là một sức đang lên như thổi.
Tôi cho rằng chúng ta không nên lo thơ đi vào hình thức này hay hình thức khác. Mà trước hết nên lo sao thơ phải nói lên được những tình cảm, tư tưởng mới của thời đại. Dùng bát cứ hình thức nào, miễn là thơ diễn tả được đúng tâm hồn con người mới ngày nay.
Vượt khỏi tất cả mọi luật lệ, không phải thơ trở nên buông thả, bừa bãi. Sự cẩu thả, buông lỏng chưa bao giờ đi đôi được với nghệ thuật. Nhưng câu chuyện luật lệ trong thơ cũng như cau chuyện kỉ luật trong cách mạng. Kỉ luật của những tổ chức cách mạng chưa bao giờ dựa trên sự trừng phạt đe doạ mà tồn tại được, kỉ luật ấy phải tự giác mới bền vững. Nghệ thuật có kỉ luật sắt của nó, nhưng đó không thể là những trói buộc, lề lối định sẵn bên ngoài. Nó phải là sự tự kiểm soát, tự chủ từ bên trong sự sáng tác mà ra. Bỏ những luật lệ máy móc bên ngoài, những luật lệ bản thân của nghệ thuật, những luật lệ từ bên trong mà ra, chỉ càng quan trọng hơn. Đạp đổ bức tường giam trước mặt rồi, giới hạn chỉ còn do sức đi xa của mình.
12-9-1949
(Tuyển tác phẩm văn học Nguyễn Đình Thi, Tiểu luận – Bút kí, NXB Văn học, Hà Nội, 2001)
V. Dàn ý phân tích Mấy ý nghĩa về thơ
1. Mở bài
Giới thiệu về tác giả, tác phẩm:
– Nguyễn Đình Thi (1924 – 2003) là một nhà trí thức yêu nước. Nguyễn Đình Thi đã giữ nhiều vị trí lãnh đạo trong công tác văn nghệ Việt Nam. Hoạt động văn nghệ của Nguyễn Đình Thi trên nhiều lĩnh vực như viết văn, làm thơ, viết lí luận phê bình, viết kịch bản văn học, sáng tác ca khúc. Về thơ, ông để lại nhiều dấu ấn với nhiều bài thơ hay và ý nghĩa.
– “Mấy ý nghĩ về thơ” được Nguyễn Đình Thi viết vào ngày 12-9-1949 tại chiến khu Việt Bắc trong thời kháng chiến chống Pháp. “Mấy ý nghĩ về thơ” là những ý kiến, bình luận của tác giả về thơ ca đương thời.
2. Thân bài
– Phân tích luận điểm thứ nhất: Một vài nhìn nhận hoặc định nghĩa về thơ.
+Nguyễn Đình Thi không chăm chăm vào một định nghĩa cố định về thơ nào đó mà ông hướng đến những cách nhìn mới về thơ, theo tác giả thì có ba cái nhìn đã được nêu ra: thứ nhất là “lời đẹp”, thứ hai là “đề tài đẹp”, thứ ba là “thơ khác với các thể văn khác ở chỗ thơ in sâu vào trí nhớ”.
+Theo Nguyễn Đình Thi, cả ba cách nhìn nhận về thơ đều có phấn phiến diện, vì trong thực tiền thơ ca đã chứng minh đi ngược lại
+Qua đây tác giả muốn nhấn mạnh rằng đề tài làm thơ cần phải sát thực tế hơn, đa dạng hơn không nên chỉ lấy một đề tài nào đó làm kim chỉ nam để sáng tác từ đầu chí cuối.
– Phân tích luận điểm thứ hai: Thơ là tiếng nói của tâm hồn
+ Hình ảnh trong là hình ảnh của cuộc sống trong tâm hồn con người trong một cảnh hay một tình huống.
+ Thơ phản ánh tâm hồn của con người, là tiếng nói chân thực xuất phát từ tâm can, nhà thơ mượn câu từ, hình ảnh trong thơ để nói lên tiếng nói của tâm hồn mà đôi khi những lời trực tiếp không thể diễn đạt được mà phải gián tiếp qua các hình ảnh trong thơ.
– Phân tích luận điểm thứ ba: Đặc trưng của thơ
+Hình ảnh thơ là hình ảnh của cuộc sống trong tâm hồn con người trong một cảnh hay một tình huống đó là những hình ảnh không hề phù phiếm, cầu kì
+ Cái thực trong thơ được tác giả khẳng định “Thực trong thơ là tìm được những hình ảnh sống, những hình ảnh có sức lôi cuốn và thuyết phục người đọc”;
Cái thực ở đây là những hình lí luận thuyết phục người đọc, không bị rập khuân vào những gì được xây dựng trước.
Cái thực làm ta vừa thấy lạ vừa thấy quen mà lại mang lại cho ta cảm giác mới mẻ, khác lạ.
+“Thơ là một thứ nhạc”,“Một thứ nhịp điệu bên trong, một thứ nhịp điệu của hình ảnh, tình ý”. Các câu chữ và tiếng trong thơ phải chau chuốt giàu hình tượng, giàu tính biểu cảm và hàm súc, hơn hết là sự đa nghĩa của từ ngữ trong thơ.
+“Chữ và tiếng trong thơ, phải còn có một giá trị khác, ngoài giá trị ý niệm”. Tác giả muốn nhắc đến tính đa nghĩa trong thơ, từ câu chữ trong thơ mà gợi cho người đọc đến những hàm nghĩa khác.
+Thơ mang ý nghĩa biểu đạt tình cảm sâu sắc nên “đường đi của thơ là con đường đưa thẳng vào tình cảm, không quanh co,…”.
– Phân tích luận điểm cuối: Thơ tự do và thơ không vần;
+Ngôn ngữ thơ: là ngôn ngữ có hình ảnh có tư tưởng, có cảm xúc và tất cả đều xuất phát từ cái thực mà ra. Nguyễn Đình Thi quan niệm về thơ tự do, thơ không vần.
+Tác giả công nhận vai trò to lớn của luật thơ, vần cũng như nhịp thơ nhưng cũng khẳng định nhiều tác giả không cần những luật những vân, nhịp đó vẫn thành công với thơ tự do, thơ không vần
+Khẳng định một cách chắc chắn rằng dù có dùng bất cứ hình thức nào để diễn đạt nhưng “miễn là thơ diễn được đúng tâm hồn con người mới hiện nay”.
+Quan niệm về thơ của Nguyễn Đình Thi quan niệm về thơ tự do, thơ không vần là xác đáng, bám sát thực tế với nền thơ ca đương thời
– Tài năng nghệ thuật trong tác phẩm “Mấy ý nghĩ về thơ”
=> “Mấy ý nghĩ về thơ” đã thể hiện được sự tài hoa của Nguyễn Đình Thi trong nghệ thuật lập luận đưa dẫn chứng, sử dụng từ ngữ, hình ảnh…
+Tác giả sử dụng các luận điểm chính xác, chặt chẽ, rõ ràng. Vận dụng linh hoạt các biện pháp nghị luận như so sánh, phân tích,…
+ Dẫn chứng thì xác thực, bám sát thực tế có tác dụng liên hệ thực tế cao. Từ ngữ chau chuốt, chọn lọc một cách kĩ càng.
+Lối viết giàu cảm xúc, giàu hình ảnh.
3. Kết bài
Giá trị để lại của “Mấy ý nghĩ về thơ”
Quan niệm về thơ của Nguyễn Đình Thi ngày nay còn có giá trị. Thơ ca gắn bó mật thiết với cuộc sống, đó là một hình thức nghệ thuật mà ở bất kì ở thời kì nào đều có giá trị to lớn. Có nhiều quan niệm khác về thơ nhưng những luận điểm, luận cứ của Nguyễn Đình Thi về thơ vẫn có tầm ảnh hưởng sâu rộng. Những quan niệm của Nguyễn Đình Thi về thơ đã định hướng căn bản về thơ ca nói chung và sự cảm thụ về thơ ca nói riêng.
Bài văn tham khảo
Đã là một thi sĩ, không mấy ai không có những suy nghĩ riêng về thơ, được phát biểu dưới dạng này hay dạng khác. Nhìn trên đại thể, đó đều là những suy nghĩ đáng trân trọng. Tuy nhiên, không phải suy nghĩ nào, phát biểu nào cũng gây dược sự chú ý rộng rãi, nếu nó không đạt tới một khả năng khái quát cần thiết và không thể hiện được một định hướng sáng tạo rõ ràng, có tính cách tân. Điều đáng nói là khi tham gia phát biểu về thơ, nhiều người rất thích nêu định nghĩa, và cụm từ "thơ là"... thường được nhắc đi nhắc lại. Hẳn họ thật lòng tin rằng định nghĩa về thơ do mình đưa ra là có giá trị của chân lí phổ quát. Sự thực, mọi định nghĩa về thơ chỉ "đúng" một cách tương đối. Trước hết, hãy tạm cho rằng chúng chỉ dúng với trường hợp của người đã phát biểu quan niệm, định nghĩa đó mà thôi.
Nguyễn Đình Thi hẳn ý thức rất rõ điều này. Bài viết của ông không hướng tới một định nghĩa khép kín, mà gợi mở những suy nghĩ mới về thơ, gợi mở chân trời sáng tạo rộng lớn ở phía trước cho những nhà thơ Việt Nam vào thời điểm những năm cuối của thập niên bốn mươi của thế kỉ XX, tức là thời điểm có những chuyển biến cách mạng lớn lao trong đời sống xã hội, và con đường hiộn đại hoá thơ ca Việt đã tiến được một bước dài. Đây là một trong những bài phát biểu quan niệm về thơ thực sự có giá trị và gần đây rất hay được nhắc tới, mỗi khi người ta đề cập đến con đường thơ cũng như khá nàng cách tân thơ của người nghẹ sĩ đa tài Nguyễn Đình Thi.
Trong phần đầu bài viết, tác giả đối thoại với một số cách nhìn nhận về thơ đã từng chi phối hành động sáng tạo và cảm thụ thơ của một bộ phận khá lớn thi sĩ và độc giả. Có ba cách nhìn nhận đã được nêu lên: đã là thơ thì phải có "lời đẹp" ; đề tài của thơ phải là "đề tài đẹp" ; "thơ khác với các thể văn khác ở chỗ thơ in sâu vào trí nhớ". Theo tác giả, cả ba cách nhìn nhận nêu trên đều có phần phiến diện, bởi có nhiều ví dụ trong thực tiễn thi ca chứng minh điều ngược lại. Cách đối thoại của tác giả hết sức nhẹ nhàng, nhưng điều có thể được rút ra từ đây thì rất có sức nặng: những chữ tầm thường của lời nói hằng ngày hoàn toàn có thể được đưa vào thơ và có thể vẫn đầy chất thơ ; "Nhà thơ ngày nay không đi tìm cái muôn đời viễn vông bên ngoài cuộc sống thực của con người" và những đề tài phong hoa tuyết nguyệt, nhớ mong sầu luỵ đã không còn là những đề tài thiết yếu nữa. Những điều vừa "rút ra" đó phản ánh một quan niệm mới về thơ của Nguyễn Đình Thi - cái quan niệm nếu trử thành nhận thức phổ biến thì có thể sẽ đưa thơ ca Việt Nam đi tới những bước chuyển lớn.
Sang phần tiếp theo, để làm sáng tỏ giả định: "Đầu mối của thơ có lẽ ta đi tìm bên trong tâm hồn con người chăng ?", tác giả đã miêu tả (thông qua những hình ảnh so sánh rất ý vị) trạng thái tâm hồn con người khi có "rung động thơ" và vai trò của bài thơ trong việc thể hiện cũng như làm lan truyền sự rung động ấy. Theo tác giả, bài thơ hình thành trong tâm trí nhà thơ hay ngân lên trong nỗi nhớ của độc giả một khi ở họ xuất hiện "trạng thái tâm lí đang rung chuyển khác thường", "do một sự va chạm nào với thế giới bên ngoài, với thiên nhiên, với những người khác". Chính sự "va chạm" ấy giúp tâm hồn biết "tự soi vào nó". Và khi làm thơ, nhà thơ không phải sống với kí ức thuần tuý mà sống với sự tương tác giữa kí ức và điều đang trải nghiệm ngay lúc đó. Quá khứ và hiện tại quyện hoà vào nhau trên nền tự ý thức của nhà thơ làm nảy sinh cảm xúc thơ. Ý nghĩ này của tác giả cũng có điểm gần gũi với ý nghĩ của nhà thơ Uy-li-am Uốtx-uốt: "Tôi đã nói rằng thơ là sự tuôn trào bột phát những tình cảm mãnh liệt: nó bắt nguồn từ trong cảm xúc được nhớ lại trong sự bình tâm; cảm xúc được chiêm nghiệm cho tới lúc, do một thứ phản ứng đặc biệt, sự bình tâm dần dần bị biến mất, và một cảm xúc khác thần thuộc với cái trước đó là đối tượng của sự chiêm nghiệm lần lần nảy sinh và nó thực sự tồn tại trong tâm tưởng".
Tác giả quan niệm, bài thơ có một khả năng kì diộu là bảo lưu sống động trạng thái tâm hồn của nhà thơ khi anh ta làm thơ, thông qua những "chữ", những "lời". Chính những "chữ", những "lời" đó lại là đầu mối đưa đến sự giao cảm giữa nhà thơ và bạn đọc. Đã có "rung động thơ", nghĩa là một loại hình rung động khác thường như đã nói trên, độc giả dễ dàng cộng hưởng với những tần số rung động của nhà thơ "khi nhìn những chữ, khi nghe những lời", bởi kéo theo lời, chữ ấy là "những hình ảnh, những ý nghĩ, những mong muốn, những tình cảm", như thể một "vùng sáng xung quanh ngọn lửa". Hình ảnh so sánh mà tác giả đưa ra ở dây vô cùng tinh tế. Nó cũng lung linh như chính bản chất thơ và đã diễn tả được một cách sống động cái gọi là sự gắn bó hữu cơ giữa nội dung và hình thức ở loại hình sáng tác này.
Trước đoạn bàn trực tiếp về hình ảnh trong thơ, tác giả khẳng định "thơ phải có tư tưởng, có ý thức", nhưng "thơ không nói bằng ý niệm thuần tuý", bởi nếu thế, thơ đã bị đánh đồng với đạo đức (luận lí, triết học,... Con đường của thơ hướng tới việc "lay động những chiều sâu của tâm hồn, đem cảm xúc mà đi thẳng vào sự suy nghĩ", do vậy, nó cần phải có hình ảnh. Tuy nhiên, hình ảnh ở đây không thể là hình ảnh mang tính chất minh hoạ thuần tuý cho tư tưởng hay là sự "phiên dịch" ý tình một cách giản đơn. Nó cũng không phải là một cái gì "cầu kì", rắc rối. Đổ diễn tả quan niệm về hình ảnh, tác giả lại đưa ra ngay một hình ảnh so sánh rất ý vị: "Hình ảnh của thơ trái lại, phải là hình ảnh thực nảy lên trong tâm hồn khi ta sống trong một cảnh huống hoặc trạng thái nào đấy. Đụng chạm với hành động hằng ngày, tâm hồn nảy lên bao nhiêu hình ảnh như những tia lửa toé lên khi búa đập vào sắt trên đe. Người làm thơ lượm những tia lửa ấy, kết nên một bó sáng, nó là hình ảnh thơ". Phải nói rằng với hình ảnh trong đoạn văn vừa dẫn, Nguyễn Đình Thi không chỉ cho ta nắm bắt được một thông tin mang tính khoa học về thơ mà còn làm ta rung cảm để tiếp theo nhận ra một cái gì đó của thơ không dễ nói bằng ngôn từ luận lí. Chính các hình ảnh "tia lửa", "bó sáng" mà tác giả dùng trong trường hợp này cũng thấm đẫm chất thơ, mặc dù rõ ràng chúng không phải là hình ảnh thơ. Nhằm làm sáng tỏ hơn nữa quan niệm của mình về hình ảnh thơ, tác giả còn lưu ý nhà thi sĩ về một số điểm thuộc "quy trình sáng tạo": đừng vội "chăng lưới bắt lấy ý nghĩ hay tình cảm", đừng "cố gắng nặn nọt". Vấn đề là ở chỗ: hình ảnh thơ là "hình ảnh sống", nó đến theo kiểu "bắt chợt", nó có khả năng "truyền cảm", nó mang tính "tự nhiên", "tươi nguyên", "mới mẻ", đột ngột", "lạ lùng", thoát ra khỏi "thói quen", "sự rập khuôn". Hiểu tất cả những điều đó rồi thì việc nhà thơ cần làm là: "đi giữa cuộc đời, mở rộng cả tâm hồn mình" để "mỗi con mắt nhìn gặp trên dường, mỗi cảnh ngộ, mỗi con người cho đến mỗi tiếng nghe thấy, mỗi giọt nắng, mỗi chiếc lá tự nhiên mà vào trong lòng", "động sâu đến tư tưởng và tình cảm". Khi ấy, "hình ảnh tự nhiên hiện lên trước nhất", quen mà lạ, gần gũi mà hàm chứa bao điều sâu xa !
Bàn về "chữ", "tiếng" trong thơ, tác giả cũng có những tư tưởng mới mẻ và dộc đáo. Người ta vẫn thường nói "chữ nào nghĩa nấy", điều đó đúng theo một số góc nhìn nhất định. Nhưng trong thơ, theo tác giả, "chữ", "tiếng" không chỉ có giá trị "ý niệm". Nếu chí có thế, "Mỗi chữ và tiếng mới như một ngọn nến trắng cắt bằng giấy dán trên nền đen. Mỗi ngọn nến vẫn trắng như nền đen vẫn đen. Mỗi chữ là một nghĩa nhưng bài thơ vẫn chưa có hồn". Tác giả viết tiếp: "Người làm thơ chọn chữ và tiếng không những vì ý nghĩa của nó, cái nghĩa thế nào là thế ấy, đóng lại trong một khung sắt. Điều kì diệu của thơ là mỗi tiếng, mỗi chữ, ngoài cái nghĩa của nó, ngoài công dụng gọi tên sự vật, bỗng tự phá tung mở rộng ra, gọi đến xung quanh nó những cảm xúc, những hình ảnh không ngờ, toả ra xung quanh nó một vùng ánh sáng động đậy. Sức mạnh nhất của câu thơ là ở sức gợi ấy". Ở đây, các hình ảnh được đưa ra ví von có một khả năng biểu đạt ý tưởng hết sức đắc lực. Với trường hợp Nguyễn Đình Thi, tư duy lí luận và tư duy thơ không nằm trong tương quan loại trừ mà ngược lại. Nhiều tiểu luận của ông dọc rất hấp dẫn chính nhờ đặc điểm này, cũng thế, nhiều bài thơ của ông vừa mạnh phần cảm giác (do hệ thống hình ảnh tạo nên), vừa giàu phẩm chất trí tuệ. Gây ấn tượng mạnh nhất trong đoạn văn, cũng có thể nói là trong cả bài, chính là hình ảnh sau đây: "Mỗi chữ như một ngọn nến đang cháy, những ngọn nến ấy xếp bên nhau thành một vùng sáng chung. Ánh sáng không những ở đầu ngọn nến, nó ở tất cả xung quanh những ngọn nến. Ý thơ không những trong những chữ, nó vây bọc xung quanh". Thật khó có thể chọn được một cách nói nào hay hơn về "chữ", về mối quan hệ tương tác giữa các "chữ" trong bài thơ. Là một người được đào luyện trong môi trường Tây học, rất có thể, khi phát biểu điều này, tác giả đã có sự kế thừa những quan niệm về thơ từng được nhiều nhà thơ và nhà nghiên cứu văn học phương Tây nêu lên trong mấy thập niên đầu của thế kỉ XX. ít ra, nó cũng là một khái quát lí luận phù hợp với những tìm tòi mới trong thơ của các nhà thơ Việt Nam hậu kì thơ mới như Bích Khê hay một số nhà thơ thuộc nhóm Xuân thu nhã tập. Theo những nhà thơ này, từ, ngữ ("chữ", "tiếng") từ chỗ là một dấu hiệu (signe) hiểu nghĩa, hoàn toàn mang tính chất quy chiếu (có chức năng chỉ một đối tượng rất xác định nào đó), đã đoạt lấy vị trí chủ động, có giá trị tự thân, không hoàn toàn chịu sự sai khiến "độc đoán" của nhà thơ, là từ, ngữ - sự vật (mots - choses).
Nói đến thơ, không ai không chú ý tới "yếu tố" nhịp điệu. Nguyễn Đình Thi cũng thế. Vả lại, theo lô gích của vấn đề, ông đang muốn trình bày cách hiểu của mình về nhịp điệu để cắt nghĩa "cái kì diệu của tiếng nói trong thơ" được nêu ở phần viết trên. Với ông, "nhịp điệu của thơ không những là nhịp điệu bằng bằng, trắc trắc, lên bổng xuống trầm như tiếng đàn êm tai" mà chủ yếu là "nhịp điệu bên trong, một thứ nhịp điệu của hình ảnh, tình ý, nói chung là của tâm hồn". Ông khẳng định: nhịp điệu trong thơ "là nhịp điệu hình thành của những cảm xúc, hình ảnh, liên tiếp hoà hợp, mà những tiếng và chữ gọi ra như những ngân vang dài, ngay những khoảng lung linh giữa chữ, những khoảng im lặng cũng là nơi trú ngụ kín đáo của sự xúc động". Trên thực tế, điều vừa được tác giả phát biểu vốn đẵ được ông vận dụng vào chính hành động sáng tác thơ của mình. Việc ông theo đuổi tạo ra một thứ thơ không vần trong những năm cuối thập niên bốn mươi và những năm đầu thập niên năm mươi của thế kỉ XX là một việc làm đầy ý thức, được thôi thúc bởi ý chí cách tân mạnh mẽ (đọc lại những bài như Sáng mát trong như sáng năm xưa (1948), Đêm mít tinh (1949), ta có thể kiểm nghiêm điều này). Như vậy, ở Nguyễn Đình Thi, việc nêu quan niệm thơ cũng là việc báo trước một chặng đường phát triển mới của thơ ca Việt, mà trong sự phát triển đó, ông có góp phần tích cực. Tất nhiên, khi đã nhận thấy giá trị của "những khoảng lung linh giữa chữ", "những khoảng im lặng", tác giả hoàn toàn có cơ sở để viết rằng:"Đường đi của thơ là con đường đưa thẳng vào tình cảm, không quanh co, qua những chặng, những trung gian, những cột cây số. Văn xuôi lôi cuốn người như dòng nước, đưa ta đi lần lượt, từ điểm này qua điểm khác. Thơ, trái lại, chỉ chọn một ít điểm chính, bấm vào những điểm ấy thì toàn thể động lên theo", và: "Thơ là tổng hợp, kết tinh. Văn xuôi được phép không mười phần hoàn hảo, nhưng thơ thì luôn luôn đòi hỏi sự toàn bích". Không phải ổng đã cực đoan khi kết luận như trên. Chẳng qua những từ "hoàn hảo", "toàn bích" đã được hiểu theo một nghĩa riêng, do văn cảnh bài viết xác định.
Phần cuối của bài viết được dành để bàn riêng về thơ tự do, thơ không vần - một vấn đề có tính thời sự vào thời điểm đó. Tác giả tỏ ý ngờ vực lập luận cho rằng thơ Việt không thể thiếu vần. Trong khi thừa nhận "những luật lệ của thơ, từ âm điệu, đến vần, đều là những võ khí rất mạnh trong tay người làm thơ", tác giả vẫn nghĩ không phải cứ hễ thiếu chúng thì người làm thơ không thể có thơ, hay nói cách khác là không thể "thắng" trong "trận đánh" của nghệ thuật. Ông nói rõ: "không có vấn để thơ tự do, thơ có vần và thơ không có vần. Chỉ có thơ thực và thơ giả, thơ hay và thơ không hay, thơ và không thơ". Ở đây cần phải hiểu đúng ý tác giả, rằng một nền thơ không thể chỉ có một sự lựa chọn duy nhất đối với một hình thức thơ nào đó. Thơ tự do, có vần hay không vần đều có chỗ đứng của mình. Ông láy lại ý này trong câu "Tôi cho rằng chúng ta không nên lo thơ đi vào hình thức này hay hình thức khác. Mà trước hết nên lo sao thơ phải nói lên được những tình cảm, tư tưởng mới của thời đại. Dùng bất cứ hình thức nào, miễn là thơ diễn tả được đúng tâm hồn con người mới ngày nay". Đây hiển nhiên là một tư tưởng đúng, nhưng phải chăng nó có thể dẫn tới một sự dung hoà ít có tác dụng kích thích sự sáng tạo ra cái mới, đặc biệt là cái mới thuộc phạm trù hình thức thơ ? Sự thực không phải thế. Chẳng qua tác giả muốn tránh lối nhìn nhận vấn đề cực đoan, độc đoán, còn nếu theo chủ kiến của riêng mình, ông muốn thơ củà thời đại mới này phải thoát khỏi những "hình thức đổu dặn, cố định" để tiến đến một hình thức khác, nhịp điộu khác, phản ánh được nhịp sống trẻ trung, sôi nổi, ào ạt của cuộc đời cách mạng. Với tầm bao quát rộng rãi nhiều dữ kiện của đời sống và nghệ thuật, tác giả không quên lường tính và giải đáp trước những câu hỏi, những băn khoăn, thắc mắc có thể được đặt ra cho con đường đi tới của thơ, xuất phát từ nhiều đối tượng khác nhau. Không, hình thức mới không bao giờ là sự phế bỏ giản đơn những hình thức cũ, ngược lại, trong nó, những hình thức cũ đã được tái tạo, được nâng lcn một trình độ cao hơn so với trước. Một vấn đề khác là không nên quá lo thơ sẽ trở nên "buông thả, bừa bãi", bởi những điều đó "chưa bao giờ đi đôi được với nghệ thuật". Khi lường tính và giải đáp những câu hỏi này, tính chính luận của bài viết được bộc lộ rất đậm nét. Dường như một quan điểm văn nghệ đầy tính cởi mở đã được xây dựng cùng vói những dòng viết sau: "Kỉ luật của những tổ chức cách mạng chưa bao giờ dựa trên sự trừng phạt de doạ mà tồn tại được, kỉ luật ấy phải tự giác mới bền vững. Nghệ thuật có kỉ luật sắt của nó, nhưng đó không thể là những trói buộc, lề lối định sẩn bên ngoài. Nó phải là sự tự kiểm soát, tự chủ từ bên trong sự sáng tác mà ra. Bỏ những luật lệ máy móc bên ngoài, những luật lệ bản thân của nghệ thuật, những luật .lệ từ bên trong mà ra, chỉ càng quan trọng hơn. Đạp'đổ bức tường giam trước mặt rồi, giới hạn chỉ còn do sức đi xa của mình". Ta nhận thấy ở đây vừa là một lời nhắc nhở đối với những người chịu trách nhiệm lãnh đạo văn nghệ, vừa là một lời tự nhắc của giới văn nghệ về sứ mệnh, chức năng của mình.
Mấy ý nghĩ về thơ là bài viết rất tiêu biểu cho phong cách tiểu luận văn học Nguyên Đình Thi. Đọc nó, ta cảm thấy tiếc vì nhiều ý nghĩ độc đáo trong đó một thời chưa được đánh giá đúng mức, chưa được nhìn nhận như một sự gợi ý quý báu đối với vấn đề định hướng phát triển cho cả nền thơ, nền văn học. Tuy nhiên, những giá trị thật thì cứ còn mãi, huống chi, không ít điều được nói hôm qua dến hôm nay vẫn còn nguyên tính thời sự.
Xem thêm các chương trình khác:
- Giải sgk Toán 12 – Kết nối tri thức
- Giải Chuyên đề học tập Toán 12 – Kết nối tri thức
- Lý thuyết Toán 12 – Kết nối tri thức
- Giải sbt Toán 12 – Kết nối tri thức
- Bài tập Tiếng Anh 12 Global success theo Unit có đáp án
- Giải sgk Tiếng Anh 12 - Global success
- Trọn bộ Từ vựng Tiếng Anh 12 Global success đầy đủ nhất
- Trọn bộ Ngữ pháp Tiếng Anh 12 Global success đầy đủ nhất
- Giải sbt Tiếng Anh 12 – Global Success
- Giải sgk Vật lí 12 – Kết nối tri thức
- Giải Chuyên đề học tập Vật lí 12 – Kết nối tri thức
- Lý thuyết Vật lí 12 – Kết nối tri thức
- Giải sbt Vật lí 12 – Kết nối tri thức
- Giải sgk Hóa học 12 – Kết nối tri thức
- Giải Chuyên đề học tập Hóa 12 – Kết nối tri thức
- Lý thuyết Hóa 12 – Kết nối tri thức
- Giải sbt Hóa 12 – Kết nối tri thức
- Chuyên đề dạy thêm Hóa 12 cả 3 sách (chương trình mới 2025)
- Giải sgk Sinh học 12 – Kết nối tri thức
- Giải Chuyên đề học tập Sinh học 12 – Kết nối tri thức
- Lý thuyết Sinh học 12 – Kết nối tri thức
- Giải sbt Sinh học 12 – Kết nối tri thức
- Giải sgk Lịch sử 12 – Kết nối tri thức
- Giải Chuyên đề học tập Lịch sử 12 – Kết nối tri thức
- Giải sbt Lịch sử 12 – Kết nối tri thức
- Giải sgk Địa lí 12 – Kết nối tri thức
- Giải Chuyên đề học tập Địa lí 12 – Kết nối tri thức
- Giải sbt Địa lí 12 – Kết nối tri thức
- Giải sgk Tin học 12 – Kết nối tri thức
- Giải Chuyên đề học tập Tin học 12 – Kết nối tri thức
- Giải sbt Tin học 12 – Kết nối tri thức
- Lý thuyết Tin học 12 - Kết nối tri thức
- Giải sgk Công nghệ 12 – Kết nối tri thức
- Giải sgk Kinh tế pháp luật 12 – Kết nối tri thức
- Giải Chuyên đề học tập Kinh tế pháp luật 12 – Kết nối tri thức
- Giải sbt Kinh tế pháp luật 12 – Kết nối tri thức
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 – Kết nối tri thức
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 – Kết nối tri thức