Chương 6 Pháp lệnh 44/2002/PL-UBTVQH10: Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính và thi hành quyết định xử phạt
Số hiệu: | 44/2002/PL-UBTVQH10 | Loại văn bản: | Pháp lệnh |
Nơi ban hành: | Ủy ban Thường vụ Quốc hội | Người ký: | Nguyễn Văn An |
Ngày ban hành: | 02/07/2002 | Ngày hiệu lực: | 01/10/2002 |
Ngày công báo: | 05/09/2002 | Số công báo: | Số 43 |
Lĩnh vực: | Vi phạm hành chính | Tình trạng: |
Hết hiệu lực
01/07/2013 |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
Trong trường hợp xử phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 5.000 đồng đến 100.000 đồng thì người có thẩm quyền xử phạt ra quyết định xử phạt tại chỗ.
Quyết định xử phạt phải ghi rõ ngày, tháng, năm ra quyết định; họ, tên, địa chỉ của người vi phạm hoặc tên, địa chỉ của tổ chức vi phạm; hành vi vi phạm; địa điểm xảy ra vi phạm; họ, tên, chức vụ của người ra quyết định; điều, khoản của văn bản pháp luật được áp dụng. Quyết định này phải được giao cho cá nhân, tổ chức bị xử phạt một bản. Trường hợp phạt tiền thì trong quyết định phải ghi rõ mức tiền phạt. Cá nhân, tổ chức vi phạm có thể nộp tiền phạt tại chỗ cho người có thẩm quyền xử phạt; trong trường hợp nộp tiền phạt tại chỗ thì được nhận biên lai thu tiền phạt.
1. Khi phát hiện vi phạm hành chính thuộc lĩnh vực quản lý của mình, người có thẩm quyền xử phạt đang thi hành công vụ phải kịp thời lập biên bản, trừ trường hợp xử phạt theo thủ tục đơn giản.
Vi phạm hành chính xảy ra trên tàu bay, tàu biển thì người chỉ huy tàu bay, tàu biển có trách nhiệm lập biên bản để chuyển cho người có thẩm quyền xử phạt khi tàu bay, tàu biển về đến sân bay, bến cảng.
2. Trong biên bản về vi phạm hành chính phải ghi rõ ngày, tháng, năm, địa điểm lập biên bản; họ, tên, chức vụ người lập biên bản; họ, tên, địa chỉ, nghề nghiệp người vi phạm hoặc tên, địa chỉ tổ chức vi phạm; giờ, ngày, tháng, năm, địa điểm xảy ra vi phạm; hành vi vi phạm; các biện pháp ngăn chặn vi phạm hành chính và bảo đảm việc xử phạt (nếu có); tình trạng tang vật, phương tiện bị tạm giữ (nếu có); lời khai của người vi phạm hoặc đại diện tổ chức vi phạm; nếu có người chứng kiến, người bị thiệt hại hoặc đại diện tổ chức bị thiệt hại thì phải ghi rõ họ, tên, địa chỉ, lời khai của họ.
3. Biên bản phải được lập thành ít nhất hai bản; phải được người lập biên bản và người vi phạm hoặc đại diện tổ chức vi phạm ký; nếu có người chứng kiến, người bị thiệt hại hoặc đại diện tổ chức bị thiệt hại thì họ cùng phải ký vào biên bản; trong trường hợp biên bản gồm nhiều tờ, thì những người được quy định tại khoản này phải ký vào từng tờ biên bản. Nếu người vi phạm, đại diện tổ chức vi phạm, người chứng kiến, người bị thiệt hại hoặc đại diện tổ chức bị thiệt hại từ chối ký thì người lập biên bản phải ghi rõ lý do vào biên bản.
4. Biên bản lập xong phải được giao cho cá nhân, tổ chức vi phạm một bản; nếu vụ vi phạm vượt quá thẩm quyền xử phạt của người lập biên bản thì người đó phải gửi biên bản đến người có thẩm quyền xử phạt.
1. Thời hạn ra quyết định xử phạt là mười ngày, kể từ ngày lập biên bản về vi phạm hành chính; đối với vụ vi phạm hành chính có nhiều tình tiết phức tạp thì thời hạn ra quyết định xử phạt là ba mươi ngày. Trong trường hợp xét cần có thêm thời gian để xác minh, thu thập chứng cứ thì người có thẩm quyền phải báo cáo thủ trưởng trực tiếp của mình bằng văn bản để xin gia hạn; việc gia hạn phải bằng văn bản, thời hạn gia hạn không được quá ba mươi ngày. Quá thời hạn nói trên, người có thẩm quyền xử phạt không được ra quyết định xử phạt, trừ trường hợp xử phạt trục xuất; trong trường hợp không ra quyết định xử phạt thì vẫn có thể áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản 3 Điều 12 của Pháp lệnh này và tịch thu tang vật vi phạm hành chính thuộc loại cấm lưu hành.
Người có thẩm quyền xử phạt nếu có lỗi trong việc để quá thời hạn mà không ra quyết định xử phạt thì bị xử lý theo quy định tại Điều 121 của Pháp lệnh này.
2. Khi quyết định xử phạt một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính, thì người có thẩm quyền chỉ ra một quyết định xử phạt trong đó quyết định hình thức, mức xử phạt đối với từng hành vi vi phạm; nếu các hình thức xử phạt là phạt tiền thì cộng lại thành mức phạt chung.
3. Trong quyết định xử phạt phải ghi rõ ngày, tháng, năm ra quyết định; họ, tên, chức vụ của người ra quyết định; họ, tên, địa chỉ, nghề nghiệp của người vi phạm hoặc tên, địa chỉ của tổ chức vi phạm; hành vi vi phạm hành chính; những tình tiết liên quan đến việc giải quyết vụ vi phạm; điều, khoản của văn bản pháp luật được áp dụng; hình thức xử phạt chính, hình thức xử phạt bổ sung (nếu có), các biện pháp khắc phục hậu quả (nếu có); thời hạn, nơi thi hành quyết định xử phạt và chữ ký của người ra quyết định xử phạt.
Trong quyết định xử phạt cũng phải ghi rõ cá nhân, tổ chức bị xử phạt nếu không tự nguyện chấp hành thì bị cưỡng chế thi hành; quyền khiếu nại, khởi kiện đối với quyết định xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật.
4. Quyết định xử phạt có hiệu lực kể từ ngày ký, trừ trường hợp trong quyết định quy định ngày có hiệu lực khác.
5. Quyết định xử phạt được gửi cho cá nhân, tổ chức bị xử phạt và cơ quan thu tiền phạt trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày ra quyết định xử phạt.
1.Việc phạt tiền trên 100.000 đồng phải theo đúng quy định tại Điều 55 và Điều 56 của Pháp lệnh này.
2. Khi phạt tiền, mức tiền phạt cụ thể đối với một hành vi vi phạm hành chính là mức trung bình của khung tiền phạt được quy định đối với hành vi đó; nếu có tình tiết giảm nhẹ thì mức tiền phạt có thể giảm xuống, nhưng không được giảm quá mức tối thiểu của khung tiền phạt; nếu có tình tiết tăng nặng thì mức tiền phạt có thể tăng lên nhưng không được vượt quá mức tối đa của khung tiền phạt.
3. Trong trường hợp chỉ áp dụng hình thức phạt tiền đối với cá nhân, tổ chức vi phạm, thì người có thẩm quyền xử phạt có quyền tạm giữ giấy phép lưu hành phương tiện hoặc giấy phép lái xe hoặc giấy tờ cần thiết khác có liên quan cho đến khi cá nhân, tổ chức đó chấp hành xong quyết định xử phạt. Nếu cá nhân, tổ chức vi phạm không có những giấy tờ nói trên, thì người có thẩm quyền xử phạt có thể tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm.
4. Cá nhân, tổ chức bị phạt tiền phải nộp tiền phạt và được nhận biên lai thu tiền phạt.
5. Tiền phạt thu được phải nộp vào ngân sách nhà nước qua tài khoản mở tại Kho bạc nhà nước.
6. Chính phủ quy định việc quản lý biên lai thu tiền phạt và tiền nộp phạt.
1. Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày được giao quyết định xử phạt, cá nhân, tổ chức bị xử phạt phải nộp tiền phạt tại Kho bạc nhà nước được ghi trong quyết định xử phạt, trừ trường hợp đã nộp tiền phạt tại chỗ và những trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
2. Tại những vùng xa xôi, hẻo lánh, trên sông, trên biển, những vùng mà việc đi lại gặp khó khăn hoặc ngoài giờ hành chính thì cá nhân, tổ chức bị xử phạt có thể nộp tiền phạt cho người có thẩm quyền xử phạt. Người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm thu tiền phạt tại chỗ và nộp vào Kho bạc nhà nước theo quy định tại khoản 3 Điều này.
3. Tại những vùng xa xôi, hẻo lánh hoặc những vùng mà việc đi lại gặp khó khăn, thì người thu tiền phạt tại chỗ có trách nhiệm nộp tiền phạt thu được tại Kho bạc nhà nước trong thời hạn không quá bảy ngày, kể từ ngày thu tiền phạt; đối với các trường hợp khác thì thời hạn trên là không quá hai ngày. Trong trường hợp thu tiền phạt trên sông, trên biển, người thu tiền phạt phải nộp tại Kho bạc nhà nước trong thời hạn hai ngày, kể từ ngày vào đến bờ.
1. Khi tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề, người có thẩm quyền xử phạt thu giữ giấy phép, chứng chỉ hành nghề được ghi trong quyết định xử phạt và thông báo ngay cho cơ quan đã cấp giấy phép, chứng chỉ hành nghề đó biết.
2. Khi hết thời hạn tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề ghi trong quyết định xử phạt, người có thẩm quyền xử phạt giao lại giấy phép, chứng chỉ hành nghề cho cá nhân, tổ chức đã bị tước giấy phép, chứng chỉ hành nghề đó.
3. Khi phát hiện giấy phép, chứng chỉ hành nghề được cấp không đúng thẩm quyền hoặc có nội dung trái pháp luật thì người có thẩm quyền xử phạt phải tiến hành thu hồi ngay, đồng thời báo cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền biết.
Khi tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính được ghi trong quyết định xử phạt, người có thẩm quyền xử phạt phải lập biên bản. Trong biên bản phải ghi rõ tên, số lượng, chủng loại, số đăng ký (nếu có), tình trạng, chất lượng của vật, tiền, hàng hoá, phương tiện bị tịch thu và phải có chữ ký của người tiến hành tịch thu, người bị xử phạt hoặc đại diện tổ chức bị xử phạt và người chứng kiến.
Trong trường hợp cần niêm phong tang vật, phương tiện vi phạm thì phải tiến hành ngay trước mặt người bị xử phạt hoặc đại diện tổ chức bị xử phạt và người chứng kiến; nếu người bị xử phạt hoặc đại diện tổ chức bị xử phạt vắng mặt thì phải có hai người chứng kiến.
1. Đối với tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu thì người quyết định tịch thu có trách nhiệm bảo quản tang vật, phương tiện .
Nếu tang vật, phương tiện của một vụ vi phạm hành chính có giá trị từ 10.000.000 đồng trở lên thì người quyết định tịch thu phải giao cho Trung tâm dịch vụ bán đấu giá cấp tỉnh nơi có tang vật, phương tiện bị tịch thu. Nếu tang vật, phương tiện của một vụ vi phạm hành chính có giá trị dưới 10.000.000 đồng thì người quyết định tịch thu phải giao cho cơ quan tài chính cấp huyện tổ chức bán đấu giá. Việc bán đấu giá tang vật, phương tiện vi phạm hành chính được thực hiện theo quy định của pháp luật về bán đấu giá.
Tiền thu được từ bán đấu giá tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, sau khi trừ các chi phí theo quy định của pháp luật, phải được nộp vào ngân sách nhà nước qua tài khoản mở tại Kho bạc nhà nước.
2. Đối với tang vật, phương tiện vi phạm hành chính là văn hoá phẩm độc hại, hàng giả không có giá trị sử dụng, vật phẩm gây hại cho sức khoẻ con người, vật nuôi, cây trồng bị buộc tiêu huỷ thì người có thẩm quyền phải lập Hội đồng xử lý để tiêu huỷ. Tuỳ thuộc vào tính chất của tang vật, phương tiện, thành phần Hội đồng xử lý gồm đại diện các cơ quan nhà nước hữu quan. Việc tiêu huỷ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính phải được lập biên bản có chữ ký của các thành viên Hội đồng xử lý.
Đối với hàng hoá, vật phẩm, phương tiện bị buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc bị buộc tái xuất, thì cá nhân, tổ chức vi phạm phải đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam trong thời hạn ghi trong quyết định xử phạt.
3. Đối với tang vật vi phạm hành chính là hàng hoá, vật phẩm dễ bị hư hỏng thì người có thẩm quyền tịch thu phải tiến hành lập biên bản và tổ chức bán ngay. Tiền thu được phải gửi vào tài khoản tạm gửi mở tại Kho bạc nhà nước. Nếu sau đó theo quyết định của người có thẩm quyền, tang vật đó bị tịch thu thì tiền thu được phải nộp vào ngân sách nhà nước; trong trường hợp tang vật đó không bị tịch thu thì tiền thu được phải trả cho chủ sở hữu, người quản lý hoặc người sử dụng hợp pháp.
4. Đối với tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, trừ tang vật, phương tiện quy định tại các khoản 2 và 3 Điều này, mà không biết rõ chủ sở hữu, người quản lý, người sử dụng hợp pháp hoặc những người này không đến nhận thì người có thẩm quyền tịch thu phải thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng và niêm yết công khai tại trụ sở cơ quan của người có thẩm quyền tịch thu; trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày thông báo được niêm yết công khai, nếu không xác định được chủ sở hữu, người quản lý, người sử dụng hợp pháp hoặc những người này không đến nhận thì người có thẩm quyền phải ra quyết định tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm để xử lý theo quy định tại khoản 1 Điều này.
5. Đối với tang vật, phương tiện bị chiếm đoạt, sử dụng trái phép để vi phạm hành chính thì trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hoặc người sử dụng hợp pháp.
6. Chi phí lưu kho, phí bến bãi, phí bảo quản tang vật, phương tiện vi phạm hành chính và các khoản chi phí khác phù hợp với quy định của pháp luật được trừ vào tiền bán tang vật, phương tiện vi phạm hành chính.
Không thu phí lưu kho, phí bến bãi, phí bảo quản trong thời gian tang vật, phương tiện bị tạm giữ nếu chủ tang vật, phương tiện không có lỗi trong việc vi phạm hành chính hoặc không áp dụng biện pháp tịch thu đối với tang vật, phương tiện.
1. Khi xem xét vụ vi phạm để quyết định xử phạt, nếu xét thấy hành vi vi phạm có dấu hiệu tội phạm, thì người có thẩm quyền phải chuyển ngay hồ sơ cho cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền.
Nghiêm cấm việc giữ lại các vụ vi phạm có dấu hiệu tội phạm để xử phạt hành chính.
2. Đối với trường hợp đã ra quyết định xử phạt, nếu sau đó phát hiện hành vi vi phạm có dấu hiệu tội phạm mà chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì người đã ra quyết định xử phạt phải huỷ quyết định đó và trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày huỷ quyết định xử phạt, phải chuyển hồ sơ vụ vi phạm cho cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền.
Trong trường hợp cá nhân đã bị khởi tố, truy tố hoặc đã có quyết định đưa ra xét xử theo thủ tục tố tụng hình sự, nhưng sau đó lại có quyết định đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ án, nếu hành vi có dấu hiệu vi phạm hành chính, thì trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày ra quyết định đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ án, cơ quan tiến hành tố tụng hình sự phải chuyển quyết định đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ án kèm theo hồ sơ vụ vi phạm và đề nghị xử phạt hành chính đến người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính.
1. Cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính phải chấp hành quyết định xử phạt trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày được giao quyết định xử phạt, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Quá thời hạn được quy định tại khoản 1 Điều này mà cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính không tự nguyện chấp hành quyết định xử phạt thì bị cưỡng chế thi hành.
1. Cá nhân bị phạt tiền từ 500.000 đồng trở lên có thể được hoãn chấp hành quyết định xử phạt trong trường hợp đang gặp khó khăn đặc biệt về kinh tế và có đơn đề nghị được Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú hoặc tổ chức nơi người đó làm việc xác nhận.
2. Thời hạn hoãn chấp hành quyết định phạt tiền không quá ba tháng, kể từ khi có quyết định hoãn.
3. Người đã ra quyết định phạt tiền có quyền quyết định hoãn chấp hành quyết định phạt tiền đó.
4. Người được hoãn chấp hành quyết định phạt tiền được nhận lại giấy tờ, tang vật, phương tiện đang bị tạm giữ theo quy định tại khoản 3 Điều 57 của Pháp lệnh này.
1. Cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính mà không tự nguyện chấp hành quyết định xử phạt thì bị cưỡng chế thi hành bằng các biện pháp sau đây:
a) Khấu trừ một phần lương hoặc một phần thu nhập, khấu trừ tiền từ tài khoản tại ngân hàng;
b) Kê biên tài sản có giá trị tương ứng với số tiền phạt để bán đấu giá;
c) Các biện pháp cưỡng chế khác để thực hiện tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính, buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây ra hoặc buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép, buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan dịch bệnh, buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam, buộc tái xuất hàng hoá, vật phẩm, phương tiện, buộc tiêu huỷ vật phẩm gây hại cho sức khoẻ con người, vật nuôi và cây trồng, văn hoá phẩm độc hại.
2. Cá nhân, tổ chức nhận được quyết định cưỡng chế phải nghiêm chỉnh chấp hành quyết định cưỡng chế.
3. Cá nhân, tổ chức bị cưỡng chế phải chịu mọi chi phí về việc tổ chức thực hiện các biện pháp cưỡng chế.
4. Việc cưỡng chế bằng các biện pháp quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 Điều này phải được thông báo bằng văn bản trước khi thi hành cho Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi thực hiện việc cưỡng chế để phối hợp thực hiện.
5. Các cơ quan chức năng của Uỷ ban nhân dân có trách nhiệm thi hành quyết định cưỡng chế của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp theo sự phân công của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân.
6. Lực lượng Cảnh sát nhân dân có trách nhiệm bảo đảm trật tự, an toàn trong quá trình thi hành quyết định cưỡng chế của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp hoặc quyết định cưỡng chế của các cơ quan khác của Nhà nước khi được các cơ quan đó yêu cầu.
7. Thủ tục áp dụng các biện pháp cưỡng chế do Chính phủ quy định.
Những người sau đây có thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế và có nhiệm vụ tổ chức việc cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt của mình và của cấp dưới:
1. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã, cấp huyện, cấp tỉnh;
2. Trưởng Công an cấp huyện, Giám đốc Công an cấp tỉnh, Cục trưởng Cục Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội, Cục trưởng Cục Cảnh sát giao thông, Cục trưởng Cục Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy, Cục trưởng Cục Cảnh sát kinh tế, Cục trưởng Cục Cảnh sát hình sự, Cục trưởng Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm ma tuý, Cục trưởng Cục Quản lý xuất cảnh, nhập cảnh;
3. Trưởng Đồn biên phòng, Chỉ huy trưởng Bộ đội biên phòng cấp tỉnh; Cục trưởng Cục Cảnh sát biển;
4. Cục trưởng Cục Hải quan, Cục trưởng Cục điều tra chống buôn lậu thuộc Tổng cục Hải quan;
5. Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm, Cục trưởng Cục Kiểm lâm;
6. Cục trưởng Cục Thuế;
7. Chi Cục trưởng Chi cục Quản lý thị trường, Cục trưởng Cục Quản lý thị trường;
8. Chánh thanh tra chuyên ngành cấp sở, Chánh thanh tra chuyên ngành bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ;
9. Thẩm phán chủ toạ phiên toà, Trưởng phòng thi hành án dân sự cấp tỉnh, Trưởng phòng thi hành án Quân khu và cấp tương đương.
Trong trường hợp cá nhân, tổ chức thực hiện vi phạm hành chính ở một địa phương nhưng cư trú, đóng trụ sở ở địa phương khác và không có điều kiện chấp hành quyết định xử phạt tại nơi bị xử phạt, thì quyết định xử phạt được chuyển đến nơi cá nhân cư trú, tổ chức đóng trụ sở để chấp hành theo quy định của Chính phủ.
Thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính là một năm, kể từ ngày ra quyết định xử phạt; quá thời hạn này mà quyết định đó không được thi hành thì không thi hành quyết định xử phạt nữa nhưng vẫn áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả được ghi trong quyết định.
Trong trường hợp cá nhân, tổ chức bị xử phạt cố tình trốn tránh, trì hoãn thì thời hiệu nói trên được tính lại kể từ thời điểm chấm dứt hành vi trốn tránh, trì hoãn.
PROCEDURES FOR SANCTIONING ADMINISTRATIVE VIOLATIONS AND EXECUTION OF SANCTIONING DECISIONS
Article 53.- Stopping acts of administrative violations
Upon detecting administrative violations, the persons with handling competence must order the immediate cessation of the acts of administrative violations.
Article 54.- Simple procedures
For warning or fine of between VND 5,000 and 100,000, the persons with sanctioning competence shall issue decisions to sanction such acts on the spot.
The sanctioning decisions must clearly state the dates of issuance; the full names and addresses of the violators or the violating organizations; acts of violation; places where the violations are committed; full name and positions of the decision issuers; clauses of legal documents to be applied. Such decisions must be handed to sanctioned individuals or organizations, one copy each. In case of fine, the decisions must clearly state the fine levels. Violating individuals and organizations may pay fines on spot to the persons with sanctioning competence; where fines are paid on spot, the fine receipts shall be issued.
Article 55.- Making records of administrative violations
1. Upon detecting administrative violations in their respective management domains, the persons with sanctioning competence on official duty must promptly make records thereon, except for cases of sanctioning according to simple procedures.
Administrative violations occurring on aircraft or ships, the aircraft or ship captains must make records thereon for sending to persons with sanctioning competence when the aircraft or ships return to the airports or sea ports.
2. The records on administrative violations must clearly state the date and places of making the records; the full names and positions of the record makers; the full names, addresses and occupations of the violators or the names and addresses of the violating organizations; the hours, date and locations when and where the administrative violations occur; acts of violation; measures to prevent administrative violations and ensure the sanctions (if any); the conditions of custody material evidences and means (if any); the testimonies of violators or representatives of violating organizations; if there are witnesses, victims or representatives of the victim organizations, their full names, addresses and testimonies must be clearly inscribed.
3. A record must be made in at least two copies; signed by the record maker and the violator or the representative of the violating organization; if there are witnesses, victims or representatives of the victim organizations, they must also sign the decision; where the record consists of many pages, the persons defined in this Clause must sign their names to each page of the record. If the violator, the representative of the violating organization, the witnesses, the victims or representatives of the victim organizations refuse to sign, the record maker shall have to clearly inscribe their reasons therefor in the record.
4. Records, when completely made, must be handed to violating individuals or organizations, one copy each; if the cases of violation are beyond the sanctioning competence of the record makers, they must send the records to the persons with sanctioning competence.
Article 56.- Sanctioning decisions
1. The time limit for making a sanctioning decision shall be ten days as from the date of making the record on the administrative violation; for cases of administrative violation involving many complicated circumstances, the time limit for issuing the sanctioning decision shall be thirty days. In case of deeming it necessary to have more time for verification, gathering of evidences, the competent persons must report such to their immediate superiors in writing for extension thereof; the extension must be made in writing, the extension duration shall not exceed thirty days. Past the above-mentioned time limits, the persons with sanctioning competence must not issue sanctioning decisions, except for case of sanctioning with expulsion; where the sanctioning decisions are not issued, the consequence-overcoming measures prescribed in Clause 3, Article 12 of this Ordinance and the confiscation of administrative-violation material evidences of types banned from circulation can also be applied.
If past the said time limits the persons with sanctioning competence are at fault in failing to issue sanctioning decisions, they shall be handled according to the provisions in Article 121 of this Ordinance.
2. When deciding to sanction one person who has committed many acts of administrative violation, the competent person shall issue only one sanctioning decision deciding on the sanctioning form and level for each violation act; if the sanctioning form of fine is applied, the fines shall be aggregated into an overall fine level.
3. The sanctioning decisions must clearly state the date of issuance; the full names and positions of the decision issuers; the full names, addresses and occupations of the violators or the names and addresses of the violating organizations; acts of administrative violation; circumstances related to the settlement of violation cases; articles and clauses of legal documents to be applied; the principal sanctioning forms, the additional sanctioning forms (if any), measures to overcome consequences (if any); the duration and places for execution of sanctioning decisions and the signatures of the sanctioning decisions issuers.
The sanctioning decisions must also clearly state the sanctioned individuals and/or organizations, that shall be forced to execute the sanctioning decisions if they fail to voluntarily execute them; the right to complain or initiate lawsuits against the decisions to sanction administrative violations shall comply with the provisions of law.
4. Sanctioning decisions shall take effect after their signing, except for cases where the decisions state other effective dates.
5. The sanctioning decisions shall be addressed to sanctioned individuals and organizations and the fine-collecting agencies within three days as from the dates the sanctioning decisions are issued
Article 57.- Fining procedures
1. The sanctioning with fines of over VND 100,000 must strictly comply with the provisions in Articles 55 and 56 of this Ordinance.
2. When fining, the specific fine level for an act of administrative violation shall be the average of the fine bracket prescribed for such act; if the extenuating circumstances are involved, the fine levels can be reduced but not to below the minimum level of the fine bracket; if aggravating circumstances are involved, the fine level may be increased but not beyond the maximum level of the fine bracket.
3. Where the sanctioning form of fine is applied only to violating individuals or organizations, the persons with sanctioning competence may temporarily seize the permits for circulation of means or driving licenses or other necessary relevant papers until such individuals or organizations completely execute the sanctioning decisions. If the violating individuals or organizations do not have the above-mentioned papers, the persons with sanctioning competence may temporarily seize the material evidences and/or means of violations.
4. The fined individuals and organizations must pay fines and get the fine receipts.
5. The collected fines must be remitted into the State budget via accounts opened at State treasuries.
6. The Government shall prescribe the management of fine receipts and fine money.
Article 58.- Places for payment of fines
1. Within ten days after being given the sanctioning decisions, the sanctioned individuals and organizations must pay fines at the State treasuries inscribed in the sanctioning decisions, except for cases where fines are paid on the spot and the cases prescribed in Clause 2 of this Article.
2. In remote and isolated regions, on rivers, on sea, in regions where traffic meet with difficulties or outside the working hours, the sanctioned individuals and organizations may pay fines to the persons with sanctioning competence. The persons with sanctioning competence shall have to collect fines on the spot and pay them into State treasuries as prescribed in Clause 3 of this Article.
3. In remote, far-flung regions or areas where traffic meets with difficulties, the persons who collect fines on the spot shall have to remit fines into the State treasuries within seven days as from the date the fines are collected; for other cases, the above-said time limit shall not exceed two days. Where fines are collected on rivers, sea, the fine collectors must remit them into the State treasuries within two days as from the date they come ashore.
Article 59.- Procedures for stripping off the right to use licenses, professional practice certificates
1. When stripping off the right to use licenses and/or professional practice certificates, the persons with sanctioning competence shall seize the licenses and/or professional practice certificates, inscribe such in the sanctioning decisions and notify the agencies which have issued those licenses and/or professional practice certificates thereof.
2. Upon the expiry of the time limit for deprivation of the right to use licenses and/or professional practice certificates, inscribed in the sanctioning decisions, the persons with sanctioning competence shall return such licenses and/or professional practice certificates to the individuals and/or organizations whose right to use licenses and/or professional certificates was stripped off.
3. Upon detecting that the licenses and/or professional practice certificates have been granted ultra vires or contain illegal contents, the persons with sanctioning competence shall have to withdraw them immediately and at the same time report such to the competent State bodies.
Article 60.- Procedures for confiscation of material evidences and/or means of administrative violations
When confiscating material evidences and/or means of administrative violations inscribed in the sanctioning decisions, the persons with sanctioning competence must make the records thereof. The records must clearly state the names, quantity, category and registration numbers (if any), conditions and quality of the confiscated things, money, goods and means and must be signed by the confiscators, the sanctioned persons or the representatives of the sanctioned organizations and the witnesses.
Where it is necessary to seal the material evidences and/or means, the sealing must be carried out in front of the sanctioned persons or the representatives of the sanctioned organizations and the witnesses; if the sanctioned persons or the representatives of the sanctioned organizations are absent, there must be two witnesses.
Article 61.- Handling material evidences and means of administrative violations
1. For confiscated material evidences and means of administrative violations, the persons who have decided to confiscate them shall have to preserve such material evidences and means.
If the material evidences and/or means of a case of administrative violation are valued at VND 10,000,000 or more, the persons who decide to confiscate them must hand them over to the provincial-level auction service centers of the localities where the material evidences and/means are confiscated. If the material evidences and/or means of a case of administrative violation value under VND10,000,000, the person who decides the confiscation must hand them over to the district-level finance agency for organization of auction. The auction of material evidences and/or means of administrative violations must be carried out according to law provisions on auction.
The proceeds from the auction of material evidences and/or means of administrative violations, after subtracting expenses according to law provisions, must be remitted into the State budget via accounts opened at the State treasuries.
2. For material evidences and/or means of administrative violations being harmful cultural products, fake goods having no use value, articles causing harms to human health, domestic animals or plants, which must be destroyed, the competent persons must set up the handling council for destruction. Depending on the nature of the material evidences and means, the handling council shall be composed of representatives of concerned State bodies. The destruction of material evidences and means of administrative violations must be recorded in writing with the signatures of members of the handling council.
For goods, articles and means forced to be brought out of Vietnamese territory or forced to be re-exported, the violating individuals and/or organizations must take them out of the Vietnamese territory within the time limits prescribed in the sanctioning decisions.
3. For material evidences of administrative violations being goods and articles, which are easy to decay, the persons competent to confiscate them must make records thereon and organize the immediate sale thereof. The proceeds therefrom must be deposited into the temporary custody accounts opened at the State treasuries. If later by decisions of the competent persons, such material evidences are confiscated, the proceeds must be remitted into the State budget; in cases where such materials evidences are not confiscated, the proceeds therefrom must be returned to the lawful owners, managers or users thereof.
4. For material evidences and means of administrative violations, except for material evidences and means prescribed in Clauses 2 and 3 of this Article, of which the lawful owners, managers or users are unidentified or these people do not come to receive them, the persons competent to confiscate them must announce such on the mass media and post up notices at the offices of the persons competent to confiscate them; within thirty day as from the date of public notice, if the lawful owners, managers or users cannot be identified or these persons do not come to receive them, the competent persons must issue decisions to confiscate the material evidences and means of violations for handling according to the provisions in Clause 1 of this Article.
5. For material evidences and means illegally appropriated and used for administrative violations, they must be returned to their lawful owners, managers or users.
6. Expenses for warehousing, yard-storage and preservation of material evidences and means of administrative violations and other expenses compliable with law provisions shall be subtracted from the proceeds from the sale of material evidences and/or means of administrative violations.
The charges for warehousing, yard-storing and preservation of material evidences and means shall not be collected if the material-evidences and/or means owners are not at fault in the administrative violations or the measure of confiscation is not applied to the material evidences and/or means.
Article 62.- Transferring dossiers of cases of violation with criminal signs for penal liability examination.
1. When considering violation cases in order to decide on the sanction, if deeming that the violation acts show criminal signs, the competent persons must immediately transfer the dossiers thereon to competent criminal proceedings agencies.
It is strictly forbidden to retain violation cases with criminal signs for administrative sanction.
2. For cases where the sanctioning decisions have already been issued but later the violation acts are detected as showing criminal signs while the statute of limitations for penal liability examination has not yet expired, the persons who have issued the sanctioning decisions shall have to disregard such decisions and within three days as from the date of disregarding the sanctioning decisions have to transfer the dossiers of the violation cases to the competent criminal proceedings agencies.
Article 63.- Transferring dossiers of violation cases for administrative sanctions
In cases where individuals are sued, prosecuted or got decisions to be brought to trial according to criminal proceedings, but later got other decisions to suspend the investigation or suspend the cases, if the violation acts show signs of administrative violations, within three days as from the date of issuing decisions to suspend the investigation or suspend the cases, the agencies conducting the criminal proceedings must transfer the decisions on suspension of investigation or cases together with the dossiers of the violation cases and propose the administrative sanctions to the persons competent to sanction administrative violations.
Article 64.- Executing decisions to sanction administrative violations
1. Individuals and organizations sanctioned for administrative violations must execute the sanctioning decisions within ten days as from the date they are given the sanctioning decisions, except otherwise provided for by law.
2. If past the time limit prescribed in Clause 1 of this Article the individuals and/or organizations sanctioned for administrative violations still fail to voluntarily execute the sanctioning decisions, they shall be coerced to do so.
Article 65.- Postponing the execution of fining decisions
1. Individuals fined VND 500,000 or more may postpone the execution of the sanctioning decisions in cases where they are meeting with exceptionally economic difficulties and file their applications therefor, which are certified by the commune-level People’s Committees of the localities where such persons reside or organizations where such persons work.
2. The time limit for postponing the execution of the fining decisions shall not exceed three months as from the date the postponement decisions are issued.
3. The persons who have issued fining decisions shall be entitled to decide on the postponement of the execution of those fining decisions.
4. The persons entitled to postpone the execution of the fining decisions may receive back their papers, material evidences and/or means, which are being temporarily seized according to the provisions in Clause 3, Article 57 of this Ordinance.
Article 66.- Forced execution of decisions on sanctioning administrative violations
1. Individuals and organizations, that are sanctioned for administrative violations but fail to voluntarily execute the sanctioning decisions, shall be subject to coercive execution by the following measures:
a) Deducting part of their wages or income, deducting money from their bank accounts;
b) Inventorying and seizing assets with value corresponding to the fine amount for auction;
c) Other coercive measures to effect the confiscation of material evidences and/or means used for administrative violations, to force the restoration of the initial state altered due to administrative violations or force the dismantlement of illegally constructed works, force the application of measures to overcome the environmental pollution or epidemic spread, force the bringing out of the Vietnamese terrority or re-export of goods, articles and/or means, force the destruction of articles which cause harms to human health, domestic animals and cultivated plants, harmful cultural products.
2. Individuals and organizations that receive the coercion decisions must strictly implement the coercive measures.
3. Individuals and organizations subject to coercive implementation must bear all expenses for organizing the implementation of coercive measures.
4. The coercion with the measures prescribed at Points b and c, Clause 1 of this Article must be notified before the application thereof to the presidents of the commune-level People’s Committees of the localities where the coercion shall be carried out for implementation coordination.
5. The functional bodies of the People’s Committees shall have to execute the coercion decisions of the presidents of the People’s Committees of the same level according to the assignment by the People’s Committee presidents.
6. The people’s police force shall have to ensure order and safety in the process of enforcing the coercion decisions of the presidents of the People’s Committee of the same level or the coercion decisions of other State bodies when so requested by such bodies.
7. The procedures for application of coercive measures shall be prescribed by the Government.
Article 67.- Competence to issue coercion decisions
The following persons are competent to issue coercion decisions and tasked to organize the coercive execution of the sanctioning decisions of their own and their subordinates:
1. The presidents of the commune-level, district-level or provincial-level People’s Committees;
2. The district police chiefs, the directors of the provincial-level police departments, the director of the Police Department for Administrative Management of Social Order, the director of the Traffic Police Department, the director of the Fire Prevention and Fighting Department, the director of the Economic Police Department, the director of the Criminal Police Department, the director of the Police Department for Prevention and Combat of Drug-Related Crimes, the director of the Entry and Exit Management Department;
3. Heads of the border guard posts, commanders of the provincial-level Border Guard; the director of the Coast Guard Department;
4. The directors of the Customs Departments, the director of Anti-Smuggling Investigation Department under the General Department of Customs;
5. Heads of the Ranger Sub-Departments, director of the Ranger Department;
6. The directors of the Tax Departments;
7. The heads of the Market Management Sub-Departments, the director of the Market Management Department;
8. The specialized chief inspectors of the provincial-service level, the specialized chief inspectors of the ministries, ministerial-level agencies and agencies attached to the Government;
9. The judges chairing court sessions, heads of the provincial-level civil judgment execution sections, the heads of the judgment executing sections of the military zones or the equivalent level.
Article 68.- Transferring decisions on sanctioning administrative violations for execution
Where individuals and organizations that commit the administrative violations in a locality but reside, headquarter in other localities and have no conditions to execute the sanctioning decisions at places where they are sanctioned, the sanctioning decisions shall be transferred to residence places of individuals, headquarters of the organizations for execution according to the Government’s regulations.
Article 69.- The statute of limitation for execution of decisions on sanctioning administrative violations
The statute of limitation for executing a decision on sanctioning administrative violation shall be one year as from the date the sanctioning decision is issued; if past this time limit such decision is not implemented, the sanctioning decision shall not be executed but the consequence-overcoming measures inscribed in the decision still apply.
Where sanctioned individuals or organizations deliberately shirk or delay the execution of decisions on sanctioning administrative violations, the above-said statute of limitation shall be recalculated from the time of stopping acts of shirking or delaying the execution.
Tình trạng hiệu lực: Hết hiệu lực