Chương 2: Nghị định 155/2005/NĐ-CP Phương pháp xác định trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu
Số hiệu: | 155/2005/NĐ-CP | Loại văn bản: | Nghị định |
Nơi ban hành: | Chính phủ | Người ký: | Phan Văn Khải |
Ngày ban hành: | 15/12/2005 | Ngày hiệu lực: | 01/01/2006 |
Ngày công báo: | 17/12/2005 | Số công báo: | Từ số 21 đến số 22 |
Lĩnh vực: | Xuất nhập khẩu, Thuế - Phí - Lệ Phí | Tình trạng: |
Hết hiệu lực
27/04/2007 |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
1. Trị giá tính thuế của hàng hoá nhập khẩu là trị giá giao dịch.
Trị giá giao dịch được xác định bằng tổng số tiền người mua thực tế đã thanh toán hay sẽ phải thanh toán trực tiếp hoặc gián tiếp cho người bán để mua hàng hoá nhập khẩu, sau khi đã được điều chỉnh theo quy định tại Điều 13 Nghị định này.
Tổng số tiền người mua đã thanh toán hay sẽ phải thanh toán trực tiếp hoặc gián tiếp cho người bán để mua hàng hoá nhập khẩu, bao gồm các khoản sau đây:
a) Giá mua ghi trên hoá đơn thương mại. Trường hợp giá mua ghi trên hoá đơn thương mại có bao gồm các khoản giảm giá cho lô hàng nhập khẩu phù hợp thông lệ thương mại quốc tế, thì các khoản này được trừ ra để xác định trị giá tính thuế.
Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định cụ thể việc khấu trừ khoản giảm giá này ra khỏi trị giá tính thuế.
b) Các khoản tiền người mua phải thanh toán nhưng chưa tính vào giá mua ghi trên hoá đơn thương mại, bao gồm:
- Tiền trả trước, tiền đặt cọc cho việc sản xuất, mua bán, vận chuyển, bảo hiểm hàng hoá;
- Các khoản thanh toán gián tiếp cho người bán như: khoản tiền người mua trả cho người thứ ba theo yêu cầu của người bán; khoản tiền được thanh toán bằng cách bù trừ nợ.
2. Điều kiện áp dụng phương pháp xác định trị giá tính thuế theo trị giá giao dịch:
a) Người mua không bị hạn chế quyền định đoạt hoặc sử dụng hàng hoá sau khi nhập khẩu, ngoại trừ các hạn chế sau:
- Hạn chế về việc mua bán, sử dụng hàng hoá theo quy định của pháp luật Việt Nam;
- Hạn chế về nơi tiêu thụ hàng hóa sau khi nhập khẩu;
- Những hạn chế khác nhưng không làm ảnh hưởng đến trị giá của hàng hoá;
b) Giá cả hoặc việc bán hàng không phụ thuộc vào những điều kiện hay các khoản thanh toán mà vì chúng không thể xác định được trị giá của hàng hoá cần xác định trị giá tính thuế;
c) Sau khi bán lại hàng hoá, người nhập khẩu không phải trả thêm bất kỳ khoản tiền nào từ số tiền thu được do việc định đoạt hoặc sử dụng hàng hoá mang lại, không kể các khoản điều chỉnh quy định tại điểm d khoản 1 Điều 13 Nghị định này;
d) Người mua và người bán không có mối quan hệ đặc biệt hoặc nếu có thì mối quan hệ đó không ảnh hưởng đến trị giá giao dịch.
Trường hợp cơ quan hải quan có căn cứ cho rằng mối quan hệ đặc biệt có ảnh hưởng đến trị giá giao dịch thì phải thông báo ngay bằng văn bản cho người khai hải quan biết căn cứ đó.
Cơ quan hải quan tạo điều kiện để người khai hải quan cung cấp thêm thông tin nhằm làm rõ mối quan hệ đặc biệt giữa người mua và người bán không ảnh hưởng đến trị giá giao dịch. Nếu quá 30 ngày (ngày làm việc), kể từ ngày nhận được thông báo của cơ quan hải quan mà người khai hải quan không cung cấp thêm thông tin thì cơ quan hải quan xác định trị giá tính thuế theo quy định tại khoản 6 Điều 15 Nghị định này.
Mối quan hệ đặc biệt giữa người mua và người bán được coi là không ảnh hưởng đến trị giá giao dịch khi trị giá giao dịch xấp xỉ với một trong những trị giá dưới đây của lô hàng được xuất khẩu đến Việt Nam trong cùng ngày hoặc trong vòng 60 ngày trước hoặc sau ngày xuất khẩu lô hàng đang được xác định trị giá tính thuế:
- Trị giá giao dịch của hàng hoá nhập khẩu giống hệt hay tương tự được bán cho người nhập khẩu khác không có mối quan hệ đặc biệt với người xuất khẩu (người bán);
- Trị giá tính thuế của hàng hoá nhập khẩu giống hệt hay tương tự được xác định theo quy định tại Điều 10 Nghị định này;
- Trị giá tính thuế của hàng hoá nhập khẩu giống hệt hay tương tự được xác định theo quy định tại Điều 11 Nghị định này.
1. Hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam nếu không xác định được trị giá tính thuế theo quy định tại Điều 7 Nghị định này thì trị giá tính thuế là trị giá giao dịch của hàng hoá nhập khẩu giống hệt đã được xác định trị giá tính thuế theo quy định tại Điều 7 Nghị định này.
2. Hàng hoá nhập khẩu giống hệt phải thoả mãn các điều kiện sau:
a) Lô hàng nhập khẩu giống hệt được xuất khẩu đến Việt Nam vào cùng ngày hoặc trong vòng 60 ngày trước hoặc sau ngày xuất khẩu của lô hàng đang được xác định trị giá tính thuế;
b) Lô hàng nhập khẩu giống hệt có giao dịch mua bán ở cùng cấp độ hoặc đã được điều chỉnh về cùng cấp độ bán buôn hoặc bán lẻ; có cùng số lượng hoặc đã được điều chỉnh về cùng số lượng với lô hàng đang được xác định trị giá tính thuế;
c) Lô hàng nhập khẩu giống hệt có cùng khoảng cách và phương thức vận chuyển hoặc đã được điều chỉnh về cùng khoảng cách và phương thức vận chuyển giống như lô hàng đang được xác định trị giá tính thuế.
3. Khi áp dụng phương pháp xác định trị giá tính thuế quy định tại Điều này, nếu không có lô hàng nhập khẩu được sản xuất bởi cùng một nhà sản xuất thì mới xét đến hàng hoá được sản xuất bởi nhà sản xuất khác, nhưng phải đảm bảo các quy định về hàng hoá nhập khẩu giống hệt.
4. Khi xác định trị giá tính thuế quy định tại Điều này mà xác định được từ hai trị giá giao dịch của hàng hoá nhập khẩu giống hệt trở lên thì trị giá tính thuế là trị giá giao dịch thấp nhất, sau khi đã điều chỉnh mức giá về cùng các điều kiện quy định tại khoản 2 Điều này.
1. Hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam nếu không xác định được trị giá tính thuế theo quy định tại Điều 7 và Điều 8 Nghị định này thì trị giá tính thuế là trị giá giao dịch của hàng hoá nhập khẩu tương tự đã được xác định trị giá tính thuế theo quy định tại Điều 7 Nghị định này.
2. Hàng hoá nhập khẩu tương tự phải thoả mãn các điều kiện sau:
a) Lô hàng nhập khẩu tương tự được xuất khẩu đến Việt Nam vào cùng ngày hoặc trong vòng 60 ngày trước hoặc sau ngày xuất khẩu của lô hàng đang được xác định trị giá tính thuế;
b) Lô hàng nhập khẩu tương tự có giao dịch mua bán ở cùng cấp độ hoặc đã được điều chỉnh về cùng cấp độ bán buôn hoặc bán lẻ, có cùng số lượng hoặc đã được điều chỉnh về cùng số lượng với lô hàng đang được xác định trị giá tính thuế;
c) Lô hàng nhập khẩu tương tự có cùng khoảng cách và phương thức vận chuyển hoặc đã được điều chỉnh về cùng khoảng cách và phương thức vận chuyển giống như lô hàng đang được xác định trị giá tính thuế.
3. Khi áp dụng phương pháp xác định trị giá tính thuế quy định tại Điều này, nếu không có lô hàng nhập khẩu được sản xuất bởi cùng một nhà sản xuất thì mới xét đến hàng hoá được sản xuất bởi nhà sản xuất khác, nhưng phải đảm bảo các quy định về hàng hoá nhập khẩu tương tự.
4. Khi xác định trị giá tính thuế quy định tại Điều này mà xác định được từ hai trị giá giao dịch của hàng hoá nhập khẩu tương tự trở lên thì trị giá tính thuế là trị giá giao dịch thấp nhất, sau khi đã điều chỉnh mức giá về cùng điều kiện quy định tại khoản 2 Điều này.
1. Hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam nếu không xác định được trị giá tính thuế theo quy định tại Điều 7, Điều 8 và Điều 9 Nghị định này thì trị giá tính thuế là trị giá khấu trừ. Trị giá khấu trừ được xác định căn cứ vào giá bán của hàng hoá nhập khẩu, hàng hoá nhập khẩu giống hệt, hàng hoá nhập khẩu tương tự trên thị trường Việt Nam trừ (-) đi các chi phí hợp lý phát sinh sau khi nhập khẩu.
2. Giá bán hàng hoá nhập khẩu trên thị trường Việt Nam được xác định theo những nguyên tắc sau:
a) Giá bán hàng hoá nhập khẩu là giá bán thực tế, nếu không có giá bán thực tế của hàng hoá nhập khẩu cần xác định trị giá tính thuế thì lấy giá bán thực tế của hàng hoá nhập khẩu giống hệt hay hàng hoá nhập khẩu tương tự còn nguyên trạng như khi nhập khẩu được bán trên thị trường trong nước để xác định giá bán thực tế;
b) Người nhập khẩu và người mua hàng trong nước không có mối quan hệ đặc biệt;
c) Mức giá bán tính trên số lượng bán ra lớn nhất và d? d? hỡnh thành don giỏ;
d) Hàng hoá được bán ra (bán buôn hoặc bán lẻ) vào ngày sớm nhất ngay sau khi nhập khẩu, nhưng không chậm quá 90 ngày (ngày theo lịch) sau ngày nhập khẩu lô hàng đó.
3. Các chi phí hợp lý phát sinh sau khi nhập khẩu hàng hoá:
a) Trường hợp người nhập khẩu mua hàng theo phương thức mua đứt bán đoạn, các khoản được khấu trừ gồm:
- Các chi phí về vận tải và chi phí mua bảo hiểm cho hàng hoá khi tiêu thụ trên thị trường nội địa;
- Các khoản thuế, phí và lệ phí phải nộp ngân sách nhà nước khi nhập khẩu và bán hàng nhập khẩu mà theo quy định của pháp luật hiện hành được hạch toán vào doanh thu bán hàng, giá vốn và chi phí bán hàng nhập khẩu;
- Chi phí quản lý chung liên quan đến việc bán hàng nhập khẩu;
- Lợi nhuận bán hàng sau khi nhập khẩu.
b) Trường hợp người nhập khẩu là đại lý bán hàng cho thương nhân nước ngoài thì chi phí được trừ là hoa hồng bán hàng.
Trường hợp đại lý bán hàng được thương nhân nước ngoài uỷ quyền thực hiện một số hoạt động có liên quan đến việc bán hàng sau khi nhập khẩu tại Việt Nam ngoài hợp đồng đại lý thì những chi phí của các hoạt động này phát sinh tại Việt Nam cũng được trừ trong phạm vi các chi phí đã được thoả thuận trong hợp đồng.
Chi phí phát sinh sau khi nhập khẩu được phép khấu trừ quy định tại khoản 3 Điều này phải phản ánh trung thực chi phí chung và lợi nhuận thực tế, phổ biến trong kinh doanh ngành hàng đó và phù hợp với các nguyên tắc của chế độ kế toán Việt Nam.
4. Hàng hoá nhập khẩu qua quá trình gia công, chế biến thêm ở trong nước thì cũng được xác định trị giá tính thuế theo nguyên tắc quy định tại khoản 1 Điều này và trừ đi các chi phí gia công, chế biến làm tăng thêm trị giá của hàng hoá.
Phương pháp xác định trị giá tính thuế quy định tại Điều này sẽ không được áp dụng khi:
- Hàng hoá nhập khẩu sau khi gia công, chế biến không còn nguyên trạng như khi nhập khẩu;
- Hàng hoá nhập khẩu sau khi gia công, chế biến vẫn giữ nguyên đặc điểm, tính chất, công dụng như khi nhập khẩu nhưng chỉ còn là một bộ phận của hàng hoá được bán ra trên thị trường Việt Nam.
Trường hợp sau khi gia công, chế biến hàng hoá nhập khẩu không còn nguyên trạng như khi nhập khẩu, nhưng vẫn có thể xác định được chính xác giá trị tăng thêm do quá trình gia công, chế biến thì trị giá tính thuế vẫn được xác định theo quy định tại Điều này.
5. Việc khấu trừ các khoản chi phí, lợi nhuận quy định tại khoản 3, khoản 4 Điều này phải dựa vào các tài liệu, số liệu khách quan và định lượng được. Các số liệu này phải được ghi chép và phản ánh trên sổ sách kế toán phù hợp với quy định của pháp luật về kế toán.
1. Hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam nếu không xác định được trị giá tính thuế theo các phương pháp quy định từ Điều 7 đến Điều 10 Nghị định này thì trị giá tính thuế là trị giá tính toán. Trị giá tính toán được xác định bao gồm các khoản sau:
a) Giỏ thành ho?c tr? giỏ c?a nguyờn v?t li?u, chi phớ c?a quỏ trỡnh s?n xu?t ho?c quỏ trỡnh gia cụng khỏc của việc s?n xu?t hàng nh?p kh?u;
b) Chi phí, lợi nhuận để bán hàng hoá nhập khẩu;
c) Các chi phí điều chỉnh quy định tại điểm đ, e khoản 1 Điều 13 Nghị định này.
2. Việc xác định trị giá tính toán phải dựa trên các số liệu của nhà sản xuất cung cấp và phù hợp với các nguyên tắc kế toán của nước sản xuất hàng hoá.
1. Hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam nếu không xác định được trị giá tính thuế theo các phương pháp quy định từ Điều 7 đến Điều 11 Nghị định này thì trị giá tính thuế được xác định bằng phương pháp suy luận.
Phương pháp suy luận là áp dụng tuần tự, linh hoạt các phương pháp xác định trị giá tính thuế quy định từ Điều 7 đến Điều 11 và dừng ngay tại phương pháp xác định được trị giá tính thuế, với điều kiện việc áp dụng đó phù hợp với các quy định tại khoản 2 Điều này và phải dựa vào các tài liệu, số liệu, thông tin có sẵn tại thời điểm xác định trị giá tính thuế.
2. Khi áp dụng phương pháp suy luận thì không được sử dụng các trị giá dưới đây để xác định trị giá tính thuế:
a) Giá bán trên thị trường nội địa của mặt hàng cùng loại đã được sản xuất tại Việt Nam;
b) Giá bán hàng hoá ở thị trường nội địa nước xuất khẩu;
c) Giá bán hàng hoá để xuất khẩu đến một nước khác;
d) Chi phí sản xuất hàng hoá, trừ chi phí sản xuất của hàng hoá nhập khẩu quy định tại Điều 11 Nghị định này;
đ) Giá tính thuế tối thiểu;
e) Các loại giá giả định;
g) Hệ thống xác định trị giá cho phép sử dụng trị giá cao hơn trong hai trị giá thay thế để làm trị giá tính thuế.
1. Các khoản phải cộng vào trị giá giao dịch để xác định trị giá tính thuế:
a) Các chi phí dưới đây do người mua hàng hoá phải chịu nhưng chưa được tính vào trị giá giao dịch:
- Chi phí hoa hồng bán hàng và phí môi giới;
- Chi phí bao bì được coi là đồng nhất với hàng hoá nhập khẩu;
Bao bì được coi là đồng nhất với hàng hoá là các loại bao bì thường xuyên đi kèm với hàng hoá như một điều kiện để bảo quản hay sử dụng hàng hoá, được phân loại cùng với hàng hoá theo nguyên tắc phân loại và mã số hàng hoá hiện hành.
- Chi phí đóng gói, bao gồm cả chi phí vật liệu và chi phí nhân công.
b) Trị giá của hàng hoá, dịch vụ do người mua cung cấp cho người bán miễn phí hoặc giảm giá để sản xuất và tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam, chưa được tính vào giá thực tế đã thanh toán hay sẽ phải thanh toán, bao gồm:
- Nguyên vật liệu, bộ phận cấu thành hàng hoá, các phụ tùng và các chi tiết tương tự hợp thành trong hàng hoá nhập khẩu;
- Các công cụ, khuôn mẫu, khuôn rập và các chi tiết tương tự được sử dụng để sản xuất hàng hoá nhập khẩu;
- Nguyên liệu, nhiên liệu tiêu hao trong quá trình sản xuất hàng hoá nhập khẩu;
- Thiết kế kỹ thuật, thiết kế thi công, kế hoạch triển khai, thiết kế mỹ thuật, thiết kế mẫu, sơ đồ và phác hoạ được thực hiện ở nước ngoài và cần thiết trong quá trình sản xuất hàng hoá nhập khẩu.
c) Tiền bản quyền, phí giấy phép sử dụng các quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến hàng hoá nhập khẩu mà người mua phải trả như điều kiện của việc mua bán hàng hoá nhập khẩu;
d) Các khoản tiền mà người mua thu được sau khi định đoạt, sử dụng hàng hoá nhập khẩu được chuyển dưới mọi hình thức cho người bán hàng nhập khẩu;
đ) Chi phí vận tải, bốc hàng, dỡ hàng, chuyển hàng có liên quan đến việc vận chuyển hàng nhập khẩu đến cửa khẩu nhập;
e) Chi phí bảo hiểm để vận chuyển hàng hoá nhập khẩu đến cửa khẩu nhập.
2. Các khoản dưới đây được trừ ra khỏi trị giá giao dịch nếu đã được tính trong giá mua hàng nhập khẩu:
a) Chi phí cho những hoạt động phát sinh sau khi nhập khẩu hàng hoá, bao gồm: chi phí về xây dựng, kiến trúc, lắp đặt, bảo dưỡng hoặc trợ giúp kỹ thuật;
b) Chi phí vận chuyển, bảo hiểm trong nội địa phát sinh sau khi nhập khẩu;
c) Các khoản thuế, phí, lệ phí phải nộp ngân sách nhà nước tính trong giá mua hàng nhập khẩu;
d) Tiền lãi phải trả liên quan đến việc thanh toán tiền mua hàng nhập khẩu, với điều kiện lãi suất phải trả phải được thể hiện dưới dạng văn bản và phù hợp với lãi suất tín dụng thông thường do các tổ chức tín dụng của nước xuất khẩu áp dụng tại thời điểm ký kết hợp đồng;
đ) Các khoản giảm giá thực hiện trước khi xếp hàng lên phương tiện vận chuyển ở nước xuất khẩu hàng hoá, được lập thành văn bản và nộp cùng với tờ khai hải quan hàng hoá nhập khẩu.
3. Việc cộng thêm hoặc trừ đi các chi phí quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này chỉ được thực hiện trên cơ sở các số liệu khách quan, có sẵn và định lượng được, phù hợp với các quy định của pháp luật về kế toán.
4. Không được cộng thêm hay trừ đi bất cứ khoản nào khác ngoài các khoản quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.
Chapter II
METHODS OF DETERMINING THE DUTIABLE VALUE OF IMPORT ED GOODS
Article 7.- Method of determining the dutiable value on the basis of the transaction value of imported goods
1. The dutiable value of imported goods is the transaction value.
The transaction value is the total money amount which has been actually paid or shall be paid by the buyer directly or indirectly to the seller for the purchase of imported goods, adjusted in accordance with the provisions of Article 13 of this Decree.
The total money amount actually paid or to be paid by the buyer directly or indirectly to the seller for the purchase of imported goods shall cover the following items:
a/ The purchase price shown on the commercial invoice. Where the purchase price shown on the commercial invoice includes allowances for the imported goods lot in accordance with international trade practices, such allowances shall be deducted for determination of the dutiable value.
The Finance Minister shall specify the deduction of these allowances from the dutiable value.
b/ The money amounts which must be paid by the buyer but are not yet included in the purchase price shown on the commercial invoice, including:
- Advance payments, deposits for production, sale and purchase, transport, insurance of goods;
- Indirect payments to the seller such as: amounts paid by the buyer to a third party at the request of the seller; amounts paid by way of debt clearing.
2. Conditions for application of the method of determining the dutiable value on the basis of the transaction value:
a/ The buyer is not restricted in the right to dispose of or use the goods after the importation, except for the following restrictions:
- Restrictions on the purchase, sale and use of goods under the provisions of Vietnamese law;
- Restrictions on places for goods sale after the importation;
- Other restrictions which, however, do not affect the value of goods;
b/ The goods price or sale does not depend on the conditions or payments, for which the value of goods being valued cannot be determined;
c/ After sale of goods, the importer must not pay any additional amount from the proceeds from the disposal or use of the goods, excluding the adjusted amounts specified at Point d, Clause 1, Article 13 of this Decree;
d/ The buyer and the seller have no special relationship, or, if they have, such relationship does not affect the transaction value.
Where the customs office has grounds to deem that such special relationship does affect the transaction value, it must immediately notify such grounds in writing to the customs declarant.
The customs office shall create conditions for the customs declarant to supply more information in order to clarify that the special relationship between the buyer and the seller does not affect the transaction value. If past 30 (working) days as from the date of receiving the notice of the customs office, the customs declarant fails to supply additional information, the customs office shall determine the dutiable value according to the provisions of Clause 6, Article 15 of this Decree.
The special relationship between the buyer and the seller shall be considered not affecting the transaction value when the transaction value approximates to one of the following values of the goods lot exported to Vietnam on the same day or within 60 days before or after the exportation of the goods lot being valued:
- The transaction value of identical or similar imported goods sold to other importers having no special relationship with the exporter (the seller);
- The dutiable value of identical or similar imported goods, determined under the provisions of Article 10 of this Decree.
- The dutiable value of identical or similar imported goods, determined under the provisions in Article 11 of this Decree.
Article 8.- Method of determining the dutiable value on the basis of the transaction value of identical imported goods
1. For imported goods of which the dutiable value cannot be determined under the provisions of Article 7 of this Decree, their dutiable value shall be the transaction value of identical imported goods of which the dutiable value has been determined under the provisions of Article 7 of this Decree.
2. Identical imported goods must satisfy the following conditions:
a/ Identical imported goods lots are exported to Vietnam on the same day or within 60 days before or after the export date of the goods lots being valued;
b/ Identical import goods lots are traded on the same level or have been adjusted to the same level of wholesale or retail; have the same quantity or have been adjusted to the same volume with the goods lots being valued;
c/ Identical imported goods lots have the same transport distance and mode or have already been adjusted to the same transport distance and mode as the goods lots being valued.
3. Upon the application of the dutiable value-determining method specified in this Article, only if there are no goods lots turned out by the same producer shall the goods lots turned out by other producers be taken into account but in compliance with the provisions on identical imported goods.
4. If two or more transaction values of identical imported goods are determined upon the determination of the dutiable value under the provisions of this Article, the dutiable value shall be the lowest transaction value, after the price level is adjusted to the same conditions specified in Clause 2 of this Article.
Article 9.- Method of determining the dutiable value on the basis of the transaction value of similar imported goods
1. If the dutiable value of goods imported into Vietnam cannot be determined under the provisions of Articles 7 and 8 of this Decree, the dutiable value shall be the transaction value of similar imported goods of which the dutiable value has been determined under the provisions of Article 7 of this Decree.
2. Similar imported goods must satisfy the following conditions:
a/ Similar imported goods lots are exported into Vietnam on the same day or within 60 days before or after the exportation of the goods lots being valued;
b/ Similar imported goods lots are traded on the same level or have already been adjusted to the same level of wholesale or retail, have the same volume or have been already adjusted to the same volume of the goods lots being valued;
c/ Similar imported goods lots have the same transport distance and mode or have been adjusted to the same transport distance and mode as the goods lots being valued.
3. Upon the application of the dutiable value-determining method specified in this Article, only if there are no imported goods lots turned out by the same producer shall the goods turned out by other producers be taken into account, but the provisions on similar imported goods must be complied with.
4. If two or more transaction values of similar imported goods are determined upon the determination of the dutiable value under the provisions of this Article, the dutiable value shall be the lowest transaction value, after the price level is adjusted to the same conditions specified in Clause 2 of this Article.
Article 10.- Method of determining the dutiable value on the basis of the value the deductible
1. If the dutiable value of goods imported into Vietnam cannot be determined under the provisions of Articles 7, 8 and 9 of this Decree, it shall be the deductible value. The deductible value shall be determined on the basis of the sale price of imported goods, identical imported goods or similar import goods in the Vietnamese market minus (-) reasonable expenses incurred after the importation.
2. The sale prices of imported goods in the Vietnamese market shall be determined on the following principles:
a/ The sale prices of imported goods shall be the actual sale prices; if there is no actual sale price of imported goods being valued, the actual sale price of identical imported goods or similar imported goods in the condition as imported and sold in the domestic market shall be used as actual sale price;
b/ The importer and the domestic buyer have no special relationship;
c/ The sale price is calculated on the greatest quantity of goods sold and sufficient for the formation of the unit price;
d/ The goods are sold out (wholesaled or retailed) on the earliest day after the importation but before the expiration of 90 days (calendar days) after the date of importation of such goods lot.
3. Reasonable expenses incurred after the importation of goods:
a/ Where the importer purchases goods by mode of definitive purchase, the deductions shall include:
- Expenses for transport and expenses for insurance for goods when they are sold on the domestic market;
- Tax, charge and fee amounts payable to the state budget upon the importation and sale of goods, which, under the current provisions of law, can be accounted into sale turnover, cost prices and imports sale expenses;
- General management expenses related to the sale of imported goods;
- Sale profits earned after the importation of goods.
b/ Where the importer is the sale agent for a foreign trader, the deductible expenses shall be sale commissions.
Where the sale agent is authorized by the foreign trader to carry out some activities related to the post-importation sale in Vietnam outside the agency contract, the expenses incurred in Vietnam for these activities shall also be deducted within the limit of expenses agreed upon in the contract.
The post-importation expenses deducted under the provisions of Clause 3 of this Article must truthfully reflect general expenses and actual profits which are common in dealings in the goods concerned and compatible with the principles of Vietnam’s accounting regime.
4. Imported goods going through further processing in the country shall also have their dutiable value determined on the principle specified in Clause 1 of this Article, minus the expenses for processing to add value to the goods.
The dutiable value- determining method specified in this Article shall not be applied when:
- The imported goods, after being processed, are no longer in the condition as imported;
- The imported goods, after being processed, still maintain their characteristics, nature and utilities as imported, but constitute only a part of the goods sold in the Vietnamese market.
Where the imported goods are no longer in the condition as imported after being processed but their value added by the processing can still be accurately determined, their dutiable value shall still be determined under the provisions of this Article.
5. The deduction of expenses and profits specified in Clauses 3 and 4 of this Article must be based on objective and quantifiable documents and figures. These figures must be recorded and reflected in accounting books in accordance with the provisions of law on accounting.
Article 11.- Method of determining the dutiable value on the basis of the computed calculation value
1. If the dutiable value of goods imported into Vietnam cannot be determined by the methods specified in Articles 7 thru 10 of this Decree, it shall be the computed value. Computed value shall include the following items:
a/ The cost or value of raw materials and materials, the cost of the stage of production or other processing of the production of imported goods;
b/ Expenses for and profits from sale of imported goods;
c/ Adjusted expenses defined at Points e and f of Clause 1, Article 13 of this Decree.
2. The determination of computed value must be based on the figures supplied by producers and in accordance with the accounting principles of the goods-manufacturing countries.
Article 12.- The deductive method of determining the dutiable value
1. If the dutiable value of goods imported into Vietnam cannot be determined by the methods specified in Articles 7 thru 11 of this Decree, it shall be determined by the deductive method.
The deductive method means the sequential and flexible application of the dutiable value-determining methods specified in Articles 7 thru 11 and the immediate stop at the method by which the dutiable value can be determined, provided that such application complies with the provisions of Clause 2 of this Article and must be based on the documents, figures and information available at the time of determining the dutiable value.
2. When the deductive method is applied, the following values must not be used to determine the dutiable value:
a/ The domestic market sale prices of goods of the same kind, which have been produced in Vietnam;
b/ The sale prices of goods in the domestic market of the exporting country;
c/ The sale prices of goods for export to another country;
d/ The costs production of goods, excluding those of imported goods specified in Article 11 of this Decree;
e/ The minimum dutiable price;
f/ Arbitrary prices;
g/ A valuation system permitting the use of the higher of two alternative values as the dutiable value.
Article 13.- Adjustments
1. Items to be added to the transaction value for determination of dutiable value:
a/ The following expenses which must be borne by the goods buyer but are not yet included in the transaction value:
- Buying commission, brokerage commission;
- Cost of packages, which are treated as being one with imported goods.
Packages treated as being one with goods are those which always accompany goods as a condition for preservation or use of such goods, classified together with the goods according to the current classification principles and goods codes.
- Cost of packing, including cost of materials and cost of labor.
b/ The value of goods and services which are supplied free of charge or at reduced cost by the buyer to the seller for production and sale of goods imported into Vietnam, not yet included in the price actually paid or to be paid:
- Raw materials, materials, components parts and similar details incorporated the imported goods;
- Tools, dies, molds and similar details used in the production of imported goods;
- Raw materials and materials consumed in the production of the imported goods;
- Technical designs, construction designs, implementation plans, art designs, model designs, plans and sketches made license fees for the overseas and necessary for the production of the imported goods.
c/ Royalties, license fees for the use of intellectual property rights related to imported goods, which must be paid by the buyer as a condition for purchase and sale of the imported goods;
d/ Proceeds collected by the buyer after the disposal or use of the imported goods and transferred in any forms to the seller of the imported goods;
e/ Expenses for transportation, loading, unloading and handling of goods related to the transportation of the imported goods to the border-gate of importation;
f/ Cost of insurance expenses for transportation of the imported goods to the border-gate of importation.
2. The following items shall be subtracted from the transaction value if they are already included in the purchase prices of imported goods:
a/ Expenses for activities arising after the importation of goods, including: expenses for construction, architecture, installation, maintenance or technical assistance;
b/ Expenses for transport and insurance in the country after the importation;
c/ Taxes, charges, fees payable to the state budget, which are incorporated in the purchase prices of imported goods;
d/ Payable interests related to the payment for purchase of imported goods, provided that the rates of payable interests are expressed in writing and compatible with the common credit interest rates applied by credit institution of the exporting countries at the time of signing of contracts;
e/ Discounts made before loading goods onto means of transport in the exporting countries, which are expressed in writing and submitted together with the customs declarations of imported goods.
3. The addition or subtraction of the expenses specified in Clauses 1 and 2 of this Article shall only be effected on the basis of objective and quantifiable data available in accordance with the provisions of law on accounting.
4. All items other than those specified in Clauses 1 and 2 of this Article must not be added or subtracted.