TOP 14 mẫu Tóm tắt Nhìn về vốn văn hóa dân tộc (2025) hay, ngắn gọn - Kết nối tri thức

Với Tóm tắt Nhìn về vốn văn hóa dân tộc Ngữ văn lớp 12 hay, ngắn gọn sách Kết nối tri thức giúp học sinh nắm được trọng tâm văn bản Nhìn về vốn văn hóa dân tộc từ đó học tốt môn Ngữ văn 12.

1 2,615 02/12/2024
Tải về


Tóm tắt Nhìn về vốn văn hóa dân tộc - Ngữ văn 12

Tóm tắt Nhìn về vốn văn hóa dân tộc (mẫu 1)

Tác giả phân tích mặt tích cực và hạn chế của văn hóa truyền thống. Từ đây, trân trọng văn hóa truyền thống và hướng đến hội nhập quốc tế.

Tóm tắt Nhìn về vốn văn hóa dân tộc (mẫu 2)

Đoạn trích với những nhận định mang tính bao quát, một cái nhìn khách quan trong việc phân tích, đánh giá khoa học về giá trị, bản sắc văn hóa của nước ta.

Tóm tắt Nhìn về vốn văn hóa dân tộc hay, ngắn gọn (5 mẫu) (ảnh 1)

Tóm tắt Nhìn về vốn văn hóa dân tộc (mẫu 3)

Tác giả nêu ra những hạn chế của văn hóa truyền thống dân tộc. Văn học Việt chưa có tầm vóc lớn lao, chưa có vị trí quan trọng, chưa nổi bật và chưa có khả năng ảnh hưởng đến các nền văn học khác. Văn hóa Việt Nam cũng có thế mạnh: thiết thực, linh hoạt, dung hòa, lành mạnh với những vẻ đẹp dịu dàng, thanh lịch; con người hiền lành, tình nghĩa. Việt Nam có nhiều tôn giáo nhưng không xảy ra xung đột. Người Việt Nam sống tình nghĩa, khôn khéo và hài hòa với thiên nhiên. Về nghệ thuật, người Việt sáng tạo tác phẩm tinh tế, không mang vẻ vĩ mô, tráng lệ, phi thường. Về quan niệm sống, người Việt luôn mong ước thái bình, sống thanh nhàn, thong thả. Văn hóa Việt ảnh hưởng sâu sắc bởi học thuyết Phật giáo, Nho giáo và tư tưởng Lão – Trang.

Tóm tắt Nhìn về vốn văn hóa dân tộc (mẫu 4)

Tác giả nêu ra những hạn chế của văn hóa truyền thống dân tộc. Văn học Việt chưa có tầm vóc lớn lao, chưa có vị trí quan trọng, chưa nổi bật và chưa có khả năng ảnh hưởng đến các nền văn học khác. Văn hóa Việt Nam cũng có thế mạnh: thiết thực, linh hoạt, dung hòa, lành mạnh với những vẻ đẹp dịu dàng, thanh lịch; con người hiền lành, tình nghĩa. Việt Nam có nhiều tôn giáo nhưng không xảy ra xung đột. Người Việt Nam sống tình nghĩa, khôn khéo và hài hòa với thiên nhiên. Về nghệ thuật, người Việt sáng tạo tác phẩm tinh tế, không mang vẻ vĩ mô, tráng lệ, phi thường. Về quan niệm sống, người Việt luôn mong ước thái bình, sống thanh nhàn, thong thả. Văn hóa Việt ảnh hưởng sâu sắc bởi học thuyết Phật giáo, Nho giáo và tư tưởng Lão – Trang. Cái gốc của văn hóa Việt Nam là tính nhân bản và tinh thần chung của văn hóa Việt Nam là thiết thực, linh hoạt, dung hòa.

Tóm tắt Nhìn về vốn văn hóa dân tộc (mẫu 5)

“Nhìn về vốn văn hóa dân tộc” tác giả Trần Đình Hựu-nhà khoa học chuyên nghiên cứu về vấn đề lịch sử tư tưởng và văn hóa Việt Nam trung cận đại. Đoạn trích trong sách giáo khoa thuộc phần II của bài viết “Về vấn đề đặc sắc văn hóa dân tộc” với những nhận định mang tính bao quát, một cái nhìn khách quan trong việc phân tích, đánh giá khoa học về giá trị, bản sắc văn hóa của nước ta lúc bấy giờ. Trước hết để người đọc hiểu sâu sắc bài viết của mình tác giả đưa ra khái niệm văn hóa và chỉ ra các phương diện chủ yếu văn hóa được biểu hiện ra bên ngoài như: tôn giáo, nghệ thuật, kiến trúc, hội họa, văn học, ứng xử, sinh hoạt. Ở mỗi một khía cạnh đó Trần Đình Hựu chỉ ra các điểm tích cực và hạn chế cùng với những nguyên nhân, yếu tố tạo nên bản sắc văn hóa (nội lực, ngoại lực) để tìm cách khắc phục. Nhưng nhìn chung đặc điểm nổi bật của văn hóa Việt Nam là giàu tính nhân bản, tinh tế, hướng tới sự phát triển hài hòa trên tất cả các phương diện với tinh thần chung “thiết thực, linh hoạt và dung hòa”. Ta không thấy trong bài viết có sự khen hay chê hoàn toàn mà tất cả đều hướng tới một mục đích duy nhất là làm cho văn hóa Việt Nam ngày càng phát triển, hội nhập với sự tiến bộ của thế giới nhưng vẫn giữ được nét đẹp truyền thống của dân tộc Việt.

Tóm tắt Nhìn về vốn văn hóa dân tộc (mẫu 6)

Đoạn trích Nhìn về vốn văn hóa dân tộc trích từ phần II, bài “Về vấn đề tìm đặc sắc văn hóa dân tộc”, in trong cuốn “Đến hiện đại từ truyền thống”. Từ những hiểu biết sâu sắc về vốn văn hóa dân tộc, tác giả đã phân tích rõ những mặt tích cực và một số hạn chế của văn hóa truyền thống.

Trước hết, tác giả nêu ra những hạn chế của văn hóa truyền thống dân tộc. Văn học Việt chưa có tầm vóc lớn lao, chưa có vị trí quan trọng, chưa nổi bật và chưa có khả năng ảnh hưởng đến các nền văn học khác. Điều đó được thể hiện qua các phương diện sau: Thần thoại không phong phú; tôn giáo, triết học, khoa học kĩ thuật, âm nhạc, hội họa, không phát triển; thơ ca thì chưa có tác giả nào có tầm vóc lớn lao...

Tóm tắt Nhìn về vốn văn hóa dân tộc hay, ngắn nhất (2 mẫu)

Bên cạnh mặt hạn chế, văn hóa Việt Nam cũng có thế mạnh: thiết thực, linh hoạt, dung hòa, lành mạnh với những vẻ đẹp dịu dàng, thanh lịch; con người hiền lành, tình nghĩa. Việt Nam có nhiều tôn giáo nhưng không xảy ra xung đột. Người Việt Nam sống tình nghĩa, khôn khéo và hài hòa với thiên nhiên. Về nghệ thuật, người Việt sáng tạo tác phẩm tinh tế, không mang vẻ vĩ mô, tráng lệ, phi thường. Về quan niệm sống, người Việt luôn mong ước thái bình, sống thanh nhàn, thong thả.

Văn hóa Việt ảnh hưởng sâu sắc bởi học thuyết Phật giáo, Nho giáo và tư tưởng Lão – Trang nhưng cái gốc của văn hóa Việt Nam là tính nhân bản và tinh thần chung của văn hóa Việt Nam là thiết thực, linh hoạt, dung hòa.

Tóm tắt Nhìn về vốn văn hóa dân tộc (mẫu 7)

Trong bài, người viết đã thoát khỏi thái độ hoặc ngợi ca, hoặc chê bai đơn giản thường thấy khi tiếp cận vấn đề. Tinh thần chung của bài viết là tiến hành một sự phân tích, đánh giá khoa học đối với những đặc điểm nổi bật của văn hoá Việt Nam. Tác giả đã sử dụng giọng văn điềm tĩnh, khách quan để trình bày luận điểm của mình. Người đọc chỉ có thể nhận ra được nguồn cảm hứng thật sự của tác giả nếu hiểu cái đích xa mà ông hướng đến: góp phần xây dựng một chiến lược phát triển mới cho đất nước thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển hiện thời.

Tóm tắt Nhìn về vốn văn hóa dân tộc (mẫu 8)

Trần Đình Hượu (1927-1995) là một nhà văn, nhà nghiên cứu văn học và nho giáo, đặc biệt là chuyên nghiên cứu về các vấn đề lịch sử tư tưởng trong văn học Việt Nam thời kỳ cận đại. Trong suốt cuộc đời nghiên cứu và tìm tòi của mình, ông đã cho ra đời nhiều tác phẩm có giá trị như các công trình nghiên cứu khoa học ấn tượng phải kể đến Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900-1930, Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, Đến hiện đại từ truyền thống,…

Đoạn trích Nhìn về vốn văn hóa dân tộc được trích từ phần II bài Về vấn đề đặc sắc văn hóa dân tộc trong cuốn Đến hiện đại từ truyền thống, thể hiện cái nhìn cũng như những nghiên cứu của Trần Đình Hượu về nền văn hóa dân tộc từ quá khứ đến hiện tại.

Nói về văn hóa, đây là một khái niệm lớn, thường được hiểu là kết tinh những giá trị vật chất và tinh thần của cả một dân tộc, một nền văn minh xuyên suốt chiều dài lịch sử hình thành và phát triển, được gìn giữ kế thừa và phát huy. Văn hóa được xem là đặc điểm chính để phân biệt giữa các dân tộc, quốc gia khác nhau trên bản đồ thế giới một cách đơn giản và dễ hiểu nhất.

Trong phân tích của Trần Đình Hượu văn hóa có thể là “một tôn giáo, một trường phái triết học, một ngành khoa học, một một nền âm nhạc, hội họa,… phát triển rất cao, ảnh hưởng phổ biến lâu dài đến toàn bộ văn hóa, thành đặc sắc văn hóa của dân tộc đó”. Quay lại với văn hóa Việt Nam, Trần Đình Hượu đã chỉ ra một số những phương diện chủ yếu, tuy nhiên không thật sự có một phương diện nào nổi bật đủ đến độ “trở thành đài danh dự, thu hút, quy tụ cả nền văn hóa”, đó có thể nói là những mặt hạn chế rất lớn trong sự phát triển của dân tộc.

Về lý luận triết học, người Việt cũng không có niềm say mê tranh biện, hay chứng minh một cái gì đó cho riêng mình, mà chủ yếu là học hỏi thế giới và phát triển sao cho phù hợp với sự phát triển của dân tộc. Trong văn hóa Việt cũng không có ngành khoa học, giả khoa học, kỹ thuật nào có thể phát triển đến độ thành truyền thống.

Về mặt “âm nhạc, hội họa, kiến trúc đều không phát triển đến độ thành tuyệt kỹ”, những di sản còn sót lại như Nhã nhạc cung đình Huế mới chỉ đạt đến độ đặc sắc, riêng biệt, còn Cửu Trùng Đài thì đã chìm vào dĩ vãng vì sự hoang phí và gây phẫn nộ trong nhân dân thời bấy giờ.

Sau khi chỉ ra những đặc điểm chung và mặt hạn chế của nền văn hóa Việt Nam, Trần Đình Hượu đi sâu vào phân tích những mặt tích cực, nguyên do, chi tiết từng khuynh hướng trong văn hóa của người dân Việt Nam. Về tôn giáo, người Việt Nam không có tâm lý “cuồng thành, cuồng tín” bất kỳ một trường phái nào, mà nghiêng về việc dung hòa giữa các tôn giáo với nhau, chung sống hòa bình, tôn trọng lẫn nhau, có thể nói là “ít có tinh thần tôn giáo”.

Về cách ứng xử, ý thức về sở hữu cá nhân của người Việt không cao, người ta chỉ mong một cuộc sống an cư, thái bình, lạc nghiệp, đủ ăn, đủ sống, quan niệm “sống gửi thác về” ăn sâu vào trong tiềm thức, đối với họ của cải nhiều cuối cùng cũng không thể mang theo sau khi chết. Trong cuộc sống, những người hiền lành, sống tình nghĩa là những con người được yêu quý và ưa chuộng, dân ta không chuộng trí, cũng không chuộng dũng, dù chống giặc ngoại xâm liên tục nhưng cũng không thượng võ.

Việc xây dựng quân đội ngày càng lớn mạnh xưa đến nay chủ yếu là để tự vệ, sẵn sàng chống lại những âm mưu xâm lược, chống quá của kẻ thù chứ không bao giờ có tư tưởng bành trướng, làm bá chủ. Có thể nói rằng dĩ hòa vi quý chính là cốt lõi trong lối ứng xử của người Việt. Trong quan niệm về thẩm mỹ, người Việt ưa chuộng những cái mang sự “vừa khéo”, không “háo hức cái tráng lệ, huy hoàng, không say mê cái huyền ảo, kỳ vĩ”, thay vào đó người ta thích những thứ nhã nhặn, vừa phải.

Trong ăn, mặc, ở người Việt không hướng tới sự cầu kỳ, xa hoa, mà thích những thức quy mô bình thường, vừa đủ thanh lịch, duyên dáng. Đồng thời quý trọng cái sự kín đáo hơn phô trương, trọng Thế hơn Lực, không quan niệm cái gì là vĩnh viễn. Có thể nói rằng tất cả những biểu hiện trên đều là kết quả của một dân tộc có chiều dài lịch sử lâu đời, bươn chải qua nhiều khó khăn, và ý thức rõ ràng về sự nhỏ yếu, còn nhiều gian nan của dân tộc.

Đồng thời những thực tế đó chỉ ra rằng nền văn hóa Việt Nam là một nền văn hóa giàu tính nhân bản, hướng tới sự hài hòa trên nhiều phương diện, thiết thực, linh hoạt và dung hòa với đời sống nhân dân.

Không chỉ dừng lại ở việc chỉ ra hạn chế và tích cực trong văn hóa dân tộc mà Trần Đình Hượu còn hướng người đọc đến với những yếu tố tạo bản sắc văn hóa dân tộc, vốn là những cái riêng biệt, độc đáo, bền vững, hình thành trong quá trình phát triển lâu dài của lịch sử dân tộc. Đó bao gồm nội lực là cách mà người Việt đã xóa bỏ đi những cái “thô dã”, “hung bạo”, để hướng tới những cái nhân bản, tinh thần chung là “linh hoạt, thiết thực, dung hòa”.

Chủ động hướng tới những cái “nhạy cảm tinh nhanh, khôn khéo” để gỡ bỏ khó khăn, tìm sự bình ổn. Về ảnh hưởng của ngoại lực, bao gồm các quá trình đồng hóa, du nhập từ các nền văn hóa khắp nơi trên thế giới, người Việt ta đã thể hiện bản lĩnh, tạo tác, chọn lọc những giá trị phù hợp để xây dựng văn hóa dân tộc.

Thông qua đoạn trích Nhìn về vốn văn hóa dân tộc, ta có thể thấy rằng Trần Đình Hượu đã có một cái nhìn rất thấu đáo, thẳng thắn, sắc sảo về vốn văn hóa của dân tộc. Ông đã đi từ bản chất, nguyên nhân, chỉ ra những mặt hạn chế và tích cực chủ yếu, từ đó khiến độc giả nhìn nhận đúng đắn và có ý thức phát huy những cái tốt, đồng thời tìm cách khắc phục những phương diện còn hạn chế.

Tóm tắt Nhìn về vốn văn hóa dân tộc (mẫu 9)

Mỗi dân tộc đều biểu hiện một nét đẹp văn hóa riêng, chính vì thế trong tác phẩm Nhìn về vốn văn hóa dân tộc, Trần Đình Hượu đã sáng tạo và bàn về những khía cạnh của văn hóa, nó được biểu hiện về nhiều phương diện như tôn giáo, nghệ thuật, ứng xử hay cách sinh hoạt của con người.

Trong tác phẩm, tác giả đã bàn về các lĩnh vực quen thuộc của mỗi một quốc gia, mỗi dân tộc, ở đó con người biểu hiện về nét sống, cách sinh hoạt hay giao tiếp trong một cộng đồng người. Với sự sáng tạo đó tác giả đã thể hiện được những nét đặc trưng thông qua những ví dụ, dẫn chứng trong các công trình nghiên cứu, ví dụ như chùa Một Cột, lăng tẩm…, mỗi một công trình kiến trúc gắn với một sự kiện lịch sử riêng.

Văn hóa không chỉ được biểu hiện qua công trình nghệ thuật mà nó còn biểu hiện qua giao tiếp, văn hóa hay phép ứng xử hàng ngày, trong dân gian có rất nhiều câu tục ngữ hay trong đó nó nói về lời ăn tiếp nói hàng ngày của con người ví dụ như “Chim khôn kêu tiếng rảnh rang/ Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe”; hay “Lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau“.

Mỗi công trình văn hóa đều được biểu hiện những nét riêng của một dân tộc, một đất nước, nó phản ánh sâu sắc đời sống của cộng đồng các dân tộc, đó là sự kì vĩ của những công trình kiến trúc, qua đó con người có thể thể hiện được yếu tố tinh thần của mình.

Mỗi dân tộc mỗi quốc gia đều có đa dạng các nền văn hóa, nó có thể tốt xấu, ảnh hưởng mạnh mẽ đến truyền thống của mỗi quốc gia, mỗi vùng miền dân tộc. Mỗi chúng ta cần phải biết tiếp nhận những nền văn hóa theo khía cạnh riêng, lành mạnh và thể hiện được những nét văn hóa riêng của vùng miền, của dân tộc.

Tinh thần văn hóa được biểu hiện những nét đẹp văn hóa của vùng miền, tổ chức hay hệ thống của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, chúng ta không ngừng cải thiện, nâng cao cho mình sự sáng tạo vì một cộng đồng dân tộc, luôn tích cực chủ động, sàng lọc nền văn hóa, học hỏi và tiếp thu truyền thống của cộng đồng dân tộc. Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều phải trải qua quá trình bị xâm nhập văn hóa, nó là nguồn văn hóa mở, tạo nên một nét riêng trong văn hóa của mỗi quốc gia, mỗi vùng miền dân tộc.

Mỗi vùng miền biểu hiện một vùng văn hóa riêng, chính vì thế dân tộc của chúng ta cần phải mở rộng, nâng cao và phát triển văn hóa truyền thống, những giá trị văn hóa cao đẹp, mang lại ý nghĩa to lớn cho mỗi con người. Giá trị văn hóa truyền thống thể hiện những giây phút lịch sử hào hùng của dân tộc, mỗi quốc gia dân tộc đều có những nét văn hóa riêng, chính vì thế nó thể hiện những giá trị truyền thống, văn hóa lịch sử, những di tích lịch sử hào hùng.

Văn hóa biểu hiện cho lối sống của quốc gia, dân tộc đó, chính vì những nét văn hóa điển hình của mỗi vùng miền mà tựu chung thành nền văn hóa của đất nước, của mỗi dân tộc. Văn hóa biểu hiện truyền thống, tôn giáo, những công trình kiến trúc của dân tộc. Tác giả bàn về văn hóa trên nhiều phương diện, nó là phương diện lịch sử, đạo đức, lối sống và tinh hoa riêng của mỗi dân tộc.

Vốn văn hóa của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc là phong phú, nó biểu hiện những vấn đề của dân tộc, của thời đại, phát triển chung về lối sống, tư tưởng và đạo đức của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đối với những vấn đề lịch sử, mọi vấn đề đều được biểu hiện nét riêng, đặc sắc, tinh tế của vùng miền văn hóa đó.

Mỗi chúng ta đều có thể thấy được, tác giả Trần Đình Hượu đã bàn về lối văn hóa của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, nó biểu hiện nét riêng trong văn hóa, lối sống, lịch sử của đất nước, truyền thống, thể hiện cái nhìn mới mẻ về văn hóa của vùng miền, của đất nước.

Tóm tắt Nhìn về vốn văn hóa dân tộc (mẫu 10)

Trần Đình Hượu là một chuyên gia về các vấn đề văn hóa tư tưởng Việt Nam. Ông đã có nhiều công trình nghiên cứu về văn hóa tư tưởng có gía trị: “Đến hiện đại từ truyền thống”(1994), “Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại”(1995).

“Nhìn về vốn văn hóa của dân tộc” là trích đoạn của tiểu luận “Về vấn đề tìm đặc sắc của dân tộc” được Trần Đình Hượu viết từ năm 1986. Trong tác phẩm tác giả đã thoát khỏi thái độ hoặc ngợi ca hoặc chê bai thường thấy khi tiếp cận vấn đề, tinh thần chung của bài viết là tiến hành một sự phân tích đánh giá khoa học đối với những vấn đề nổi bật của văn hóa Việt Nam.

Trước tiên tác giả đã đặt vấn đề về khái niệm của vốn văn hóa. Chúng ta thường nói đến văn hóa ẩm thực hay văn hóa đọc. Vậy văn hóa là gì? Theo đó văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử. Đây là một khái niệm cơ bản của văn hóa trong từ điển tiếng Việt.

Đứng trên khái niệm về văn hóa Trần Đình Hượu đã nêu lên nhận xét khái quát về Văn hóa Việt Nam “chúng ta không thể tự hào nền văn hóa của chúng ta đồ sộ, có những cống hiến lớn lao cho nhân loại hay có những đặc sắc nổi bật”. Tác giả đã phân tích những đặc điểm của vốn văn hóa Việt Nam thông qua nhưng phương diện đời sống cụ thể hàng ngày cả về vật chất lẫn tinh thần.

Về khoa học kĩ thuật không một ngành nào phát triển đến thành truyền thống đáng tự hào. Về âm nhạc hội họa đều không phát triển đến tuyệt kĩ. Chưa bao giờ một nền văn hóa nào của dân tộc trở thành đài danh dự thu hút quy tụ cả nền văn hóa. Về thơ ca Trần Đình Hượu chỉ rõ “trong các ngành nghệ thuật, cái phát triển nhất chính là thơ ca. Hầu như người nào cũng cao dịp cũng có thể làm dăm ba câu thơ ca”.

Tác giả cũng chỉ ra những tôn giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến con người Việt đó là Phật giáo và Nho giáo. Để tạo nên bản sắc văn hóa của dân tộc người Việt Nam đã xác nhận tư tưởng của các tôn giáo này theo hướng “Phật giáo không được tiếp nhận ở khía cạnh trí tuệ cầu giải thoát mà Nho giáo cũng không được tiếp nhận ở nghi lễ tủn mủn, giáo điều khắc nghiệt”. Người Việt tiếp thu Nho giáo để có một cuộc sống trong sạch lành mạnh hài hòa bao dung nhân nghĩa hướng thiện cứu khổ cứu nạn. Tư tưởng nhân nghĩa, yên dân được thể hiện rất nhiều trong thơ ca.

Tác giả nhận định “tinh thần chung của văn hóa là thiết thực dung hòa”. Nhận định này vừa nói lên mặt tích cực vừa tiềm ẩn điểm hạn chế của văn hóa Việt. Vì tính thiết thực trong quá trình sáng tạo khiến văn hóa Việt gắn bó sâu sắc với đời sống của cộng đồng. Tính linh hoạt của văn hóa Việt biểu hiện rõ ở khả năng tiếp thu và biến các giá trị văn hóa sao cho phù hợp với đời sống bản địa của người Việt như Phật giao, nho giáo và đạo giáo.

Tác giả cũng khẳng định “Con đường hình thành bản sắc dân tộc của văn hóa không trông cậy vào sự tạo tác của chính dân tộc đó mà còn trông cậy vào khả năng chiếm lĩnh khả năng đồng hóa các giá trị văn hóa bên ngoài. Về mặt đó lịch sử chứng minh là dân tộc Việt Nam có bản lĩnh”.

Dân tộc ta đã trải qua một thời gian dài bị đô hộ và chịu áp bức nặng nề từ thuộc địa chính vì thế mà dân ta không thể chờ vào sự sáng tạo và sáng tác nữa mà phải “trông cậy vào khả năng chiếm lĩnh khả năng đồng hóa các giá trị văn hóa bên ngoài” là điểu đúng đắn. Như ta đã nói ở trên tuy ta chịu ảnh hưởng của Phật giáo và Nho giáo nhưng ta không tiếp thu toàn bộ nó mà chỉ tiếp thu những đạo lí tốt đẹp, nhưng gì thích hợp với văn hóa Việt Nam.

Bên cạnh đó chúng ta sáng tạo chữ Nôm trên cơ sở chưa Hán tạo nên những tác phẩm mang đậm âm hưởng Việt, chúng ta sáng tạo các thể thơ dân tộc đi đôi với các thể thơ đường luật của Trung Quốc, thơ tự do của phương Tây. Như vậy chúng ta tiếp thu nhưng không bao giờ dập khuôn máy móc, người Việt đã cải biến nó theo những ý nghĩa riêng gắn với đặc trưng riêng của dân tộc mình.

Tóm tắt Nhìn về vốn văn hóa dân tộc (mẫu 11)

Nhìn về vốn văn hoá dân tộc là một đoạn trích của tiểu luận Vê vấn đề tìm đặc sắc văn hoá dân tộc (1996) của Trần Đình Hượu. Với tiểu luận này, mục đích chính mà tác giả đặt ra không phải là xác định rõ ràng từng điểm một vé cái gọi là bản sắc văn hoá dân tộc, mà gợi mở con đường nghiên cứu về nó trong tư cách một vấn để thời sự của chiến lược phát triển đất nước thời kì đổi mới.

Trong tiểu luận, bên cạnh khái niệm vốn văn hoá dân tộc, Trần Đình Hượu cũng dùng một số khái niệm khác như : đặc sắc văn hoá dân tộc, thiên hướng văn hoá dân tộc, tinh thần chung của văn hoá dân tộc. Cách diễn đạt của tác giả không cố định, cứng nhắc. Có khi ông chí viết đơn giản : bản sắc dân tộc, hoặc nói hơi khác : bản sắc dân tộc của văn hoá.

Nhìn chung, theo tinh thần toát lên từ toàn bộ tiểu luận, có thể hiểu vốn văn hoá dân tộc hay bản sắc văn hoá dân tộc là cái giúp khu biệt văn hoá của dân tộc này với văn hoá của dân tộc khác. Bản sắc văn hoá dân tộc là hiện tượng kết tinh, là thành quả tổng hợp cùa một quá trình sáng tạo, tiếp xúc văn hoá, nhào nặn cái vốn có, riêng có của dân tộc với những cái tiếp thu từ bên ngoài. Bản sắc văn hoá vừa có mặt ổn định vừa có mặt biến đổi.

Ổn định không đối lập mà tạo tiền đề cho biến đổi và biến đổi cũng để di đến một dạng ổn định mới, cao hơn, phong phú hơn. Khái niệm vốn văn hoá dân tộc mà tác giả dùng vừa có mặt rộng hơn, vừa có mặt hẹp hơn khái niệm bản sắc văn hoá dân tộc. Nói rộng là vì : bản sắc văn hoá làm nên cái vốn văn hoá.

Còn nói hẹp là bởi : vốn văn hoá dường như chỉ nói được mặt ổn định, cố hữu mà chưa nói dược mặt biến đổi của bản sắc văn hoá. Với các khái niệm thiên hướng văn hoá, tinh thần chung của văn hoá có lẽ Trần Đình Hượu muốn nói chiều động, chiều phát triển của bản sắc văn hoá.

Nhìn chung, theo Trần Đình Hượu, văn hoá Việt Nam xa lạ với sự cực đoan, không chấp nhộn sự cực đoan, và riêng việc không chấp nhận điều đó đã biểu hiện một bản lĩnh đáng trọng. Như vậy, khi khái quát bản sắc văn hoá Việt Nam qua các từ như “đồng hoá”, “dung hợp”, tác giả Trần Đình Hượu không hề rơi vào thái độ tự ti hay miệt thị dân tộc.

Tóm tắt Nhìn về vốn văn hóa dân tộc (mẫu 12)

Nhìn về vốn văn hóa dân tộc là một trích đoạn từ phần II bài “Về vấn đề tìm đặc sắc văn hóa dân tộc” được Trần Đình Hượu. Trong tác phẩm này Trần Đình Hượu đã sáng tạo và bàn về những khía cạnh của văn hóa, nó được biểu hiện về nhiều phương diện như tôn giáo, nghệ thuật, ứng xử hay cách sinh hoạt của con người.

“Nhìn về vốn văn hóa dân tộc”, nhan đề tác phẩm ở đây cho người đọc thấy được rằng “nhìn về” cũng chính là “hướng tới”, và hành động “nhìn về” truyền thống, “nhìn về” quá khứ trở thành một yếu tố then chốt của hành động “hướng tới” hiện đại, “hướng tới” tương lai. Ở đây, trong tác phẩm tác giả đã bàn về các lĩnh vực quen thuộc của mỗi một quốc gia, mỗi dân tộc, ở đó con người biểu hiện về nét sống, cách sinh hoạt hay giao tiếp trong một cộng đồng người.

Với sự sáng tạo đó tác giả đã thể hiện được những nét đặc trưng thông qua những ví dụ, dẫn chứng trong các công trình nghiên cứu, ví dụ như Chùa một cột, lăng tẩm…, mỗi một công trình kiến trúc gắn với một sự kiện lịch sử riêng.

Có thể hiểu vốn văn hoá dân tộc hay bản sắc văn hóa dân tộc là cái khác biệt văn hóa của dân tộc này với văn hóa của dân tộc khác. Bản sắc văn hóa dân tộc là hiện tượng kết tinh, là thành quả tổng hợp của một quá trình sáng tạo, tiếp xúc văn hóa, nhào trộn cái vốn có, riêng có của dân tộc với những cái tiếp thu từ bên ngoài. Bản sắc văn hóa vừa có mặt ổn định vừa có mặt biến đổi, ổn định không đối lập mà tạo tiền đề cho biến đổi và biến đổi cũng để đi đến một dạng ổn định mới, cao hơn, phong phú hơn.

Kết luận quan trọng nhất của tác giả về tinh thần chung của văn hóa Việt Nam nằm ở câu in nghiêng trong phần cuối đoạn trích : Tinh thần chung của văn hóa Việt Nam là thiết thực, linh hoạt, dung hòa. Toàn bộ những từ như tinh nhanh, khôn khéo, dung hợp, sàng lọc, tinh luyện, tiếp nhận,… được dùng trong đoạn văn cũng có tác dụng “phụ hoạ” cho kết luận đó. Tác giả còn chỉ rõ: trên lĩnh vực văn hóa, bản lĩnh của dân tộc Việt Nam thể hiện tập trung ở sự “đồng hóa”, “dung hợp” chứ không phải ở sự “tạo tác”.

Theo tác giả, văn hóa Việt Nam xa lạ với sự cực đoan, không chấp nhận sự cực đoan, và riêng việc không chấp nhận điều đó đã biểu hiện một bản lĩnh đáng trọng. Như vậy, khi khái quát bản sắc văn hóa Việt Nam qua các từ như “đồng hóa”, “dung hợp”, tác giả Trần Đình Hượu không hề rơi vào thái độ tự ti hay miệt thị dân tộc.

Với tác phẩm “Nhìn về vốn văn hóa dân tộc”, Trần Đình Hượu đã đưa người đọc hiểu hơn về văn hóa dân tộc, từ đó mỗi người trong thời đại ngày nay cần giữ gìn bảo vệ vốn văn hóa, lịch sử, truyền thống của đất nước.

Tóm tắt Nhìn về vốn văn hóa dân tộc (mẫu 13)

Đoạn trích Nhìn về vốn văn hóa dân tộc trích từ phần II, bài “Về vấn đề tìm đặc sắc văn hóa dân tộc”, in trong cuốn “Đến hiện đại từ truyền thống”. Từ những hiểu biết sâu sắc về vốn văn hóa dân tộc, tác giả đã phân tích rõ những mặt tích cực và một số hạn chế của văn hóa truyền thống.

Trước hết, tác giả nêu ra những hạn chế của văn hóa truyền thống dân tộc. Văn học Việt chưa có tầm vóc lớn lao, chưa có vị trí quan trọng, chưa nổi bật và chưa có khả năng ảnh hưởng đến các nền văn học khác. Điều đó được thể hiện qua các phương diện sau: Thần thoại không phong phú; tôn giáo, triết học, khoa học kĩ thuật, âm nhạc, hội họa, không phát triển; thơ ca thì chưa có tác giả nào có tầm vóc lớn lao…

Bên cạnh mặt hạn chế, văn hóa Việt Nam cũng có thế mạnh: thiết thực, linh hoạt, dung hòa, lành mạnh với những vẻ đẹp dịu dàng, thanh lịch; con người hiền lành, tình nghĩa. Việt Nam có nhiều tôn giáo nhưng không xảy ra xung đột. Người Việt Nam sống tình nghĩa, khôn khéo và hài hòa với thiên nhiên. Về nghệ thuật, người Việt sáng tạo tác phẩm tinh tế, không mang vẻ vĩ mô, tráng lệ, phi thường. Về quan niệm sống, người Việt luôn mong ước thái bình, sống thanh nhàn, thong thả.

Văn hóa Việt ảnh hưởng sâu sắc bởi học thuyết Phật giáo, Nho giáo và tư tưởng Lão – Trang nhưng cái gốc của văn hóa Việt Nam là tính nhân bản và tinh thần chung của văn hóa Việt Nam là thiết thực, linh hoạt, dung hòa.

Tóm tắt Nhìn về vốn văn hóa dân tộc (mẫu 14)

Đoạn trích Nhìn về vốn văn hóa dân tộc thuộc phần II bài Về vấn đề đặc sắc văn hóa dân tộc. Nội dung của đạn trích này chủ yếu xoay quanh những nhận định mang tính bao quát về bản sắc văn hóa Việt Nam.

Tác giả tác phẩm: Nhìn về vốn văn hóa dân tộc - Ngữ văn 12

I. Tác giả Trần Đình Hượu

Nhìn về vốn văn hóa dân tộc - Tác giả tác phẩm (mới 2024) | Ngữ văn lớp 12 Kết nối tri thức

- Trần Đình Hượu (1927 – 1995), quê ở tỉnh Nghệ An, là chuyên gia nghiên cứu tư tưởng phương Đông, văn hóa, văn học Việt Nam thời Trung Đại và giai đoạn giao thời.

- Ông có tư tưởng nghiên cứu độc lập, đã nêu được những vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng với việc tìm hiểu, đánh giá nền tư tưởng, văn hóa, văn học truyền thống, đồng thời gợi ra những hướng nghiên cứu mới mẻ về các mẫu hình nhà nho và loại hình tác giả trong văn học trung đại Việt Nam.

- Năm 1945, ông tham gia thanh niên cứu Quốc và Uỷ ban khởi nghĩa ở quê nhà.

- Năm 1959 – 1963, ông là nghiên cứu sinh ở Đại học tổng hợp Lô-mô-nô-xôp

- Năm 1963 – 1993, ông là giảng viên môn Ngữ văn tại Đại học tổng hợp Hà Nội.

- Năm 1994, ông giảng dạy tại Đại học Prô-văng-xơ thuộc Cộng hòa Pháp.

II. Tìm hiểu văn bản Nhìn về vốn văn hóa dân tộc

1. Thể loại

- Tác phẩm Nhìn về vốn văn hóa dân tộc thuộc thể loại: tiểu luận.

2. Xuất xứ

- Trần Đình Hượu, Đến hiện đại từ truyền thống, NXB Văn Hóa, Hà Nội, 1996, in trong Ngữ văn 12 Nâng cao, tập một, Sđd, tr.194 - 196.

3. Hoàn cảnh sáng tác

- Văn bản được trích từ phần II, bài Về vấn đề tìm đặc sắc văn hóa dân tộc, in trong cuốn Đến hiện đại từ truyền thống (1996).

4. Phương thức biểu đạt

- Phương thức biểu đạt: nghị luận.

5. Ý nghĩa nhan đề Nhìn về vốn văn hóa dân tộc

Nhan đề do người biên soạn đặt

6. Bố cục Nhìn về vốn văn hóa dân tộc

- Phần 1: Từ đầu đến “nhưng chắc chắn có liên quan gần gũi với nó”: Lời nhân xét về nền văn hóa dân tộc.

- Phần 2. Tiếp theo đến “để lại dấu vết khá rõ trong văn học”: Đặc điểm của nền văn hóa Việt Nam.

- Phần 3. Còn lại: Con đường hình thành văn hóa.

7. Tóm tắt nhìn về vốn văn hóa dân tộc

“Nhìn về vốn văn hóa dân tộc” tác giả Trần Đình Hựu - nhà khoa học chuyên nghiên cứu về vấn đề lịch sử tư tưởng và văn hóa Việt Nam trung cận đại. Đoạn trích trong sách giáo khoa thuộc phần II của bài viết “Về vấn đề đặc sắc văn hóa dân tộc” với những nhận định mang tính bao quát, một cái nhìn khách quan trong việc phân tích, đánh giá khoa học về giá trị, bản sắc văn hóa của nước ta lúc bấy giờ. Trước hết để người đọc hiểu sâu sắc bài viết của mình tác giả đưa ra khái niệm văn hóa và chỉ ra các phương diện chủ yếu văn hóa được biểu hiện ra bên ngoài như: tôn giáo, nghệ thuật, kiến trúc, hội họa, văn học, ứng xử, sinh hoạt. Ở mỗi một khía cạnh đó Trần Đình Hựu chỉ ra các điểm tích cực và hạn chế cùng với những nguyên nhân, yếu tố tạo nên bản sắc văn hóa (nội lực, ngoại lực) để tìm cách khắc phục. Nhưng nhìn chung đặc điểm nổi bật của văn hóa Việt Nam là giàu tính nhân bản, tinh tế, hướng tới sự phát triển hài hòa trên tất cả các phương diện với tinh thần chung “thiết thực, linh hoạt và dung hòa”. Ta không thấy trong bài viết có sự khen hay chê hoàn toàn mà tất cả đều hướng tới một mục đích duy nhất là làm cho văn hóa Việt Nam ngày càng phát triển, hội nhập với sự tiến bộ của thế giới nhưng vẫn giữ được nét đẹp truyền thống của dân tộc Việt.

8. Giá trị nội dung

- Từ vốn hiểu biết sâu sắc về văn hóa dân tộc, tác giả đã phân tích rõ những mặt tích cực và một số hạn chế của văn hóa truyền thống.

- Bài học cho bản thân: mỗi người cần ý thức được vai trò, trách nhiệm của bản hân trong việc giữ gìn và phát huy truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc, cần có những hành động đúng đắn, phù hợp….

9. Giá trị nghệ thuật

- Văn phong khoa học, chính xác, mạch lạc.

- Bố cục rõ ràng, rành mạch.

- Lập luận xác đáng, dẫn chứng xác thực, lí lẽ sắc bén.

III. Tìm hiểu chi tiết văn bản Nhìn về vốn văn hóa dân tộc

1. Một số nhận xét về nền văn hóa dân tộc

- Cách nêu vấn đề ngắn gọn, khiêm tốn, khách quan, khôn khéo của tác giả

- Đưa ra nhận xét trên một số mặt của vấn đề nghị luận.

Nhìn về vốn văn hóa dân tộc - Tác giả tác phẩm (mới 2024) | Ngữ văn lớp 12 Kết nối tri thức

2. Đặc điểm của văn hóa Việt Nam

a. Hạn chế

- Văn hóa Việt Nam chưa có tầm vóc lớn lao, chưa có vị trí quan trọng, chưa nổi bật và chưa có ảnh hưởng tới các nền văn hóa khác.

- Hạn chế trên các phương diện:

+ Thần thoại không phong phú.

+ Tôn giáo, triết học không phát triển, ít quan tâm đến giáo lí.

+ Khoa học kí thuật không phát triển thành truyền thống.

+ Âm nhạc, hội họa, kiến trúc không phát triển đến tuyệt kĩ.

+ Thơ ca chưa tác giả nào có tầm vóc lớn lao.

b. Thế mạnh

- Thế mạnh của văn hóa Việt Nam: thiết thực, linh hoạt, dung hòa, lành mạnh với những vẻ đẹp dịu dàng, thanh lịch, con người hiền lành, tình nghĩa.

+ Việt Nam có nhiều tôn giáo nhưng không xảy ra xung đột.

+ Con người sống tình nghĩa: tốt gỗ hơn tốt nước sơn, cái nết đánh chết cái đẹp,…

+ Các công trình kiến trúc quy mô vừa và nhỏ, hài hào với thiên nhiên.

c. Đặc điểm của văn hóa Việt Nam

- Về tôn giáo: không cuồng tín, cực đoan mà dung hòa các tôn giáo khác nhau tạo nên sự hài hòa, không tìm sự siêu thoát tinh thần bằng tôn giáo, coi trọng cuộc sống trần tục hơn thế giới bên kia.

- Nghệ thuật: sáng tạo những tác phẩm tinh tế nhưng không có quy mô lớn, không mang vẻ đẹp kì vĩ, tráng lệ, phi thường.

- Ứng xử: trọng tình nghĩa nhưng không chú ý nhiều đến trí, dũng, chuộng sự khéo léo, không kì thị, cực đoan, thích sự yên ổn.

- Sinh hoạt: thích chừng mực vừa phải, mong ước thái bình, an cư lạc nghiệp để làm ăn no đủ, sống thanh nhàn, thong thả, có đông con, nhiều cháu, không mong gì cao xa, khác thường,…

- Quan niệm về cái đẹp: cái đẹp vừa ý là xinh, là khéo, hướng vào cái đẹp dịu dàng, thanh lịch, duyên dáng, quy mô vừa phải.

- Kiến trúc: tuy nhỏ nhưng điểm nhấn lại là sự hài hòa, tinh tế với thiên nhiên

- Lối sống: ghét phô trương, thích kín đáo, trọng tình nghĩa,…

=> Văn hóa của người Việt Nam giàu tính nhân bản, luôn hướng đến sự tinh tế, hài hòa trên nhiều phương diện. Đó chính là bản sắc văn hóa Việt Nam.

3. Con đường hình thành bản sắc văn hóa dân tộc

- Sự tạo tác của chính dân tộc.

- Khả năng chiếm lĩnh, đồng hóa những giá trị văn hóa bên ngoài.

IV. Đọc tác phẩm Nhìn về vốn văn hóa dân tộc

Trong lúc chờ đợi kết luận khoa học của các ngành chuyên môn, chúng tôi xin đưa ra một số nhận xét về vài Cách nêu vấn đề nghị luận, ba mặt của cái vốn văn hoá dân tộc; không phải cái hình thành vào thời kì định hình mà là cái ổn định dần, lại cho đến trước thời cận – hiện đại. Chúng tôi không nghĩ đó là đặc sắc văn hoá dân tộc nhưng chắc chắn có liên quan gần gũi với nó. [..]

Giữa các dân tộc, chúng ta không thể tự hào là nền văn hoá của ta đồ sộ, có những cống hiến lớn lao cho nhân loại, hay có những đặc sắc nổi bật. Ở một số dân tộc hoặc là một tôn giáo, hoặc là một trường phái triết học, một ngành khoa học, một nền âm nhạc, hội hoạ... phát triển rất cao, ảnh hưởng phổ biến và lâu dài đến toàn bộ văn hoá, thành đặc sắc văn hoá của dân tộc đó, thành thiên hướng văn hoá của dân tộc đó. Ở ta, thần thoại không phong phú – hay là có nhưng một thời gian nào đó đã mất hứng thú lưu truyền? Tôn giáo hay triết học cũng đều không phát triển. Người Việt Nam không có tâm lí kiến thành, cuồng tín lớn giáo, mà cũng không say mê tranh biện triết học. Các tôn giáo đều có mặt, nhưng thường là biến thành một lối thờ cúng ít ai quan tâm đến giáo lí. Không có một ngành khoa học, kĩ thuật, giả khoa học” nào phát triển đến thành có truyền thống. Âm nhạc, hội hoạ, kiến trúc đều không phát triển đến tuyệt kĩ. Trong các ngành nghệ thuật, cái phát triển nhất là thơ ca. Hầu như người nào cũng có thể, cũng có dịp làm dăm ba câu thơ. Nhưng số nhà thơ để lại nhiều tác phẩm thì không có. Xã hội có trọng văn chương, nhưng […] bản thân các nhà thơ cũng không ai nghĩ cuộc đời, sự nghiệp của mình là ở thơ ca. Chưa bao giờ trong lịch sử dân tộc, một ngành văn hoá nào đó trở thành dài danh dự, thu hút, quy tụ cả nền văn hoá.

Thực tế đó cho ta biết khuynh hướng hứng thú, sự ưa thích, nhưng hơn thế, còn cho ta biết sự hạn chế của trình độ sản xuất, của đời sống xã hội. Do là văn hoá của dân nông nghiệp định cư, không có nhu cầu lưu chuyển, trao đổi, không có sự kích thích của đô thị. [...]

Người Việt Nam có thể coi là ít tinh thần tôn giáo. Họ coi trọng hiện thể trần tục hơn thế giới bên kia. Không phải người Việt Nam không mê tín, họ Lin nội dung được bàn luận. có linh hồn, ma quỷ, thần Phật. Nhiều người thực hành cầu cúng. Nhưng về tương lai, họ lo cho con cháu hơn là linh hồn của mình. Tuy là coi trọng hiện thể nhưng cũng không bám lấy hiện thể, không quá sợ hãi cái chết (sống gửi thác về). Trong cuộc sống, ý thức về cá nhân và sở hữu không phát triển cao. Của cải vẫn được quan niệm là của chung, giàu sang chỉ là tạm thời, tham lam giành giật cho nhiều cũng không giữ mãi mà hưởng được. Người ta mong ước thái bình, an cư lạc nghiệp để làm ăn cho no đủ, sống thanh nhân, thong thả, có đông con nhiều cháu, ước mong về hạnh phúc nói chung là thiết thực, yên phận thủ thường, không mong gì cao xa, khác thường hơn người. Con người được ưa chuộng là con người hiền lành, tình nghĩa. Không chuộng trí mà cũng không chuộng dùng. Dân tộc chống ngoại xâm liên tục nhưng không thượng võ[…] Trọng tâm trí nhân dân thường có Thần và Bụt mà không có Tiên. Thần uy linh bảo quốc hộ dân và Bụt hay cứu giúp mọi người; còn Tiên nhiều phép lạ, ngao du ngoài thế giới thì xa lạ. Không ca tụng trí tuệ mà ca tụng sự khôn khéo. Khôn khéo là ăn đi trước, lội nước theo sau, biết thủ thế, giữ mình, gỡ được tình thể khó khăn. Đối với cái dị kỉ, cái mới, không dễ hoà hợp nhưng cũng không cự tuyệt đến cùng chấp nhận cái gì vừa phải, hợp với mình nhưng cũng chân chủ, đề đặt, giữ mình.

Cái đẹp vừa ý là xinh, là khéo. Ta không háo hức cải tráng lệ, huy hoàng không say mê cái huyền ảo, kì vĩ. Màu sắc chuộng cái dịu dàng, thanh nhã, ghét sặc sỡ. Quy mô chuộng sự vừa khéo, vừa xinh, phải khoảng". Giao tiếp, ứng xử chuộng hợp tình, hợp lí, áo quần, trang sức, món ăn đều không chuộng sự cầu kì. Tất cả đều hướng vào cái đẹp dịu dàng, thanh lịch, duyên dáng và có quy mô vừa phải.

Không có công trình kiến trúc nào, kể cả của vua chúa, nhằm vào sự vĩnh viễn. Hình như La coi trọng Thế hơn Lục, quý sự kín đáo hơn sự phô trương, sự hoà đồng hơn rạch ròi trắng đen. Phải chăng đó là kết quả của ý thức lâu dời về sự nhỏ yếu, về thực tế nhiều khó khăn, nhiều bất trắc?

Nhìn vào lối sống, quan niệm sống, ta có thể nói người Việt Nam sống có văn hoá, người Việt Nam có nền văn hoá của mình. Những cái thỏ dã, những cái hung bạo đã bị xoá bỏ để có cái nền nhân bản. Tinh thần chung của văn hoá Việt Nam là thiết thực, linh hoạt, dung hoà. Không có khát vọng để hưởng đến những sáng tạo lớn mà nhạy cảm, tinh nhanh, khôn khéo gỡ các khó khăn, tìm được sự bình ổn.

Những cái vừa nội là cái đã lắng đọng, đã ổn định, chắc chắn là kết quả của sự dung hợp của cái vốn có, của văn hoá Phật giáo, văn hoa Nho giáo, cái được dân tộc sàng lọc, tinh luyện để thành bản sắc của mình. Phật giáo, Nho giáo tuy từ ngoài du nhập vào nhưng đều để lại dấu ấn sâu sắc trong bản sắc dân tộc. Có điều, để thích ứng với cái vốn có, Phật giáo không được tiếp nhận ở khía cạnh trí tuệ, cầu giải thoát, mà Nho giáo cũng không được tiếp nhận ở khía cạnh nghi lễ tủn mủn, giáo điều khắc nghiệt. Đạo giáo hình như không có nhiều ảnh hưởng trong văn hoá nhưng tư tưởng Lão –Trang thì lại ảnh hưởng nhiều đến lớp trí thức cao cấp, để lại dấu vết khá rõ trong văn học.

Con đường hình thành bản sắc dân Lộc của văn hoá không chỉ trông cậy vào sự tạo tác của chính dân tộc đó mà còn trông cậy vào khả năng chiếm lĩnh, khả năng đồng hoá những giá trị văn hoá bên ngoài. Về mặt đó, lịch sử chứng minh là dân tộc Việt Nam có bản lĩnh.

(Trần Đình Hượu, Đến hiện đại từ truyền thống, NXB Văn hoá, Hà Nội, 1996, in trong Ngữ văn 12 Nâng cao, tập một, 5dd, tr. 194 – 196)

V. Dàn ý phân tích Nhìn về vốn văn hóa dân tộc

1.Mở bài

- Giới thiệu về tác giả Trần Đình Hượu (những nét chính về cuộc đời, các công trình nghiên cứu,….)

- Giới thiệu về đoạn trích “Nhìn về vốn văn hóa dân tộc” (hoàn cảnh ra đời, vị trí đoạn trích, khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật…)

2.Thân bài

1. Một số nhận xét về nền văn hóa dân tộc

- Cách nêu vấn đề ngắn gọn, khiêm tốn, khách quan, khôn khéo của tác giả

- Đưa ra nhận xét trên một số mặt của vấn đề nghị luận

2. Đặc điểm của văn hóa Việt Nam

a) Hạn chế

- Văn hóa Việt Nam chưa có tầm vóc lớn lao, chưa có vị trí quan trọng, chưa nổi bật và chưa có ảnh hưởng tới các nền văn hóa khác

- Hạn chế trên các phương diện:

+ Thần thoại không phong phú

+ Tôn giáo, triết học không phát triển, ít quan tâm đến giáo lí

+ Khoa học kí thuật không phát triển thành truyền thống

+ Âm nhạc, hội họa, kiến trúc không phát triển đến tuyệt kĩ

+ Thơ ca chưa tác giả nào có tầm vóc lớn lao

b) Thế mạnh

- Thế mạnh của văn hóa Việt Nam: thiết thực, linh hoạt, dung hòa, lành mạnh với những vẻ đẹp dịu dàng, thanh lịch, con người hiền lành, tình nghĩa

+ Việt Nam có nhiều tôn giáo nhưng không xảy ra xung đột

+ Con người sống tình nghĩa: tốt gỗ hơn tốt nước sơn, cái nết đánh chết cái đẹp,…

+ Các công trình kiến trúc quy mô vừa và nhỏ, hài hào với thiên nhiên

c) Đặc điểm của văn hóa Việt Nam

- Về tôn giáo: không cuồng tín, cực đoan mà dung hòa các tôn giáo khác nhau tạo nên sự hài hòa, không tìm sự siêu thoát tinh thần bằng tôn giáo, coi trọng cuộc sống trần tục hơn thế giới bên kia

- Nghệ thuật: sáng tạo những tác phẩm tinh tế nhưng không có quy mô lớn, không mang vẻ đẹp kì vĩ, tráng lệ, phi thường

- ứng xử: trọng tình nghĩa nhưng không chú ý nhiều đến trí, dũng, chuộng sự khéo léo, không kì thị, cực đoan, thích sự yên ổn

- Sinh hoạt: thích chừng mực vừa phải, mong ước thái bình, an cư lạc nghiệp để làm ăn no đủ, sống thanh nhàn, thong thả, có đông con, nhiều cháu, không mong gì cao xa, khác thường,…

- Quan niệm về cái đẹp: cái đẹp vừa ý là xinh, là khéo, hướng vào cái đẹp dịu dàng, thanh lịch, duyên dáng, quy mô vừa phải

- Kiến trúc: tuy nhỏ nhưng điểm nhấn lại là sự hài hòa, tinh tế với thiên nhiên

- Lối sống: ghét phô trương, thích kín đáo, trọng tình nghĩa,…

⇒ Văn hóa của người Việt Nam giàu tính nhân bản, luôn hướng đến sự tinh tế, hài hòa trên nhiều phương diện. Đó chính là bản sắc văn hóa Việt Nam

3. Con đường hình thành bản sắc văn hóa dân tộc

- Sự tạo tác của chính dân tộc

- Khả năng chiếm lĩnh, đồng hóa những giá trị văn hóa bên ngoài

3.Kết bài

- Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích

- Bài học cho bản thân: mỗi người cần ý thức được vai trò, trách nhiệm của barnt hân trong việc giữ gìn và phát huy truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc, cần có những hành động đúng đắn, phù hợp,…

Bài văn tham khảo

Nhìn về vốn văn hóa dân tộc là một trích đoạn của tiểu luận Về vấn đề tìm đặc sắc văn hóa dân tộc được Trần Đình Hượu viết từ năm 1986. Với tiểu luận này, mục đích chính mà tác giả đặt ra không phải là xác định rõ ràng từng điểm một về cái gọi là bản sắc văn hóa dân tộc, mà gợi mở con đường nghiên cứu về nó trong tư cách một vấn đề thời sự của chiến lược phát triển đất nước thời kỳ đổi mới. Như vậy, ở đây, “nhìn về” cũng chính là “hướng tới”, và hành động “nhìn về” truyền thống, “nhìn về” quá khứ trở thành một yếu tố then chốt của hành động “hướng tới” hiện đại, “hướng tới” tương lai.

Trong tiểu luận, bên cạnh khái niệm vốn văn hoá dân tộc, tác giả cũng dùng một số khái niệm khác như : đặc sắc văn hóa dân tộc, thiên hướng văn hóa dân tộc, tinh thần chung của văn hóa dân tộc. Cách diễn đạt của tác giả không cố định, cứng nhắc. Có khi tác giả chỉ viết đơn giản : bản sắc dân tộc,hoặc nói hơi khác : bản sắc dân tộc của văn hóa. Nhìn chung, theo tinh thần toát lên từ toàn bộ tiểu luận, có thể hiểu vốn văn hoá dân tộc hay bản sắc văn hóa dân tộc là cái giúp khu biệt văn hóa của dân tộc này với văn hóa của dân tộc khác.

Bản sắc văn hóa dân tộc là hiện tượng kết tinh, là thành quả tổng hợp của một quá trình sáng tạo, tiếp xúc văn hóa, nhào trộn cái vốn có, riêng có của dân tộc với những cái tiếp thu từ bên ngoài. Bản sắc văn hóa vừa có mặt ổn định vừa có mặt biến đổi. ổn định không đối lập mà tạo tiền đề cho biến đổi và biến đổi cũng để đi đến một dạng ổn định mới, cao hơn, phong phú hơn. Khái niệm vốn văn hóa dân tộc mà tác giả dùng vừa có mặt rộng hơn, vừa có mặt hẹp hơn khái niệm bản sắc văn hóa dân tộc. Nói rộng là vì: bản sắc văn hóa làm nên cái vốn văn hóa. Còn nói hẹp là bởi : vốn văn hóa dường như chỉ nói được mặt ổn định, cố hữu mà chưa nói được mặt biến đổi của bản sắc văn hóa. Với các khái niệm thiên hướng văn hóa, tinh thần chung của văn hóa, có lẽ tác giả muốn nói chiều động, chiều phát triển của bản sắc văn hóa.

Ngoài đoạn mở đầu mang tính chất đặt vấn đề, cả tiểu luận (phần được trích học) tập trung nêu lên và nhận xét về một số điểm mà theo tác giả là có “liên quan gần gũi” với cái gọi là đặc sắc văn hóa dân tộc. Cách triển khai lập luận của tác giả khá đặc biệt. Bắt đầu, ông đã không nói về cái có, mà nói về cái không của vốn văn hoá dân tộc. Có thể dễ dàng đếm được trong bài có đến trên vài chục lần từ không được lặp lại – từ không với hàm nghĩa chỉ ra những cái mà dân tộc ta không có (so với các dân tộc khác trên thế giới).

Bên cạnh từ không, các cụm từ và từ như chưa bao giờ, ít cũng chở theo một nội dung tương tự. Khó nói rằng tác giả cố tình “độc đáo”, cố tình gây ấn tượng ở điểm này. Cái gây ấn tượng, nếu có, toát lên từ cách nhìn trực diện về vấn đề hơn là cách tung hứng ngôn từ. Vào thời điểm tiểu luận của Trần Đình Hượu ra đời, người ta vốn đã quen nghe những lời ca tụng về dân tộc mình (Càng nhìn ta, lại càng say – Tố Hữu), bởi vậy, khi giáp mặt với một cách đặt vấn đề khác, một cảm hứng nghiên cứu khác, nhiều người dễ có cảm tưởng rằng tác giả đã “nói ngược” hay đã cực đoan trong các nhận định. Kì thực, nếu nắm được mạch nghiên cứu lịch sử tư tưởng của Trần Đình Hượu, đồng thời chấp nhận nét đặc thù của lối văn “phát biểu ý kiến”, ít có trích dẫn cũng như ít đưa dẫn chứng (ở cấp độ cụ thể, chi tiết), lại chủ yếu hướng vào giới chuyên môn vốn am hiểu sâu sắc các vấn đề hữu quan, ta sẽ dễ dàng chia sẻ, tán đồng với tác giả về hầu hết những luận điểm then chốt mà ông nêu lên.

Khi khẳng định: “Giữa các dân tộc, chúng ta không thể tự hào là nền văn hóa của ta đồ sộ, có những cống hiến lớn lao cho nhân loại, hay có những đặc sắc nổi bật”, tác giả đã dựa vào khá nhiều căn cứ : ở Việt Nam, kho tàng thần thoại không phong phú (xét theo những gì còn được bảo tồn đến bây giờ) ; tôn giáo, triết học đều không phát triển ; không có một ngành khoa học, kĩ thuật nào phát triển đến thành có truyền thống ; âm nhạc, hội họa, kiến trúc đều không phát triển đến tuyệt kĩ ; thơ ca rất được yêu thích nhưng các nhà thơ không ai nghĩ sự nghiệp của mình là ở thơ ca ;… Dĩ nhiên, đây mới chỉ là những “căn cứ lớn”, mà bản thân chúng có thể và cần phải được chứng minh bằng hàng loạt dữ kiện cụ thể. Do định hướng riêng của bài viết, tác giả đành lướt qua vấn đề này.

Điều quan trọng hơn đối với ông là nói rõ tiền đề mà dựa trên đó các “căn cứ lớn” đã được nêu lên : “ở một số dân tộc hoặc là một tôn giáo, hoặc là một trường phái triết học, một ngành khoa học, một nền âm nhạc, hội họa,… phát triển rất cao, ảnh hưởng phổ biến và lâu dài đến toàn bộ văn hóa, thành đặc sắc văn hóa của dân tộc đó, thành thiên hướng văn hóa của dân tộc đó”. Theo lô gích vấn đề, ở cuối đoạn 2, tác giả còn cắt nghĩa lí do của các “kiểu lựa chọn văn hóa” vừa được chính ông trình bày để ta thấy rõ tính qui luật của nó : “Thực tế đó cho ta biết khuynh hướng, hứng thú, sự ưa thích, nhưng hơn thế, còn cho ta biết sự hạn chế của trình độ sản xuất, của đời sống xã hội. Đó là văn hoá của cư dân nông nghiệp định cư, không có nhu cầu lưu chuyển, trao đổi, không có sự kích thích của đô thị”. Bằng cách lật đi lật lại vấn đề như thế, tác giả đã thực sự làm tăng sức thuyết phục cho luận điểm của mình.

Dễ dàng nhận thấy rằng, với tiểu luận này, tác giả đã thoát khỏi thái độ hoặc ca ngợi, hoặc chê bai đơn giản thường thấy khi tiếp cận vấn đề. Tinh thần chung của bài viết là tiến hành một sự phân tích, đánh giá khoa học đối với những đặc điểm nổi bật của văn hóa Việt Nam. Thực ra, khen hay chê vốn là một phản ứng tình cảm bình thường, hoàn toàn có đủ lí do để có mặt trong một bài nghiên cứu. Nhưng điều quan trọng là nếu người viết không vượt lên được vòng trói buộc của sự khen – chê chủ quan thì mọi kiến nghị, đề xuất sau đó sẽ ít tính thuyết phục. Trần Đình Hượu hẳn ý thức sâu sắc về điều đó nên đã sử dụng một giọng văn điềm tĩnh, khách quan để trình bày các luận điểm. Người đọc chỉ có thể nhận ra được nguồn cảm hứng thật sự của tác giả nếu hiểu cái đích xa mà ông hướng đến : góp phần xây dựng một chiến lược phát triển mới cho đất nước, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển hiện thời.

Sau khi đã nêu một loạt điểm “không đặc sắc” của văn hóa Việt Nam, tác giả lại khẳng định : “người Việt Nam có nền văn hóa của mình”. Nếu việc làm trước không đồng nghĩa với cái gọi là “chê” thì việc làm sau không phải là biểu hiện cụ thể của cái gọi là “khen”. Không có gì mâu thuẫn ở đây cả, bởi, thứ nhất, theo tác giả quan niệm, việc đi tìm cái riêng của văn hóa Việt Nam không nhất thiết phải gắn liền với việc cố chứng minh dân tộc Việt Nam không thua kém các dân tộc khác ở những điểm mà thế giới đã thừa nhận là rất nổi bật ở họ (ví dụ như sự phát triển của hệ thống thần thoại, tôn giáo, triết học, các ngành nghệ thuật, kiến trúc,….).

Nỗ lực chứng minh như thế là một nỗ lực vô vọng. Tác giả chỉ ra những điểm “không đặc sắc” của văn hóa Việt Nam là trên tinh thần ấy. Việc làm của tác giả rõ ràng hàm chứa một gợi ý về phương pháp luận nghiên cứu vấn đề bản sắc văn hóa dân tộc : đi tìm đặc sắc văn hóa Việt Nam phải có cái nhìn sát với thực tế Việt Nam, không thể vận dụng những mô hình cố định ; điều quan trọng khác là phải tìm ra cội nguồn của hiện tượng không có những điểm đặc sắc nổi bật như của các dân tộc khác để thấy được cái “đặc sắc” của văn hóa Việt Nam. Vấn đề “có” hay “không” nhiều khi chưa quan trọng bằng vấn đề “tại sao có ?”, “tại sao không ?”.

Thứ hai, tác giả quan niệm văn hóa là sự tổng hòa của nhiều yếu tố, trong đó lối sống, quan niệm sống là yếu tố then chốt ; mà lối sống, quan niệm sống ấy cũng lại là một hệ thống, kết quả sự tổng hòa của muôn vàn yếu tố khác nhỏ hơn. Khi quan sát thấy người Việt Nam có lối sống, quan niệm sống riêng, biểu hiện qua việc ta đã tự tạo ra được cho mình một cái “màng lọc” nhằm gạt bỏ hoặc tiếp thu, lựa chọn những cái gì không cần thiết hoặc cần thiết cho mình, tác giả hoàn toàn có cơ sở để khẳng định : người Việt Nam có nền văn hóa riêng. Hóa ra, “không đặc sắc” ở một vài điểm thường hay được người ta nhắc tới không có nghĩa là không có gì ! Phải nói rằng, tác giả đã có một quan niệm toàn diện về văn hóa, và hơn thế, biết triển khai công việc nghiên cứu của mình dựa vào việc khảo sát thực tế khách quan chứ không phải vào các “tri thức tiên nghiệm”, các định đề.

Trong đoạn 3, tác giả có nêu khái quát một đặc điểm của văn hóa Việt Nam :”Cái đẹp vừa ý là xinh, là khéo. Ta không háo hức cái tráng lệ, huy hoàng, không say mê cái huyền ảo, kì vĩ. Màu sắc chuộng cái dịu dàng, thanh nhã, ghét sặc sỡ. Quy mô chuộng sự vừa khéo, vừa xinh, phải khoảng. Giao tiếp, ứng xử chuộng hợp tình, hợp lí, áo quần, trang sức, món ăn đều không chuộng sự cầu kì. Tất cả đều hướng vào cái đẹp dịu dàng, thanh lịch, duyên dáng và có quy mô vừa phải”. Vào thời điểm tiểu luận ra đời, khái quát nêu trên có thể đã gây được những ngạc nhiên thú vị, bởi nó giống như kết quả của một cái nhìn đến từ phía bên ngoài hoặc của một nỗ lực phản tỉnh, cố gắng tách mình ra khỏi mình nhằm tự đánh giá. Thực tế cho thấy : thật khó nhận diện được nét đặc sắc văn hoá của dân tộc mình một khi ta đang hít thở trong bầu khí quyển của nó, quá quen với nó.

Giờ đây, khái quát trong tiểu luận của Trần Đình Hượu gần như đã trở thành một nhận thức phổ biến, thường được nhắc lại với một ít biến thái trong nhiều tài liệu khác nhau. Điều này thực ra khá dễ hiểu vì có vô số dẫn chứng trong đời sống và trong văn học chứng tỏ sự xác đáng của nó, ví dụ : Việt Nam không có những công trình kiến trúc đồ sộ như Kim tự tháp, Vạn lí trường thành, Ăng – ko Vát… Chùa Một cột (chùa Diên Hựu) – một biểu tượng của văn hóa Việt Nam – có quy mô rất bé ; chiếc áo dài rất được phụ nữ Việt Nam ưa chuộng có vẻ đẹp nền nã, dịu dàng, thướt tha ; nhiều câu tục ngữ, ca dao khi nói về kinh nghiệm sống, ứng xử rất đề cao sự hợp lí, hợp tình : Khéo ăn thì no, khéo co thì ấm ; ở sao cho vừa lòng người/ ở rộng người cười, ở hẹp người chê ; Lời nói chẳng mất tiền mua/ Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau…

Kết luận quan trọng nhất của tác giả về tinh thần chung của văn hóa Việt Nam nằm ở câu in nghiêng trong phần cuối đoạn trích : Tinh thần chung của văn hóa Việt Nam là thiết thực, linh hoạt, dung hòa. Toàn bộ những từ như tinh nhanh, khôn khéo, dung hợp, sàng lọc, tinh luyện, tiếp nhận,… được dùng trong đoạn văn cũng có tác dụng “phụ hoạ” cho kết luận đó. Tác giả còn chỉ rõ : trên lĩnh vực văn hóa, bản lĩnh của dân tộc Việt Nam thể hiện tập trung ở sự “đồng hóa”, “dung hợp” chứ không phải ở sự “tạo tác”. Về các khái niệm vừa dẫn, dựa vào văn cảnh chúng được sử dụng, có thể xác định :

“Tạo tác” là khái niệm có tính chất quy ước, chỉ những sáng tạo lớn của một dân tộc – những sáng tạo mà các dân tộc khác không có hoặc có mà không đạt tầm vóc kì vĩ, gây ảnh hưởng mạnh mẽ đến chung quanh, tạo thành những mẫu mực đáng học tập đến như thế.

Khái niệm “đồng hóa” vừa chỉ vị thế tồn tại nghiêng về phía tiếp nhận những ảnh hưởng từ bên ngoài, những ảnh hưởng lan đến từ các nền văn minh, văn hóa lớn, vừa chỉ khả năng tiếp thu chủ động của chủ thể tiếp nhận – cái khả năng cho phép một dân tộc biến những cái ngoại lai thành cái của mình, trên cơ sở gạn lọc và thu giữ. Khái niệm “dung hợp” vừa có những mặt gần gũi với khái niệm “đồng hóa” vừa có điểm khác. Với khái niệm này, hẳn tác giả muốn nhấn mạnh đến khả năng “chung sống hòa bình” của nhiều yếu tố tiếp thu từ nhiều nguồn khác nhau, có thể hài hòa được với nhau trong một hệ thống, một tổng thể mới.

Nhìn chung, theo Trần Đình Hượu, văn hóa Việt Nam xa lạ với sự cực đoan, không chấp nhận sự cực đoan, và riêng việc không chấp nhận điều đó đã biểu hiện một bản lĩnh đáng trọng. Như vậy, khi khái quát bản sắc văn hóa Việt Nam qua các từ như “đồng hóa”, “dung hợp”, tác giả Trần Đình Hượu không hề rơi vào thái độ tự ti hay miệt thị dân tộc. Cũng cần nói thêm : trên con đường xác định cái gọi là bản sắc văn hoá dân tộc, Trần Đình Hượu đã có những điểm gặp gỡ với nhiều nhà nghiên cứu tư tưởng, văn hóa, văn học khác. Nhà Đạo học Cao Xuân Huy từng hình dung triết lí Việt Nam là triết lí Nước hay Nhu đạo. Còn nhà sử học Trần Quốc Vượng thì viết: “Tôi gọi cái bản lĩnh – bản sắc biết nhu, biết cương, biết công, biết thủ, biết “trông trời trông đất trông mây…” rồi tùy thời mà làm ăn theo chuẩn mực “nhất thì nhì thục”… ấy, là khả năng ứng biến của người Việt Nam, của lối sống Việt Nam, của văn hóa Việt Nam !” v.v…

Trong bối cảnh thời đại ngày nay, việc tìm hiểu bản sắc văn hóa dân tộc trở thành một nhu cầu tự nhiên. Chưa bao giờ dân tộc ta có cơ hội thuận lợi như thế để xác định “chân diện mục” của mình qua hành động so sánh đối chiếu với “khuôn mặt” của các dân tộc khác. Giữa hai vấn đề hiểu mình và hiểu người có mối quan hệ tương hỗ. Tìm hiểu bản sắc văn hóa dân tộc rất có ý nghĩa đối với việc xây dựng một chiến lược phát triển mới cho đất nước, trên tinh thần làm sao phát huy được tối đa mặt mạnh vốn có, khắc phục được những nhược điểm dần thành cố hữu để tự tin đi lên. Tìm hiểu bản sắc văn hóa dân tộc dĩ nhiên cũng gắn liền với việc quảng bá cái hay, cái đẹp của dân tộc để “góp mặt” cùng năm châu, thúc đẩy một sự giao lưu lành mạnh, có lợi chung cho việc xây dựng một thế giới hòa bình, ổn định và phát triển. Đến với tiểu luận Vấn đề tìm đặc sắc văn hoá dân tộc, cụ thể là đến với đoạn trích Nhìn về vốn văn hoá dân tộc, chúng ta cảm nhận được những điều gợi mở quý báu đó từ một nhà nghiên cứu tâm huyết với tiền đồ phát triển của dân tộc.

1 2,615 02/12/2024
Tải về


Xem thêm các chương trình khác: