Nghị định 155/2005/NĐ-CP về việc xác định trị giá hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu
Số hiệu: | 155/2005/NĐ-CP | Loại văn bản: | Nghị định |
Nơi ban hành: | Chính phủ | Người ký: | Phan Văn Khải |
Ngày ban hành: | 15/12/2005 | Ngày hiệu lực: | 01/01/2006 |
Ngày công báo: | 17/12/2005 | Số công báo: | Từ số 21 đến số 22 |
Lĩnh vực: | Xuất nhập khẩu, Thuế - Phí - Lệ Phí | Tình trạng: |
Hết hiệu lực
27/04/2007 |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
CHÍNH PHỦ |
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 155/2005/NĐ-CP |
Hà Nội, ngày 15 tháng 12 năm 2005 |
NGHỊ ĐỊNH
QUY ĐỊNH VỀ VIỆC XÁC ĐỊNH TRỊ GIÁ HẢI QUAN ĐỐI VỚI HÀNG HOÁ XUẤT KHẨU, NHẬP KHẨU
CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;
Căn cứ Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 45/2005/QH11 ngày 14 tháng 6 năm 2005;
Căn cứ Luật Hải quan số 29/2001/QH10 ngày 29 tháng 6 năm 2001 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hải quan số 42/2005/QH11 ngày 14 tháng 6 năm 2005;
Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tài chính,
NGHỊ ĐỊNH:
1. Nghị định này quy định việc xác định trị giá hải quan nhằm mục đích tính thuế và thống kê đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu.
2. Hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu là đối tượng áp dụng Nghị định này.
3. Trường hợp Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác với Nghị định này thì thực hiện theo quy định tại Điều ước quốc tế đó.
1. “Trị giá giao dịch” là tổng số tiền người mua thực tế đã thanh toán hoặc sẽ phải thanh toán trực tiếp hay gián tiếp cho người bán để mua hàng hoá nhập khẩu, sau khi đã được điều chỉnh theo quy định tại Điều 13 Nghị định này.
2. “Bán để xuất khẩu đến Việt Nam” là hoạt động thương mại trong đó có sự chuyển dịch hàng hoá từ người bán sang người mua, qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam hoặc từ khu phi thuế quan vào thị trường nội địa, nhằm mục đích chuyển quyền sở hữu hàng hoá từ người bán sang người mua.
3. “Ngày xuất khẩu” sử dụng trong phương pháp trị giá giao dịch của hàng hoá nhập khẩu giống hệt và phương pháp trị giá giao dịch của hàng hoá nhập khẩu tương tự là ngày xếp hàng lên phương tiện vận tải theo vận đơn; đối với hàng hoá vận chuyển bằng đường bộ thì “ngày xuất khẩu” là ngày đăng ký tờ khai hải quan.
4. “Cửa khẩu nhập đầu tiên” là cảng đích ghi trên vận tải đơn. Đối với loại hình vận chuyển bằng đường bộ, đường sắt hoặc đường sông quốc tế thì “cửa khẩu nhập đầu tiên” là cảng đích ghi trên hợp đồng.
5. “Thông tin có sẵn” là tất cả các thông tin liên quan đến việc kiểm tra, xác định trị giá tính thuế do người khai hải quan cung cấp cho cơ quan hải quan hoặc do cơ quan hải quan thu thập được tính đến thời điểm kiểm tra, xác định trị giá tính thuế. Các thông tin này phải được cơ quan hải quan lưu giữ, phân tích, quản lý tại cơ quan hải quan.
6. “Hàng hoá nhập khẩu giống hệt” là những hàng hoá giống nhau về mọi phương diện, kể cả đặc điểm vật lý, chất lượng và danh tiếng; được sản xuất ở cùng một nước, bởi cùng một nhà sản xuất hoặc nhà sản xuất khác theo sự uỷ quyền của nhà sản xuất đó, được nhập khẩu vào Việt Nam.
7. “Hàng hoá nhập khẩu tương tự” là những hàng hoá mặc dù không giống nhau về mọi phương diện nhưng có các đặc trưng cơ bản giống nhau, được làm từ các nguyên, vật liệu giống nhau; có cùng chức năng và có thể hoán đổi cho nhau trong giao dịch thương mại; được sản xuất ở cùng một nước, bởi cùng một nhà sản xuất hoặc nhà sản xuất khác theo sự uỷ quyền của nhà sản xuất đó, được nhập khẩu vào Việt Nam.
8. “Còn nguyên trạng như khi nhập khẩu” sử dụng trong phương pháp xác định trị giá tính thuế theo trị giá khấu trừ, là hàng hoá sau khi nhập khẩu không bị bất cứ một tác động nào làm thay đổi hình dạng, đặc điểm, tính chất, công dụng của hàng hoá hoặc làm tăng, giảm trị giá của hàng hoá nhập khẩu.
9. Người mua và người bán có mối quan hệ đặc biệt khi:
a) Họ là nhân viên hoặc giám đốc của một doanh nghiệp khác;
b) Họ là những thành viên hợp danh, góp vốn trong kinh doanh được pháp luật công nhận;
c) Họ là chủ và người làm thuê;
d) Người bán có quyền kiểm soát người mua hoặc ngược lại;
đ) Họ đều bị một bên thứ ba kiểm soát;
e) Họ cùng kiểm soát một bên thứ ba.
Một người có quyền kiểm soát người khác quy định tại các điểm d, đ, e khoản 9 Điều này là người có thể hạn chế được hay chỉ đạo được một cách trực tiếp hoặc gián tiếp đối với người kia.
g) Họ có mối quan hệ gia đình sau:
- Vợ chồng;
- Bố mẹ và con cái được pháp luật công nhận;
- Ông bà và cháu, có quan hệ huyết thống với nhau;
- Cô chú bác và cháu, có quan hệ huyết thống với nhau;
- Anh chị em ruột;
- Anh chị em dâu, rể.
h) Một người thứ ba sở hữu, kiểm soát hoặc nắm giữ từ 5% trở lên số cổ phiếu có quyền biểu quyết của cả hai bên;
i) Các bên liên kết với nhau trong kinh doanh, trong đó một bên là đại lý độc quyền, nhà phân phối độc quyền hoặc nhà chuyển nhượng độc quyền của bên kia được coi là có mối quan hệ đặc biệt nếu như mối quan hệ đó phù hợp với quy định từ điểm a đến điểm h trên đây.
Thời điểm xác định trị giá hải quan là ngày người khai hải quan đăng ký tờ khai hải quan hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu.
Trường hợp trị giá hải quan do cơ quan hải quan xác định thì thời điểm xác định trị giá hải quan là ngày cơ quan hải quan xác định trị giá theo quy định tại Nghị định này.
Trị giá hải quan nhằm mục đích tính thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu (sau đây gọi là trị giá tính thuế) được xác định theo nguyên tắc và phương pháp sau:
1. Đối với hàng hoá xuất khẩu, trị giá tính thuế là giá bán tại cửa khẩu xuất (giá FOB, giá DAF), không bao gồm phí bảo hiểm (I) và phí vận tải (F).
2. Đối với hàng hoá nhập khẩu, trị giá tính thuế là giá thực tế phải trả tính đến cửa khẩu nhập đầu tiên và được xác định bằng cách áp dụng tuần tự các phương pháp xác định trị giá tính thuế quy định từ Điều 7 đến Điều 12 Nghị định này và dừng ngay ở phương pháp xác định được trị giá tính thuế.
Trường hợp người khai hải quan có văn bản đề nghị thì trình tự áp dụng các phương pháp xác định trị giá tính thuế quy định tại Điều 10 và Điều 11 Nghị định này có thể thay đổi cho nhau.
3. Bộ Tài chính căn cứ vào nguyên tắc xác định trị giá tính thuế quy định tại khoản 2 Điều này để quy định cụ thể việc kiểm tra, xác định trị giá tính thuế đối với hàng hoá nhập khẩu trong các trường hợp sau:
a) Hàng hoá nhập khẩu đã được miễn thuế, đã đưa vào sử dụng tại Việt Nam nhưng sau đó được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép chuyển nhượng hoặc thay đổi mục đích đã được miễn thuế trước đây;
b) Hàng hoá nhập khẩu là hàng đi thuê mượn;
c) Hàng hoá nhập khẩu là hàng đem ra nước ngoài sửa chữa, gia công;
d) Hàng bảo hành và hàng khuyến mại;
đ) Hàng hoá nhập khẩu không có hợp đồng mua bán hàng hoá, bao gồm:
- Hàng hoá mua bán, trao đổi của cư dân biên giới;
- Hàng nhập khẩu của hành khách nhập cảnh, quà biếu, quà tặng, tài sản di chuyển vượt tiêu chuẩn (định mức) miễn thuế;
- Hàng hoá nhập khẩu của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ bưu chính, phát chuyển nhanh.
e) Hàng hoá nhập khẩu đặc thù khác.
1. Trị giá hải quan phục vụ mục đích thống kê hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu (sau đây gọi là trị giá thống kê) được xác định theo nguyên tắc sau:
a) Đối với hàng hoá thuộc đối tượng chịu thuế, trị giá thống kê được xác định dựa trên trị giá tính thuế đã được xác định theo các nguyên tắc và phương pháp quy định tại Điều 4 Nghị định này;
b) Đối với hàng hoá không thuộc đối tượng chịu thuế, xét miễn thuế hoặc không xác định được trị giá tính thuế theo quy định tại Điều 4 Nghị định này thì trị giá thống kê là trị giá do người khai hải quan khai báo theo nguyên tắc sau:
- Đối với hàng hoá nhập khẩu, trị giá thống kê là giá bán tại cửa khẩu nhập đầu tiên (giá CIF);
- Đối với hàng hoá xuất khẩu, trị giá thống kê là giá bán tại cửa khẩu xuất (giá FOB, giá DAF).
2. Bộ Tài chính quy định cụ thể việc thu thập, xử lý, sử dụng và lưu trữ trị giá thống kê.
1. Trị giá tính thuế đối với hàng nhập khẩu được kiểm tra, xác định trên cơ sở dữ liệu giá, các thông tin có sẵn.
2. Bộ Tài chính quy định cụ thể việc xây dựng, quản lý, sử dụng cơ sở dữ liệu giá và các thông tin có sẵn.
1. Trị giá tính thuế của hàng hoá nhập khẩu là trị giá giao dịch.
Trị giá giao dịch được xác định bằng tổng số tiền người mua thực tế đã thanh toán hay sẽ phải thanh toán trực tiếp hoặc gián tiếp cho người bán để mua hàng hoá nhập khẩu, sau khi đã được điều chỉnh theo quy định tại Điều 13 Nghị định này.
Tổng số tiền người mua đã thanh toán hay sẽ phải thanh toán trực tiếp hoặc gián tiếp cho người bán để mua hàng hoá nhập khẩu, bao gồm các khoản sau đây:
a) Giá mua ghi trên hoá đơn thương mại. Trường hợp giá mua ghi trên hoá đơn thương mại có bao gồm các khoản giảm giá cho lô hàng nhập khẩu phù hợp thông lệ thương mại quốc tế, thì các khoản này được trừ ra để xác định trị giá tính thuế.
Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định cụ thể việc khấu trừ khoản giảm giá này ra khỏi trị giá tính thuế.
b) Các khoản tiền người mua phải thanh toán nhưng chưa tính vào giá mua ghi trên hoá đơn thương mại, bao gồm:
- Tiền trả trước, tiền đặt cọc cho việc sản xuất, mua bán, vận chuyển, bảo hiểm hàng hoá;
- Các khoản thanh toán gián tiếp cho người bán như: khoản tiền người mua trả cho người thứ ba theo yêu cầu của người bán; khoản tiền được thanh toán bằng cách bù trừ nợ.
2. Điều kiện áp dụng phương pháp xác định trị giá tính thuế theo trị giá giao dịch:
a) Người mua không bị hạn chế quyền định đoạt hoặc sử dụng hàng hoá sau khi nhập khẩu, ngoại trừ các hạn chế sau:
- Hạn chế về việc mua bán, sử dụng hàng hoá theo quy định của pháp luật Việt Nam;
- Hạn chế về nơi tiêu thụ hàng hóa sau khi nhập khẩu;
- Những hạn chế khác nhưng không làm ảnh hưởng đến trị giá của hàng hoá;
b) Giá cả hoặc việc bán hàng không phụ thuộc vào những điều kiện hay các khoản thanh toán mà vì chúng không thể xác định được trị giá của hàng hoá cần xác định trị giá tính thuế;
c) Sau khi bán lại hàng hoá, người nhập khẩu không phải trả thêm bất kỳ khoản tiền nào từ số tiền thu được do việc định đoạt hoặc sử dụng hàng hoá mang lại, không kể các khoản điều chỉnh quy định tại điểm d khoản 1 Điều 13 Nghị định này;
d) Người mua và người bán không có mối quan hệ đặc biệt hoặc nếu có thì mối quan hệ đó không ảnh hưởng đến trị giá giao dịch.
Trường hợp cơ quan hải quan có căn cứ cho rằng mối quan hệ đặc biệt có ảnh hưởng đến trị giá giao dịch thì phải thông báo ngay bằng văn bản cho người khai hải quan biết căn cứ đó.
Cơ quan hải quan tạo điều kiện để người khai hải quan cung cấp thêm thông tin nhằm làm rõ mối quan hệ đặc biệt giữa người mua và người bán không ảnh hưởng đến trị giá giao dịch. Nếu quá 30 ngày (ngày làm việc), kể từ ngày nhận được thông báo của cơ quan hải quan mà người khai hải quan không cung cấp thêm thông tin thì cơ quan hải quan xác định trị giá tính thuế theo quy định tại khoản 6 Điều 15 Nghị định này.
Mối quan hệ đặc biệt giữa người mua và người bán được coi là không ảnh hưởng đến trị giá giao dịch khi trị giá giao dịch xấp xỉ với một trong những trị giá dưới đây của lô hàng được xuất khẩu đến Việt Nam trong cùng ngày hoặc trong vòng 60 ngày trước hoặc sau ngày xuất khẩu lô hàng đang được xác định trị giá tính thuế:
- Trị giá giao dịch của hàng hoá nhập khẩu giống hệt hay tương tự được bán cho người nhập khẩu khác không có mối quan hệ đặc biệt với người xuất khẩu (người bán);
- Trị giá tính thuế của hàng hoá nhập khẩu giống hệt hay tương tự được xác định theo quy định tại Điều 10 Nghị định này;
- Trị giá tính thuế của hàng hoá nhập khẩu giống hệt hay tương tự được xác định theo quy định tại Điều 11 Nghị định này.
1. Hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam nếu không xác định được trị giá tính thuế theo quy định tại Điều 7 Nghị định này thì trị giá tính thuế là trị giá giao dịch của hàng hoá nhập khẩu giống hệt đã được xác định trị giá tính thuế theo quy định tại Điều 7 Nghị định này.
2. Hàng hoá nhập khẩu giống hệt phải thoả mãn các điều kiện sau:
a) Lô hàng nhập khẩu giống hệt được xuất khẩu đến Việt Nam vào cùng ngày hoặc trong vòng 60 ngày trước hoặc sau ngày xuất khẩu của lô hàng đang được xác định trị giá tính thuế;
b) Lô hàng nhập khẩu giống hệt có giao dịch mua bán ở cùng cấp độ hoặc đã được điều chỉnh về cùng cấp độ bán buôn hoặc bán lẻ; có cùng số lượng hoặc đã được điều chỉnh về cùng số lượng với lô hàng đang được xác định trị giá tính thuế;
c) Lô hàng nhập khẩu giống hệt có cùng khoảng cách và phương thức vận chuyển hoặc đã được điều chỉnh về cùng khoảng cách và phương thức vận chuyển giống như lô hàng đang được xác định trị giá tính thuế.
3. Khi áp dụng phương pháp xác định trị giá tính thuế quy định tại Điều này, nếu không có lô hàng nhập khẩu được sản xuất bởi cùng một nhà sản xuất thì mới xét đến hàng hoá được sản xuất bởi nhà sản xuất khác, nhưng phải đảm bảo các quy định về hàng hoá nhập khẩu giống hệt.
4. Khi xác định trị giá tính thuế quy định tại Điều này mà xác định được từ hai trị giá giao dịch của hàng hoá nhập khẩu giống hệt trở lên thì trị giá tính thuế là trị giá giao dịch thấp nhất, sau khi đã điều chỉnh mức giá về cùng các điều kiện quy định tại khoản 2 Điều này.
1. Hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam nếu không xác định được trị giá tính thuế theo quy định tại Điều 7 và Điều 8 Nghị định này thì trị giá tính thuế là trị giá giao dịch của hàng hoá nhập khẩu tương tự đã được xác định trị giá tính thuế theo quy định tại Điều 7 Nghị định này.
2. Hàng hoá nhập khẩu tương tự phải thoả mãn các điều kiện sau:
a) Lô hàng nhập khẩu tương tự được xuất khẩu đến Việt Nam vào cùng ngày hoặc trong vòng 60 ngày trước hoặc sau ngày xuất khẩu của lô hàng đang được xác định trị giá tính thuế;
b) Lô hàng nhập khẩu tương tự có giao dịch mua bán ở cùng cấp độ hoặc đã được điều chỉnh về cùng cấp độ bán buôn hoặc bán lẻ, có cùng số lượng hoặc đã được điều chỉnh về cùng số lượng với lô hàng đang được xác định trị giá tính thuế;
c) Lô hàng nhập khẩu tương tự có cùng khoảng cách và phương thức vận chuyển hoặc đã được điều chỉnh về cùng khoảng cách và phương thức vận chuyển giống như lô hàng đang được xác định trị giá tính thuế.
3. Khi áp dụng phương pháp xác định trị giá tính thuế quy định tại Điều này, nếu không có lô hàng nhập khẩu được sản xuất bởi cùng một nhà sản xuất thì mới xét đến hàng hoá được sản xuất bởi nhà sản xuất khác, nhưng phải đảm bảo các quy định về hàng hoá nhập khẩu tương tự.
4. Khi xác định trị giá tính thuế quy định tại Điều này mà xác định được từ hai trị giá giao dịch của hàng hoá nhập khẩu tương tự trở lên thì trị giá tính thuế là trị giá giao dịch thấp nhất, sau khi đã điều chỉnh mức giá về cùng điều kiện quy định tại khoản 2 Điều này.
1. Hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam nếu không xác định được trị giá tính thuế theo quy định tại Điều 7, Điều 8 và Điều 9 Nghị định này thì trị giá tính thuế là trị giá khấu trừ. Trị giá khấu trừ được xác định căn cứ vào giá bán của hàng hoá nhập khẩu, hàng hoá nhập khẩu giống hệt, hàng hoá nhập khẩu tương tự trên thị trường Việt Nam trừ (-) đi các chi phí hợp lý phát sinh sau khi nhập khẩu.
2. Giá bán hàng hoá nhập khẩu trên thị trường Việt Nam được xác định theo những nguyên tắc sau:
a) Giá bán hàng hoá nhập khẩu là giá bán thực tế, nếu không có giá bán thực tế của hàng hoá nhập khẩu cần xác định trị giá tính thuế thì lấy giá bán thực tế của hàng hoá nhập khẩu giống hệt hay hàng hoá nhập khẩu tương tự còn nguyên trạng như khi nhập khẩu được bán trên thị trường trong nước để xác định giá bán thực tế;
b) Người nhập khẩu và người mua hàng trong nước không có mối quan hệ đặc biệt;
c) Mức giá bán tính trên số lượng bán ra lớn nhất và d? d? hỡnh thành don giỏ;
d) Hàng hoá được bán ra (bán buôn hoặc bán lẻ) vào ngày sớm nhất ngay sau khi nhập khẩu, nhưng không chậm quá 90 ngày (ngày theo lịch) sau ngày nhập khẩu lô hàng đó.
3. Các chi phí hợp lý phát sinh sau khi nhập khẩu hàng hoá:
a) Trường hợp người nhập khẩu mua hàng theo phương thức mua đứt bán đoạn, các khoản được khấu trừ gồm:
- Các chi phí về vận tải và chi phí mua bảo hiểm cho hàng hoá khi tiêu thụ trên thị trường nội địa;
- Các khoản thuế, phí và lệ phí phải nộp ngân sách nhà nước khi nhập khẩu và bán hàng nhập khẩu mà theo quy định của pháp luật hiện hành được hạch toán vào doanh thu bán hàng, giá vốn và chi phí bán hàng nhập khẩu;
- Chi phí quản lý chung liên quan đến việc bán hàng nhập khẩu;
- Lợi nhuận bán hàng sau khi nhập khẩu.
b) Trường hợp người nhập khẩu là đại lý bán hàng cho thương nhân nước ngoài thì chi phí được trừ là hoa hồng bán hàng.
Trường hợp đại lý bán hàng được thương nhân nước ngoài uỷ quyền thực hiện một số hoạt động có liên quan đến việc bán hàng sau khi nhập khẩu tại Việt Nam ngoài hợp đồng đại lý thì những chi phí của các hoạt động này phát sinh tại Việt Nam cũng được trừ trong phạm vi các chi phí đã được thoả thuận trong hợp đồng.
Chi phí phát sinh sau khi nhập khẩu được phép khấu trừ quy định tại khoản 3 Điều này phải phản ánh trung thực chi phí chung và lợi nhuận thực tế, phổ biến trong kinh doanh ngành hàng đó và phù hợp với các nguyên tắc của chế độ kế toán Việt Nam.
4. Hàng hoá nhập khẩu qua quá trình gia công, chế biến thêm ở trong nước thì cũng được xác định trị giá tính thuế theo nguyên tắc quy định tại khoản 1 Điều này và trừ đi các chi phí gia công, chế biến làm tăng thêm trị giá của hàng hoá.
Phương pháp xác định trị giá tính thuế quy định tại Điều này sẽ không được áp dụng khi:
- Hàng hoá nhập khẩu sau khi gia công, chế biến không còn nguyên trạng như khi nhập khẩu;
- Hàng hoá nhập khẩu sau khi gia công, chế biến vẫn giữ nguyên đặc điểm, tính chất, công dụng như khi nhập khẩu nhưng chỉ còn là một bộ phận của hàng hoá được bán ra trên thị trường Việt Nam.
Trường hợp sau khi gia công, chế biến hàng hoá nhập khẩu không còn nguyên trạng như khi nhập khẩu, nhưng vẫn có thể xác định được chính xác giá trị tăng thêm do quá trình gia công, chế biến thì trị giá tính thuế vẫn được xác định theo quy định tại Điều này.
5. Việc khấu trừ các khoản chi phí, lợi nhuận quy định tại khoản 3, khoản 4 Điều này phải dựa vào các tài liệu, số liệu khách quan và định lượng được. Các số liệu này phải được ghi chép và phản ánh trên sổ sách kế toán phù hợp với quy định của pháp luật về kế toán.
1. Hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam nếu không xác định được trị giá tính thuế theo các phương pháp quy định từ Điều 7 đến Điều 10 Nghị định này thì trị giá tính thuế là trị giá tính toán. Trị giá tính toán được xác định bao gồm các khoản sau:
a) Giỏ thành ho?c tr? giỏ c?a nguyờn v?t li?u, chi phớ c?a quỏ trỡnh s?n xu?t ho?c quỏ trỡnh gia cụng khỏc của việc s?n xu?t hàng nh?p kh?u;
b) Chi phí, lợi nhuận để bán hàng hoá nhập khẩu;
c) Các chi phí điều chỉnh quy định tại điểm đ, e khoản 1 Điều 13 Nghị định này.
2. Việc xác định trị giá tính toán phải dựa trên các số liệu của nhà sản xuất cung cấp và phù hợp với các nguyên tắc kế toán của nước sản xuất hàng hoá.
1. Hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam nếu không xác định được trị giá tính thuế theo các phương pháp quy định từ Điều 7 đến Điều 11 Nghị định này thì trị giá tính thuế được xác định bằng phương pháp suy luận.
Phương pháp suy luận là áp dụng tuần tự, linh hoạt các phương pháp xác định trị giá tính thuế quy định từ Điều 7 đến Điều 11 và dừng ngay tại phương pháp xác định được trị giá tính thuế, với điều kiện việc áp dụng đó phù hợp với các quy định tại khoản 2 Điều này và phải dựa vào các tài liệu, số liệu, thông tin có sẵn tại thời điểm xác định trị giá tính thuế.
2. Khi áp dụng phương pháp suy luận thì không được sử dụng các trị giá dưới đây để xác định trị giá tính thuế:
a) Giá bán trên thị trường nội địa của mặt hàng cùng loại đã được sản xuất tại Việt Nam;
b) Giá bán hàng hoá ở thị trường nội địa nước xuất khẩu;
c) Giá bán hàng hoá để xuất khẩu đến một nước khác;
d) Chi phí sản xuất hàng hoá, trừ chi phí sản xuất của hàng hoá nhập khẩu quy định tại Điều 11 Nghị định này;
đ) Giá tính thuế tối thiểu;
e) Các loại giá giả định;
g) Hệ thống xác định trị giá cho phép sử dụng trị giá cao hơn trong hai trị giá thay thế để làm trị giá tính thuế.
1. Các khoản phải cộng vào trị giá giao dịch để xác định trị giá tính thuế:
a) Các chi phí dưới đây do người mua hàng hoá phải chịu nhưng chưa được tính vào trị giá giao dịch:
- Chi phí hoa hồng bán hàng và phí môi giới;
- Chi phí bao bì được coi là đồng nhất với hàng hoá nhập khẩu;
Bao bì được coi là đồng nhất với hàng hoá là các loại bao bì thường xuyên đi kèm với hàng hoá như một điều kiện để bảo quản hay sử dụng hàng hoá, được phân loại cùng với hàng hoá theo nguyên tắc phân loại và mã số hàng hoá hiện hành.
- Chi phí đóng gói, bao gồm cả chi phí vật liệu và chi phí nhân công.
b) Trị giá của hàng hoá, dịch vụ do người mua cung cấp cho người bán miễn phí hoặc giảm giá để sản xuất và tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam, chưa được tính vào giá thực tế đã thanh toán hay sẽ phải thanh toán, bao gồm:
- Nguyên vật liệu, bộ phận cấu thành hàng hoá, các phụ tùng và các chi tiết tương tự hợp thành trong hàng hoá nhập khẩu;
- Các công cụ, khuôn mẫu, khuôn rập và các chi tiết tương tự được sử dụng để sản xuất hàng hoá nhập khẩu;
- Nguyên liệu, nhiên liệu tiêu hao trong quá trình sản xuất hàng hoá nhập khẩu;
- Thiết kế kỹ thuật, thiết kế thi công, kế hoạch triển khai, thiết kế mỹ thuật, thiết kế mẫu, sơ đồ và phác hoạ được thực hiện ở nước ngoài và cần thiết trong quá trình sản xuất hàng hoá nhập khẩu.
c) Tiền bản quyền, phí giấy phép sử dụng các quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến hàng hoá nhập khẩu mà người mua phải trả như điều kiện của việc mua bán hàng hoá nhập khẩu;
d) Các khoản tiền mà người mua thu được sau khi định đoạt, sử dụng hàng hoá nhập khẩu được chuyển dưới mọi hình thức cho người bán hàng nhập khẩu;
đ) Chi phí vận tải, bốc hàng, dỡ hàng, chuyển hàng có liên quan đến việc vận chuyển hàng nhập khẩu đến cửa khẩu nhập;
e) Chi phí bảo hiểm để vận chuyển hàng hoá nhập khẩu đến cửa khẩu nhập.
2. Các khoản dưới đây được trừ ra khỏi trị giá giao dịch nếu đã được tính trong giá mua hàng nhập khẩu:
a) Chi phí cho những hoạt động phát sinh sau khi nhập khẩu hàng hoá, bao gồm: chi phí về xây dựng, kiến trúc, lắp đặt, bảo dưỡng hoặc trợ giúp kỹ thuật;
b) Chi phí vận chuyển, bảo hiểm trong nội địa phát sinh sau khi nhập khẩu;
c) Các khoản thuế, phí, lệ phí phải nộp ngân sách nhà nước tính trong giá mua hàng nhập khẩu;
d) Tiền lãi phải trả liên quan đến việc thanh toán tiền mua hàng nhập khẩu, với điều kiện lãi suất phải trả phải được thể hiện dưới dạng văn bản và phù hợp với lãi suất tín dụng thông thường do các tổ chức tín dụng của nước xuất khẩu áp dụng tại thời điểm ký kết hợp đồng;
đ) Các khoản giảm giá thực hiện trước khi xếp hàng lên phương tiện vận chuyển ở nước xuất khẩu hàng hoá, được lập thành văn bản và nộp cùng với tờ khai hải quan hàng hoá nhập khẩu.
3. Việc cộng thêm hoặc trừ đi các chi phí quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này chỉ được thực hiện trên cơ sở các số liệu khách quan, có sẵn và định lượng được, phù hợp với các quy định của pháp luật về kế toán.
4. Không được cộng thêm hay trừ đi bất cứ khoản nào khác ngoài các khoản quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.
1. Người khai hải quan có các quyền sau:
a) Yêu cầu cơ quan hải quan giữ bí mật các thông tin liên quan đến việc xác định trị giá tính thuế đã cung cấp;
b) Yêu cầu cơ quan hải quan thông báo, hướng dẫn việc xác định trị giá tính thuế theo quy định tại Nghị định này;
c) Chứng minh tính chính xác, trung thực của trị giá tính thuế đã kê khai;
d) Khiếu nại các quyết định về trị giá tính thuế của cơ quan hải quan;
đ) Yêu cầu cơ quan hải quan thông báo bằng văn bản cho người khai hải quan biết trị giá tính thuế, phương pháp, cách tính được sử dụng để xác định trị giá tính thuế khi trị giá tính thuế do cơ quan hải quan xác định;
e) Yêu cầu được thông quan hàng hoá theo quy định tại Điều 16 Nghị định này.
2. Nghĩa vụ của người khai hải quan:
a) Tuân thủ nguyên tắc tự kê khai, tự xác định trị giá tính thuế chính xác và trung thực; chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, tính trung thực của các nội dung kê khai và kết quả xác định trị giá tính thuế của mình;
b) Cung cấp thông tin xác thực và các tài liệu, chứng từ hợp pháp hợp lệ làm căn cứ xác định trị giá tính thuế theo yêu cầu của cơ quan hải quan;
c) Chịu sự kiểm tra của cơ quan hải quan về trị giá tính thuế quy định tại Nghị định này.
1. Hướng dẫn người khai hải quan xác định trị giá tính thuế theo quy định tại Nghị định này.
2. Yêu cầu người khai hải quan nộp, xuất trình các chứng từ hợp pháp, hợp lệ và các tài liệu có liên quan đến việc mua bán hàng hoá để chứng minh tính chính xác, tính trung thực của trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu đã khai báo.
Trường hợp không chấp nhận việc chứng minh, giải trình về trị giá tính thuế của người khai hải quan thì phải thông báo ngay bằng văn bản cho người khai hải quan biết cơ sở, căn cứ của việc không chấp nhận.
3. Thông báo bằng văn bản cho người khai hải quan biết trị giá tính thuế, phương pháp, cách tính được cơ quan hải quan sử dụng để xác định trị giá tính thuế.
4. Giữ bí mật các thông tin do người khai hải quan cung cấp có liên quan đến việc xác định giá tính thuế, theo đề nghị của người khai hải quan và phù hợp với quy định của pháp luật.
5. Thông quan hàng hóa theo yêu cầu của người khai hải quan, trên cơ sở nộp khoản bảo đảm theo quy định tại Điều 16 Nghị định này.
6. Xác định trị giá tính thuế trong các trường hợp sau:
a) Người khai hải quan không xác định được trị giá tính thuế theo các phương pháp quy định từ Điều 7 đến Điều 12 Nghị định này;
b) Người khai hải quan kê khai không trung thực trị giá tính thuế;
c) Người khai hải quan không giải trình hoặc không giải trình được về tính trung thực, chính xác của trị giá kê khai theo yêu cầu của cơ quan hải quan.
7. Kiểm tra việc khai báo và xác định giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu. Ra quyết định truy thu, hoàn các khoản thuế do việc xác định sai trị giá tính thuế.
8. Thu thập, phân tích và quản lý thông tin cần thiết làm căn cứ kiểm tra, xác định trị giá tính thuế.
1. Trong quá trình xác định trị giá tính thuế của hàng hóa nhập khẩu, người khai hải quan chưa có đủ thông tin để xác định trị giá tính thuế thì theo yêu cầu của người khai hải quan, cơ quan hải quan chấp nhận cho thông quan hàng hóa với điều kiện người khai hải quan phải nộp một khoản bảo đảm cho tiền thuế của lô hàng dưới hình thức: bảo lãnh, đặt tiền ký quỹ hoặc những phương thức bảo đảm thích hợp khác ở mức đủ để thực hiện nghĩa vụ thuế.
2. Bộ Tài chính quy định mức, hình thức, thủ tục nộp khoản bảo đảm nêu tại khoản 1 Điều này.
Trường hợp người khai hải quan không đồng ý với quyết định về trị giá tính thuế của cơ quan hải quan thì vẫn phải chấp hành quyết định đó, đồng thời có quyền khiếu nại theo quy định của pháp luật về khiếu nại.
Tổ chức, cá nhân vi phạm quy định của Nghị định này thì tuỳ theo tính chất và mức độ vi phạm sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Cán bộ, công chức hải quan và các cá nhân khác thiếu tinh thần trách nhiệm, vi phạm quy định của Nghị định này, gây thiệt hại cho người khai hải quan thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật và tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
1. Bộ Tài chính hướng dẫn, tổ chức việc thực hiện Nghị định này.
2. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chỉ đạo, hướng dẫn các tổ chức tín dụng cung cấp cho cơ quan hải quan đầy đủ tài liệu liên quan đến việc thanh toán hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu phục vụ cho việc kiểm tra, xác định trị giá tính thuế.
3. Các Bộ, ngành có liên quan có trách nhiệm phối hợp với cơ quan hải quan thực hiện công tác chống gian lận thương mại qua giá.
4. Các hiệp hội, tổ chức kinh doanh và cá nhân có liên quan có trách nhiệm cung cấp thông tin về hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu theo yêu cầu của cơ quan hải quan.
1. Nghị định này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo, thay thế Nghị định số 60/2002/NĐ-CP ngày 06 tháng 6 năm 2002 của Chính phủ quy định về việc xác định trị giá tính thuế đối với hàng hoá nhập khẩu theo nguyên tắc của Hiệp định thực hiện Điều 7 Hiệp định chung về thuế quan và thương mại. Các quy định trước đây trái với Nghị định này đều bị bãi bỏ.
2. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này./.
|
TM. CHÍNH PHỦ |
THE GOVERNMENT |
SOCIALIST REPUBLIC OF VIET NAM |
No. 155/2005/ND-CP |
Hanoi, December 15, 2005 |
DECREE
PROVIDING FOR CUSTOMS VALUATION OF IMPORTED AND EXPORTED GOODS
THE GOVERNMENT
Pursuant to the December 25, 2001 Law on Organization of the Government;
Pursuant to Import Tax and Export Tax Law No. 45/2005/QH11 of June 14, 2005;
Pursuant to Customs Law No.29/2001/QH10 of June 29, 2001, and Law No. 42/2005/QH11 of June 14, 2005, amending and supplementing a number of articles of the Customs Law;
At the proposal of the Finance Minister,
DECREES:
Chapter I
GENERAL PROVISIONS
Article 1.- Governing scope and objects of application
1. This Decree provides for customs valuation for the purpose of calculating tax and making statistics on imported and exported goods.
2. Imported and exported goods are objects of application of this Decree.
3. Where the treaties to which Vietnam is a party contracting contain provisions different from those of this Decree, the provisions of such treaties shall apply.
Article 2.- Interpretation of terms
1. "Transaction value" means the total money amount actually paid or to be paid directly or indirectly by the buyer to the seller in order to buy imported goods, adjusted under the provisions of Article 13 of this Decree.
2. "Sale for export to Vietnam" means a commercial activity whereby goods are transferred from the seller to the buyer through Vietnamese border-gates or borders or from non-tariff zones into the domestic market, for the purpose of transferring the goods ownership from the seller to the buyer.
3. "The export date" used in the method of transaction value of identical imported goods and the method of transaction value of similar imported goods is the date when goods are loaded onto means of transport according to the bills of lading; for goods transported by land, the export date is the date of registration of the customs declaration.
4. "The first border-gate of importation" means the destination port stated in the bill of lading. For international transport by land, railway or river, the first border-gate of importation as the destination port indicated in the contract.
5. "Available information" means all information relating to the examination and determination of the dutiable value, supplied by customs declarants to customs offices or gathered by customs offices by the time of examination and determination of the dutiable value. Such information must be archived, analyzed and managed at customs offices.
6. "Identical imported goods" mean goods which are the same in all aspects, including physical characteristics, quality and reputation; turned out in the same country, by the same producer or by another producer authorized by the former, which are imported into Vietnam.
7. "Similar imported goods" mean goods which, though not alike in all aspects, have the same basic characteristics, same raw materials or materials; the same function, and are interchangeable in commercial transactions; turned out in the same country, by the same producer or by another producer authorized by the former, and are imported into Vietnam.
8. "In the condition as imported" referred to in the method of determining dutiable value on the basis of the deductible value means goods whose shapes, characteristics, properties and/or utilities are not altered or whose value is not increased or reduced under any impact after importation.
9. The buyer and the seller shall have special relationships when:
a/ They are employees or directors of one another’s enterprise;
b/ They are partnership members, contributing capital in legally recognized businesses;
c/ They are employer and employee;
d/ The seller has the power to control the buyer and vice versa;
e/ They are both controlled by a third party;
f/ They both control a third party.
A person having the power to control another person as defined at Points d, e and f, Clause 9 of this Article is the person who can directly or indirectly restrict or instruct the other person.
g/ They have the following family ties:
- Husband and wife;
- Parents and children recognized by law;
- Grandparents and their grandchildren who have blood ties;
- Aunts, uncles and nephews, nieces who have blood ties;
- Siblings;
- In-law brothers, sisters.
h/ A third person who owns, controls or holds 5% or more of the voting shares of both parties;
i/ Parties associated in business with one other in that a party is the sole agent, sole distributor or sole transferer of the other party, shall be considered having a special relationship if such relationship conforms with the provisions from Point a to Point h above.
Article 3.- The time for of customs valuation
The time of customs valuation is the date when the customs declarant registers the customs declaration of imported or exported goods.
Where the customs valuation is made by the customs office, the time of customs valuation shall be the date when the custom office conducts valuation according to the provisions of this Decree.
Article 4.- Principle and methods of customs valuation for tax calculation purpose
The customs value for the purpose of calculating tax on imported or exported goods (hereinafter called the dutiable value) shall be determined on the following principles and by the following methods:
1. For exported goods, the dutiable value is the sale price at the export border-gate (FOB price, DAF price), exclusive of insurance (I) and freight (F).
2. For imported goods, the dutiable value is the actual payable price up to the first border-gate of importation and determined by applying in a sequential order the dutiable value-determining methods specified in Articles 7 thru 12 of this Decree and stopping at the method by which the dutiable value can be determined.
Where customs declarants make written requests, the order of application of the dutiable value-determining methods specified in Article 10 and Article 11 can be interchanged.
3. The Finance Ministry shall base itself on the dutiable value-determining principles prescribed in Clause 2 of this Article to specify the examination and determination of the dutiable value of imported goods in the following cases:
a/ Imported goods have been exempt from tax and put to use in Vietnam but later permitted by competent state bodies for transfer or change of the previous tax exemption purpose;
b/ Imported goods are hired or borrowed goods;
c/ Imported goods are those brought overseas for repair or processing;
d/ Imported goods are warranty or sale promotion goods;
e/ Imported goods have no goods sale and purchase contracts, including:
- Goods sold, purchased or exchanged by border residents;
- Imported goods of passengers on entry, gifts, presents, moved assets in excess of duty-free limits;
- Imported goods of postal and express mail service-providing enterprises.
f/ Other peculiar imported goods.
Article 5.- Customs value for statistical purposes
1. Customs value for the purpose of making statistics on exported and import goods (hereinafter called statistical value) shall be determined on the following principles:
a/ For taxable goods, the statistical value shall be determined on the basis of the dutiable value already determined on the principles and by the methods specified in Article 4 of this Decree;
b/ For goods not liable to tax, not entitled to consideration of tax exemption, or for which the dutiable value cannot be determined under the provisions of Article 4 of this Decree, the statistical value shall be the value declared by customs declarants on the following principles:
- For imported goods, the statistical value shall be the sale price at the first border-gate of importation (CIF price);
- For exported goods, the statistical value shall be the sale price at the border-gate of exportation (FOB price, DAF price).
2. The Finance Ministry shall specify the collection, handling, use and archive of statistical values.
Article 6.- Price information, database
1. The dutiable value of imported goods shall be examined and determined on the basis of price database and available information.
2. The Finance Ministry shall specify the building, management and use of price database and available information.
Chapter II
METHODS OF DETERMINING THE DUTIABLE VALUE OF IMPORT ED GOODS
Article 7.- Method of determining the dutiable value on the basis of the transaction value of imported goods
1. The dutiable value of imported goods is the transaction value.
The transaction value is the total money amount which has been actually paid or shall be paid by the buyer directly or indirectly to the seller for the purchase of imported goods, adjusted in accordance with the provisions of Article 13 of this Decree.
The total money amount actually paid or to be paid by the buyer directly or indirectly to the seller for the purchase of imported goods shall cover the following items:
a/ The purchase price shown on the commercial invoice. Where the purchase price shown on the commercial invoice includes allowances for the imported goods lot in accordance with international trade practices, such allowances shall be deducted for determination of the dutiable value.
The Finance Minister shall specify the deduction of these allowances from the dutiable value.
b/ The money amounts which must be paid by the buyer but are not yet included in the purchase price shown on the commercial invoice, including:
- Advance payments, deposits for production, sale and purchase, transport, insurance of goods;
- Indirect payments to the seller such as: amounts paid by the buyer to a third party at the request of the seller; amounts paid by way of debt clearing.
2. Conditions for application of the method of determining the dutiable value on the basis of the transaction value:
a/ The buyer is not restricted in the right to dispose of or use the goods after the importation, except for the following restrictions:
- Restrictions on the purchase, sale and use of goods under the provisions of Vietnamese law;
- Restrictions on places for goods sale after the importation;
- Other restrictions which, however, do not affect the value of goods;
b/ The goods price or sale does not depend on the conditions or payments, for which the value of goods being valued cannot be determined;
c/ After sale of goods, the importer must not pay any additional amount from the proceeds from the disposal or use of the goods, excluding the adjusted amounts specified at Point d, Clause 1, Article 13 of this Decree;
d/ The buyer and the seller have no special relationship, or, if they have, such relationship does not affect the transaction value.
Where the customs office has grounds to deem that such special relationship does affect the transaction value, it must immediately notify such grounds in writing to the customs declarant.
The customs office shall create conditions for the customs declarant to supply more information in order to clarify that the special relationship between the buyer and the seller does not affect the transaction value. If past 30 (working) days as from the date of receiving the notice of the customs office, the customs declarant fails to supply additional information, the customs office shall determine the dutiable value according to the provisions of Clause 6, Article 15 of this Decree.
The special relationship between the buyer and the seller shall be considered not affecting the transaction value when the transaction value approximates to one of the following values of the goods lot exported to Vietnam on the same day or within 60 days before or after the exportation of the goods lot being valued:
- The transaction value of identical or similar imported goods sold to other importers having no special relationship with the exporter (the seller);
- The dutiable value of identical or similar imported goods, determined under the provisions of Article 10 of this Decree.
- The dutiable value of identical or similar imported goods, determined under the provisions in Article 11 of this Decree.
Article 8.- Method of determining the dutiable value on the basis of the transaction value of identical imported goods
1. For imported goods of which the dutiable value cannot be determined under the provisions of Article 7 of this Decree, their dutiable value shall be the transaction value of identical imported goods of which the dutiable value has been determined under the provisions of Article 7 of this Decree.
2. Identical imported goods must satisfy the following conditions:
a/ Identical imported goods lots are exported to Vietnam on the same day or within 60 days before or after the export date of the goods lots being valued;
b/ Identical import goods lots are traded on the same level or have been adjusted to the same level of wholesale or retail; have the same quantity or have been adjusted to the same volume with the goods lots being valued;
c/ Identical imported goods lots have the same transport distance and mode or have already been adjusted to the same transport distance and mode as the goods lots being valued.
3. Upon the application of the dutiable value-determining method specified in this Article, only if there are no goods lots turned out by the same producer shall the goods lots turned out by other producers be taken into account but in compliance with the provisions on identical imported goods.
4. If two or more transaction values of identical imported goods are determined upon the determination of the dutiable value under the provisions of this Article, the dutiable value shall be the lowest transaction value, after the price level is adjusted to the same conditions specified in Clause 2 of this Article.
Article 9.- Method of determining the dutiable value on the basis of the transaction value of similar imported goods
1. If the dutiable value of goods imported into Vietnam cannot be determined under the provisions of Articles 7 and 8 of this Decree, the dutiable value shall be the transaction value of similar imported goods of which the dutiable value has been determined under the provisions of Article 7 of this Decree.
2. Similar imported goods must satisfy the following conditions:
a/ Similar imported goods lots are exported into Vietnam on the same day or within 60 days before or after the exportation of the goods lots being valued;
b/ Similar imported goods lots are traded on the same level or have already been adjusted to the same level of wholesale or retail, have the same volume or have been already adjusted to the same volume of the goods lots being valued;
c/ Similar imported goods lots have the same transport distance and mode or have been adjusted to the same transport distance and mode as the goods lots being valued.
3. Upon the application of the dutiable value-determining method specified in this Article, only if there are no imported goods lots turned out by the same producer shall the goods turned out by other producers be taken into account, but the provisions on similar imported goods must be complied with.
4. If two or more transaction values of similar imported goods are determined upon the determination of the dutiable value under the provisions of this Article, the dutiable value shall be the lowest transaction value, after the price level is adjusted to the same conditions specified in Clause 2 of this Article.
Article 10.- Method of determining the dutiable value on the basis of the value the deductible
1. If the dutiable value of goods imported into Vietnam cannot be determined under the provisions of Articles 7, 8 and 9 of this Decree, it shall be the deductible value. The deductible value shall be determined on the basis of the sale price of imported goods, identical imported goods or similar import goods in the Vietnamese market minus (-) reasonable expenses incurred after the importation.
2. The sale prices of imported goods in the Vietnamese market shall be determined on the following principles:
a/ The sale prices of imported goods shall be the actual sale prices; if there is no actual sale price of imported goods being valued, the actual sale price of identical imported goods or similar imported goods in the condition as imported and sold in the domestic market shall be used as actual sale price;
b/ The importer and the domestic buyer have no special relationship;
c/ The sale price is calculated on the greatest quantity of goods sold and sufficient for the formation of the unit price;
d/ The goods are sold out (wholesaled or retailed) on the earliest day after the importation but before the expiration of 90 days (calendar days) after the date of importation of such goods lot.
3. Reasonable expenses incurred after the importation of goods:
a/ Where the importer purchases goods by mode of definitive purchase, the deductions shall include:
- Expenses for transport and expenses for insurance for goods when they are sold on the domestic market;
- Tax, charge and fee amounts payable to the state budget upon the importation and sale of goods, which, under the current provisions of law, can be accounted into sale turnover, cost prices and imports sale expenses;
- General management expenses related to the sale of imported goods;
- Sale profits earned after the importation of goods.
b/ Where the importer is the sale agent for a foreign trader, the deductible expenses shall be sale commissions.
Where the sale agent is authorized by the foreign trader to carry out some activities related to the post-importation sale in Vietnam outside the agency contract, the expenses incurred in Vietnam for these activities shall also be deducted within the limit of expenses agreed upon in the contract.
The post-importation expenses deducted under the provisions of Clause 3 of this Article must truthfully reflect general expenses and actual profits which are common in dealings in the goods concerned and compatible with the principles of Vietnam’s accounting regime.
4. Imported goods going through further processing in the country shall also have their dutiable value determined on the principle specified in Clause 1 of this Article, minus the expenses for processing to add value to the goods.
The dutiable value- determining method specified in this Article shall not be applied when:
- The imported goods, after being processed, are no longer in the condition as imported;
- The imported goods, after being processed, still maintain their characteristics, nature and utilities as imported, but constitute only a part of the goods sold in the Vietnamese market.
Where the imported goods are no longer in the condition as imported after being processed but their value added by the processing can still be accurately determined, their dutiable value shall still be determined under the provisions of this Article.
5. The deduction of expenses and profits specified in Clauses 3 and 4 of this Article must be based on objective and quantifiable documents and figures. These figures must be recorded and reflected in accounting books in accordance with the provisions of law on accounting.
Article 11.- Method of determining the dutiable value on the basis of the computed calculation value
1. If the dutiable value of goods imported into Vietnam cannot be determined by the methods specified in Articles 7 thru 10 of this Decree, it shall be the computed value. Computed value shall include the following items:
a/ The cost or value of raw materials and materials, the cost of the stage of production or other processing of the production of imported goods;
b/ Expenses for and profits from sale of imported goods;
c/ Adjusted expenses defined at Points e and f of Clause 1, Article 13 of this Decree.
2. The determination of computed value must be based on the figures supplied by producers and in accordance with the accounting principles of the goods-manufacturing countries.
Article 12.- The deductive method of determining the dutiable value
1. If the dutiable value of goods imported into Vietnam cannot be determined by the methods specified in Articles 7 thru 11 of this Decree, it shall be determined by the deductive method.
The deductive method means the sequential and flexible application of the dutiable value-determining methods specified in Articles 7 thru 11 and the immediate stop at the method by which the dutiable value can be determined, provided that such application complies with the provisions of Clause 2 of this Article and must be based on the documents, figures and information available at the time of determining the dutiable value.
2. When the deductive method is applied, the following values must not be used to determine the dutiable value:
a/ The domestic market sale prices of goods of the same kind, which have been produced in Vietnam;
b/ The sale prices of goods in the domestic market of the exporting country;
c/ The sale prices of goods for export to another country;
d/ The costs production of goods, excluding those of imported goods specified in Article 11 of this Decree;
e/ The minimum dutiable price;
f/ Arbitrary prices;
g/ A valuation system permitting the use of the higher of two alternative values as the dutiable value.
Article 13.- Adjustments
1. Items to be added to the transaction value for determination of dutiable value:
a/ The following expenses which must be borne by the goods buyer but are not yet included in the transaction value:
- Buying commission, brokerage commission;
- Cost of packages, which are treated as being one with imported goods.
Packages treated as being one with goods are those which always accompany goods as a condition for preservation or use of such goods, classified together with the goods according to the current classification principles and goods codes.
- Cost of packing, including cost of materials and cost of labor.
b/ The value of goods and services which are supplied free of charge or at reduced cost by the buyer to the seller for production and sale of goods imported into Vietnam, not yet included in the price actually paid or to be paid:
- Raw materials, materials, components parts and similar details incorporated the imported goods;
- Tools, dies, molds and similar details used in the production of imported goods;
- Raw materials and materials consumed in the production of the imported goods;
- Technical designs, construction designs, implementation plans, art designs, model designs, plans and sketches made license fees for the overseas and necessary for the production of the imported goods.
c/ Royalties, license fees for the use of intellectual property rights related to imported goods, which must be paid by the buyer as a condition for purchase and sale of the imported goods;
d/ Proceeds collected by the buyer after the disposal or use of the imported goods and transferred in any forms to the seller of the imported goods;
e/ Expenses for transportation, loading, unloading and handling of goods related to the transportation of the imported goods to the border-gate of importation;
f/ Cost of insurance expenses for transportation of the imported goods to the border-gate of importation.
2. The following items shall be subtracted from the transaction value if they are already included in the purchase prices of imported goods:
a/ Expenses for activities arising after the importation of goods, including: expenses for construction, architecture, installation, maintenance or technical assistance;
b/ Expenses for transport and insurance in the country after the importation;
c/ Taxes, charges, fees payable to the state budget, which are incorporated in the purchase prices of imported goods;
d/ Payable interests related to the payment for purchase of imported goods, provided that the rates of payable interests are expressed in writing and compatible with the common credit interest rates applied by credit institution of the exporting countries at the time of signing of contracts;
e/ Discounts made before loading goods onto means of transport in the exporting countries, which are expressed in writing and submitted together with the customs declarations of imported goods.
3. The addition or subtraction of the expenses specified in Clauses 1 and 2 of this Article shall only be effected on the basis of objective and quantifiable data available in accordance with the provisions of law on accounting.
4. All items other than those specified in Clauses 1 and 2 of this Article must not be added or subtracted.
Chapter III
RIGHTS AND OBLIGATIONS OF CUSTOMS DECLARERS, RESPONSIBILITIES OF CUSTOMS OFFICES
Article 14.- Rights and obligations of customs declarants
1. Customs declarants shall have the following rights:
a/ To request customs offices to keep secret supplied information relating to the dutiable value determination;
b/ To request customs offices to inform and guide the dutiable value determination under the provisions of this Decree;
c/ To prove the accuracy and truthfulness of the declared dutiable value;
d/ To complain about customs offices’ decisions on the dutiable value;
e/ To request customs offices to notify them in writing of the dutiable value, the method and way of calculation used by customs offices to determine such value;
f/ To request customs clearance for goods as provided for in Article 16 of this Decree.
2. Obligations of customs declarants:
a/ To comply with the principle of accurate and truthful self-declaration and self-determination of the dutiable value; to be answerable to law for the accuracy and truthfulness of the declared contents and the results of determination of the dutiable value;
b/ To supply truthful information and valid documents as well as lawful vouchers for use as the basis for determination of the dutiable value at the request of customs offices;
c/ To submit to customs inspection of the dutiable value as provided for in this Decree.
Article 15.- Responsibilities and powers of customs offices
1. To guide customs declarants in determining the dutiable value under the provisions of this Decree.
2. To request customs declarants to submit or produce valid and lawful vouchers and documents related to the goods purchase and sale for proving the accuracy and truthfulness of the declared dutiable value of imported goods.
In case of rejecting the customs declarants’ proof and explanation on the dutiable value, they must immediately notify in writing customs declarants of the bases and grounds therefor.
3. To send written notices to customs declarants on the dutiable value, the method and way of calculation used by customs offices for the dutiable value determination.
4. To keep secret information supplied by customs declarants and relating to the dutiable value determination, at the request of customs declarers and in accordance with the provisions of law.
5. To clear customs procedures at the request of customs declarants, based on the payment of a security sum under the provisions or Article 16 of this Decree.
6. To determine the dutiable value in the following cases:
a/ Customs declarants cannot determine the dutiable value by the methods specified in Articles 7 thru 12 of this Decree;
b/ Customs declarers make untruthful declaration of the dutiable value;
c/ Customs declarants do not or cannot explain the truthfulness and accuracy of the declared value at the request of customs offices.
7. To inspect the declaration and determination of the dutiable value of imported goods. To issue decisions on retrospective collection or refund of tax amounts due to the wrong determination of the dutiable value.
8. To gather, analyze and manage necessary information for use as the basis for inspection and determination of the dutiable value.
Article 16.- Delayed determination of dutiable value
1. In the course of determining the dutiable value of imported goods, if customs declarants have no adequate information for determination of the dutiable value, customs offices shall, at the customs declarants request, approve the customs clearance for goods, provided that customs declarants must pay a sum as security for the tax money of the goods lot in the form of security, collateral or other appropriate guarantee modes for the performance of their tax liabilities.
2. The Finance Ministry shall specify the levels, forms and procedures for payment of security sums defined in Clause 1 of this Article.
Chapter IV
COMPLAINTS, HANDLING OF VIOLATIONS
Article 17.- Complaints and settlement of complaints
Where customs declarants disagree with customs offices’ decisions on the dutiable value, they shall still have to abide by such decisions while having the right to lodge complaints under the provisions of law on complaints.
Article 18.- Handling of violations
Organizations and individuals violating the provisions of this Decree shall, depending on the nature and seriousness of their violations, be administratively sanctioned or examined for penal liability under the provisions of law.
Customs officers and employees and other individuals who lack a sense of responsibility and violate the provisions of this Decree, causing damage to customs declarants, shall have to compensate for the damage under the provisions of law and, depending on the nature and seriousness of their violations, be disciplined or examined for penal liability according to the provisions of law.
Chapter V
ORGANIZATION OF IMPLEMENTATION
Article 19.- Responsibilities of agencies, organizations and individuals
1. The Finance Ministry shall guide and organize the implementation of this Decree.
2. The State Bank of Vietnam shall direct and guide credit institutions in supplying customs offices with adequate documents related to the settlement of imported and exported goods in service of the inspection and determination of the dutiable value.
3. Concerned ministries and branches shall have to coordinate with customs offices in combating trade frauds through transfer pricing.
4. Relevant business associations, organizations and individuals shall have to supply information on imported and exported goods at the request of customs offices.
Article 20.- Implementation provisions
1. This Decree takes effect 15 days after its publication in "CONG BAO" and replaces the Government’s Decree No. 60/2002/ND-CP of June 6, 2002, stipulating the determination of the dutiable value for imported goods on to the principles of the Agreement on Implementation of Article 7 of the General Agreement on Tariffs and Trade. The previous provisions contrary to this Decree shall all be annulled.
2. Ministers, heads of ministerial-level agencies, heads of government-attached agencies and presidents of provincial/municipal People’s Committees shall have to implement this Decree.
|
GOVERMENT |