Chương 4 Pháp lệnh Giám định tư pháp: Hoạt động giám định Tư pháp
Số hiệu: | 24/2004/PL-UBTVQH11 | Loại văn bản: | Pháp lệnh |
Nơi ban hành: | Ủy ban Thường vụ Quốc hội | Người ký: | Nguyễn Văn An |
Ngày ban hành: | 29/09/2004 | Ngày hiệu lực: | 01/01/2005 |
Ngày công báo: | 14/10/2004 | Số công báo: | Số 11 |
Lĩnh vực: | Thủ tục Tố tụng | Tình trạng: |
Hết hiệu lực
01/01/2013 |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
1. Người trưng cầu giám định có thể trưng cầu cá nhân, tổ chức sau đây:
a) Người giám định tư pháp quy định tại Điều 7 của Pháp lệnh này;
b) Tổ chức giám định tư pháp quy định tại Chương III của Pháp lệnh này;
c) Tổ chức chuyên môn có đủ điều kiện về chuyên môn, cơ sở vật chất bảo đảm cho việc thực hiện giám định.
2. Trong trường hợp khả năng chuyên môn, điều kiện về trang thiết bị, phương tiện giám định của tổ chức giám định tư pháp, tổ chức chuyên môn, người giám định tư pháp trong nước không đáp ứng được yêu cầu giám định thì cơ quan tiến hành tố tụng cấp dưới đề nghị cơ quan tiến hành tố tụng cấp trung ương của mình quyết định việc trưng cầu cá nhân, tổ chức giám định nước ngoài. Việc trưng cầu cá nhân, tổ chức giám định nước ngoài được thực hiện thông qua Bộ Tư pháp.
1. Trưng cầu tổ chức hoặc cá nhân thực hiện giám định.
2. Yêu cầu tổ chức, cá nhân nhận trưng cầu giám định trả kết luận giám định đúng nội dung yêu cầu và thời hạn.
3. Yêu cầu người giám định tư pháp giải thích kết luận giám định.
4. Các quyền khác theo quy định của pháp luật tố tụng.
1. Trưng cầu giám định bằng văn bản.
2. Cung cấp thông tin, tài liệu có liên quan đến đối tượng giám định theo yêu cầu của người giám định tư pháp.
3. Tạm ứng chi phí giám định khi cá nhân, tổ chức nhận trưng cầu giám định tư pháp có yêu cầu.
4. Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật tố tụng.
1. Văn bản trưng cầu giám định có nội dung chính sau đây:
a) Tên cơ quan trưng cầu giám định; họ, tên người tiến hành tố tụng trưng cầu giám định;
b) Tên tổ chức; họ, tên người được trưng cầu giám định;
c) Tóm tắt sự việc có liên quan đến đối tượng cần giám định;
d) Nguồn gốc và đặc điểm của đối tượng giám định;
đ) Tên các tài liệu có liên quan hoặc mẫu so sánh gửi kèm theo;
e) Nội dung yêu cầu giám định;
g) Ngày, tháng, năm trưng cầu giám định và thời hạn trả kết luận giám định.
2. Trong trường hợp trưng cầu giám định bổ sung hoặc giám định lại thì văn bản trưng cầu giám định phải ghi rõ là trưng cầu giám định bổ sung hoặc giám định lại.
1. Tổ chức giám định tư pháp, tổ chức chuyên môn, người giám định tư pháp thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quản lý có trách nhiệm tiếp nhận và thực hiện việc giám định do cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng ở cấp huyện, cấp tỉnh và cấp trung ương trưng cầu.
2. Tổ chức giám định tư pháp, tổ chức chuyên môn, người giám định tư pháp thuộc bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ quản lý có trách nhiệm tiếp nhận và thực hiện việc giám định do cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng ở cấp trung ương trưng cầu và các việc giám định phức tạp do cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng ở cấp huyện, cấp tỉnh trưng cầu.
3. Tổ chức giám định tư pháp, tổ chức chuyên môn, người giám định tư pháp phải từ chối nhận trưng cầu giám định nếu không có đủ trang thiết bị, phương tiện để thực hiện giám định, nội dung yêu cầu giám định không thuộc chuyên môn hoặc vượt quá khả năng chuyên môn của mình.
4. Căn cứ vào quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng hướng dẫn việc tiếp nhận trưng cầu giám định của các cơ quan tiến hành tố tụng trong quân đội.
1. Trong trường hợp việc trưng cầu giám định có kèm theo đối tượng giám định thì việc giao, nhận đối tượng giám định phải được lập thành biên bản. Biên bản giao, nhận đối tượng giám định có nội dung chính sau đây:
a) Thời gian, địa điểm giao, nhận đối tượng giám định;
b) Họ, tên người đại diện của bên giao và bên nhận đối tượng giám định;
c) Tên đối tượng giám định;
d) Cách thức bảo quản đối tượng giám định khi giao, nhận;
đ) Tình trạng đối tượng giám định khi giao, nhận;
e) Tài liệu hoặc đồ vật liên quan;
g) Chữ ký của bên giao và bên nhận đối tượng giám định.
2. Việc giao, nhận lại đối tượng giám định sau khi việc giám định đã hoàn thành được thực hiện theo quy định của Chính phủ.
1. Trong trường hợp tổ chức giám định tư pháp hoặc tổ chức chuyên môn được trưng cầu giám định thì người đứng đầu tổ chức đó cử người thực hiện giám định và chịu trách nhiệm về việc cử người đó. Người thực hiện giám định chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp luật về kết luận giám định.
2. Trong trường hợp cá nhân được trưng cầu giám định thì người đó tiếp nhận và thực hiện việc giám định. Người đứng đầu tổ chức chủ quản có trách nhiệm tạo điều kiện cho người giám định tư pháp thực hiện giám định.
1. Giám định cá nhân là việc giám định do một người thực hiện. Giám định tập thể là việc giám định do hai người trở lên thực hiện.
2. Trong trường hợp giám định cá nhân thì người giám định thực hiện toàn bộ việc giám định và chịu trách nhiệm về kết luận giám định của mình.
3. Trong trường hợp giám định tập thể về một lĩnh vực chuyên môn thì những người giám định cùng thực hiện việc giám định, ký vào bản kết luận giám định chung và cùng chịu trách nhiệm về kết luận giám định đó; nếu có ý kiến khác nhau thì mỗi người giám định ghi riêng ý kiến kết luận của mình vào bản kết luận giám định chung và chịu trách nhiệm về ý kiến đó.
Trong trường hợp giám định tập thể thuộc nhiều lĩnh vực chuyên môn khác nhau thì mỗi người giám định thực hiện phần việc giám định thuộc lĩnh vực chuyên môn của mình và chịu trách nhiệm về kết luận giám định của mình.
1. Việc giám định bổ sung được thực hiện trong trường hợp nội dung kết luận giám định chưa rõ, chưa đầy đủ hoặc khi phát sinh vấn đề mới liên quan đến tình tiết của vụ án đã được kết luận giám định trước đó.
2. Việc giám định bổ sung có thể do người giám định tư pháp trước đó hoặc người giám định tư pháp khác thực hiện.
1. Việc giám định lại được thực hiện theo trưng cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong trường hợp có nghi ngờ về kết quả giám định hoặc có mâu thuẫn giữa các kết luận giám định về cùng một vấn đề cần giám định. Việc giám định lại có thể do người đã giám định trước đó hoặc do người giám định khác thực hiện theo quy định của pháp luật tố tụng.
2. Trong trường hợp có mâu thuẫn giữa kết luận giám định lần đầu và kết luận giám định lại về cùng một vấn đề cần giám định thì việc giám định lại lần thứ hai phải do Hội đồng giám định thực hiện. Hội đồng giám định do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ quản lý về lĩnh vực cần giám định quyết định thành lập. Hội đồng giám định gồm có ít nhất ba thành viên là những người có trình độ chuyên môn cao và có uy tín trong lĩnh vực cần giám định.
3. Trong trường hợp Hội đồng giám định quy định tại khoản 2 Điều này đã thực hiện giám định lại lần thứ hai thì không thực hiện giám định lại nữa, trừ trường hợp đặc biệt do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định.
1. Người thực hiện giám định phải ghi nhận kịp thời, đầy đủ và trung thực toàn bộ quá trình thực hiện giám định bằng văn bản.
2. Văn bản ghi nhận quá trình thực hiện giám định phải được lưu trong hồ sơ giám định.
1. Kết luận giám định phải được lập thành văn bản và có nội dung chính sau đây:
a) Họ, tên người thực hiện giám định;
b) Tên cơ quan tiến hành tố tụng hoặc họ, tên người tiến hành tố tụng trưng cầu giám định; số văn bản trưng cầu giám định;
c) Thời gian nhận văn bản trưng cầu giám định;
d) Nội dung yêu cầu giám định;
đ) Phương pháp thực hiện giám định;
e) Kết luận về đối tượng giám định;
g) Thời gian, địa điểm hoàn thành việc giám định.
2. Bản kết luận giám định phải có chữ ký của người giám định tư pháp; trong trường hợp tổ chức được trưng cầu giám định thì bản kết luận giám định còn phải được người đứng đầu tổ chức đó ký tên, đóng dấu.
3. Trong trường hợp việc giám định được thực hiện trước khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự, theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng và Pháp lệnh này quy định thì cơ quan tiến hành tố tụng có thể không trưng cầu giám định nữa mà sử dụng kết luận giám định đó như kết luận giám định tư pháp.
1. Hồ sơ giám định do người giám định tư pháp lập và gồm có các tài liệu sau đây:
a) Quyết định trưng cầu giám định;
b) Biên bản giao, nhận đối tượng giám định;
c) Văn bản ghi nhận quá trình thực hiện giám định;
d) Bản ảnh giám định;
đ) Kết luận giám định trước đó hoặc kết quả xét nghiệm, thực nghiệm giám định do người khác thực hiện;
e) Các tài liệu khác có liên quan đến việc giám định;
g) Kết luận giám định.
2. Hồ sơ giám định được lưu giữ ít nhất ba mươi năm, kể từ ngày kết thúc việc giám định, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Tổ chức giám định tư pháp, tổ chức chuyên môn chịu trách nhiệm bảo quản, lưu giữ hồ sơ giám định do người giám định tư pháp thuộc tổ chức mình thực hiện.
3. Hồ sơ giám định phải được xuất trình theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đang giải quyết vụ án.
Người thuộc một trong những trường hợp sau đây thì không được thực hiện giám định tư pháp:
1. Đã tiến hành tố tụng với tư cách là Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Toà án hoặc đã tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người phiên dịch trong vụ án đó;
2. Đồng thời là người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; là người đại diện hợp pháp, người thân thích của những người đó hoặc của bị can, bị cáo;
3. Được trưng cầu giám định lại về cùng một nội dung trong một vụ án mà mình đã thực hiện giám định, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
4. Có căn cứ rõ ràng khác để cho rằng người đó có thể không vô tư trong khi thực hiện giám định.
Article 24.- Solicitation of judicial expertise
1. Judicial expertise solicitors may solicit the following individuals, organizations:
a) The judicial expertise performers defined in Article 7 of this Ordinance;
b) The judicial expertise organizations defined in Chapter III of this Ordinance;
c) Professional organizations with adequate professional conditions and material foundations to ensure the expertise performance.
2. In cases where the professional capabilities, the conditions on expertise equipment, facilities and means of the domestic judicial expertise organizations, professional organizations and judicial expertise performers fail to meet the expertise requirements, the subordinate procedure-conducting agencies shall propose their central-level procedure-conducting agencies to solicit foreign expertise individuals or organizations. The solicitation of foreign expertise individuals and organizations shall be effected through the Justice Ministry.
Article 25.- Rights of judicial expertise solicitors
1. To solicit organizations or individuals for performance of expertise.
2. To request organizations or individuals solicited for expertise to return the expertising conclusions strictly according to the requested contents and time limit.
3. To request judicial expertise performers to explain the expertising conclusions.
4. Other rights prescribed by procedural legislation.
Article 26.- Obligations of expertise solicitors
1. To solicit expertise in writing.
2. To supply information and/or documents related to expertised objects at the requests of judicial expertise performers.
3. To advance expertise expenses when so requested by individuals, organizations solicited for judicial expertise.
4. Other obligations prescribed by procedural legislation.
Article 27.- Written solicitation of expertise
1. A written expertise solicitation shall include the following principal contents:
a) Name of the expertise - soliciting organization; full name of the procedure-conducting person soliciting the expertise;
b) Name of the solicited organization; full name of the solicited individual;
c) Summary of matters related to the to be-expertised object;
d) Origin and characteristics of the expertised object;
e) Names of relevant documents or accompanying comparative samples;
f) Contents requested for expertise;
g) Date of soliciting the expertise and the deadline for return of expertising conclusions.
2. Where additional expertise or re-expertise is solicited, the written expertise solicitation must clearly state that it is the additional expertise or re-expertise.
Article 28.- Acceptance of expertise solicitation
1. Judicial expertise organizations, professional organizations, judicial expertise performers managed by the provincial-level People's Committees shall have to accept and perform the expertises solicited by procedure-conducting agencies, procedure-conducting persons at the district, provincial or central level.
2. Judicial expertise organizations, professional organizations, judicial expertise performers managed by ministries, ministerial-level agencies or Government-attached agencies shall have to accept and perform the expertises solicited by procedure-conducting agencies, procedure-conducting persons at the central level and complicated expertises solicited by procedure-conducting agencies or persons at the district or provincial level.
3. Judicial expertise organizations, professional organizations, judicial expertise performers must refuse to take the expertise solicitations if they have not enough equipment, facilities and means for expertise performance or the contents requested for expertise do not fall in their respective professional field or fall beyond their professional capability.
4. Basing himself/herself on the provisions in Clauses 1, 2 and 3 of this Article, the Defense Minister shall guide the acceptance of expertise solicitations by procedure-conducting agencies in the army.
Article 29.- Delivery and receipt of expertised objects
1. Where the expertise solicitation is accompanied with to be- expertised objects, the delivery and receipt thereof must be effected with written records. A written record on expertise object delivery and receipt shall include the following principal contents:
a) Time and place for delivery and receipt of to be- expertised object;
b) Full names of the representatives of the expertise object-delivering and receiving parties;
c) Name of the expertised object;
d) Method of preserving the expertised objects upon the delivery and receipt thereof;
e) The conditions of the expertised objects upon delivery and receipt;
f) Relevant documents or objects;
g) Signatures of the deliverer and the receiver.
2. The delivery and receipt of expertised objects after the expertise is completed shall comply with the Government's regulations.
Article 30.- Expertise performance
1. Where judicial expertise organizations or professional organizations solicited for expertise, the heads of such organizations shall appoint the judicial expertise performers and bear responsibility for the appointment of such persons. The expertise performers shall bear personal liability before law for the expertising conclusions.
2. Where individuals are solicited for expertise performance, they shall accept and perform the expertises. The heads of their managing organizations shall have to create conditions for them to perform the expertises.
Article 31.- Personal expertise, collective expertise
1. Personal expertise means the expertise performed by a person. Collective expertise means the expertise performed by two or more persons.
2. In case of personal expertise, the expertise performers shall perform the entire expertise and take responsibility for their expertising conclusions.
3. In case of collective expertise of a professional field, the expertise performers shall jointly perform the expertise, sign the common written expertising conclusions and jointly bear the responsibility for such expertising conclusions; in case of divergent opinions, each expertise performer shall write his/her own conclusion in the common written expertising conclusions and bear responsibility for such opinion.
In case of collective expertise of many different professional domains, each expertise performer shall perform the expertise work falling under his/her own professional domain and bear responsibility for his/her expertising conclusions.
Article 32.- Additional expertise
1. The additional expertise shall be carried out in cases where the contents of the expertising conclusions are unclear, inadequate or when arise new matters related to the details of the cases with previous expertising conclusions.
2. The additional expertise can be performed by the previous judicial expertise performer or other judicial expertise performers.
1. The re-expertise shall be carried out at the requests of procedure-conducting agencies or persons in case of doubt about the expertising results or contradiction between expertising conclusions on the same expertised matters. The re-expertise may be carried out by the previous or other expertise performers according to the provisions of procedural legislation.
2. In case of contradictions between the conclusions of the first expertise and the re-expertise conclusions on the same expertised matters, the second re-expertises must be effected by the expertise councils. The expertise councils shall be set up under decisions of ministers, heads of ministerial-level agencies, heads of Government-attached agencies managing the domains which need to be expertised. Such an expertise council is composed of at least three members with high professional qualifications and prestige in the to be- expertised domains.
3. Where the expertise councils defined in Clause 2 of this Article has already performed the second re-expertise, no more re-expertise shall be carried out, except for special cases decided by the chairman of the Supreme People's Procuracy.
Article 34.- Written acknowledgement of expertising process
1. The expertise performers must promptly, fully and truthfully acknowledge in writing the entire expertising process.
2. The written acknowledgement of the expertising process must be included in the expertise dossiers.
Article 35.- Expertising conclusions
1. The expertising conclusions must be made in writing with the following principal contents:
a) Full name of the expertise performer;
b) Name of the procedure-conducting agency or full name of the procedure-conducting person that solicits the expertise; the serial number of the written solicitation of expertise;
c) Time of receiving the written solicitation of expertise;
d) Contents requested for expertise;
e) Expertising methods;
f) Conclusions on the expertised objects;
g) Time and place of expertise completion.
2. The written expertising conclusions must be signed by the judicial expertise performers; in cases where organizations are solicited for expertise, the expertising conclusions must also be signed and stamped by the heads of such organizations.
3. In cases where the expertise is carried out before the issuance of decision to institute a criminal case, strictly according to the order and procedures prescribed by the procedural legislation and this Ordinance, the procedure-conducting agency may not solicit expertise any more but use the conclusions of such expertise as the judicial expertise conclusions.
Article 36.- Expertise dossiers
1. The expertise dossiers shall be compiled by the judicial expertise performers and comprise the following documents:
a) Decisions to solicit expertise;
b) Records on delivery and receipt of expertised objects;
c) Written acknowledgement of the expertising process;
d) The expertise photos;
e) The previous expertising conclusions or results of expertise testing, experimentation performed by other persons;
f) Other documents related to the expertise;
g) Expertising conclusions.
2. The expertise dossiers shall be archived for at least thirty years counting from the date of concluding the expertise, except otherwise provided for by law.
The judicial expertise organizations, the professional organizations shall have to preserve and archive the dossiers on expertises conducted by the judicial expertise performers in their organizations.
3. The expertise dossiers must be presented at the requests of procedure-conducting organizations or persons, that are handling the cases.
Article 37.- Cases not entitled to conduct judicial expertises
Those who fall into one of the following cases must not conduct judicial expertises:
1. Having conducted procedures in their capacity as investigator, procurator, judge, juror, court clerk or have participated in the procedures in their capacity as counsel, defenders of legitimate rights and interests of the involved parties, witness or interpreter in such cases;
2. Being concurrently the victim, civil plaintiff, civil defendant; persons with rights and interests related to the cases; the lawful representatives, relatives of those persons or defendants, the accused;
3. Being solicited for re-expertise of the same contents in a case for which they already performed the expertise, except otherwise provided for by law;
4. Having other clear grounds to believe that such persons are not impartial in performing the expertise.
Tình trạng hiệu lực: Hết hiệu lực