Chương 1 Nghị định 113/2004/NĐ-CP: Những quy định chung
Số hiệu: | 113/2004/NĐ-CP | Loại văn bản: | Nghị định |
Nơi ban hành: | Chính phủ | Người ký: | Phan Văn Khải |
Ngày ban hành: | 16/04/2004 | Ngày hiệu lực: | 15/05/2004 |
Ngày công báo: | 30/04/2004 | Số công báo: | Số 21 |
Lĩnh vực: | Lao động - Tiền lương, Vi phạm hành chính | Tình trạng: |
Hết hiệu lực
25/06/2010 |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
1. Nghị định này quy định việc xử phạt hành chính đối với tổ chức, cá nhân Việt Nam có hành vi vi phạm pháp luật lao động mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính, xảy ra trong phạm vi lãnh thổ, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam.
2. Cá nhân, tổ chức nước ngoài vi phạm hành chính pháp luật lao động trong phạm vi lãnh thổ, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng bị xử phạt hành chính theo quy định của Nghị định này, trừ trường hợp Điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác.
3. Pháp luật lao động được quy định tại Nghị định này bao gồm những quy định trong Bộ Luật Lao động đã được sửa đổi, bổ sung và các văn bản hướng dẫn chi tiết thi hành Bộ Luật Lao động đã được sửa đổi, bổ sung.
1. Việc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi vi phạm pháp luật lao động do người có thẩm quyền được quy định tại Điều 26, 27 và Điều 28 của Nghị định này thực hiện.
Cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi vi phạm pháp luật lao động khi có hành vi vi phạm quy định tại Chương II của Nghị định này.
2. Việc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi vi phạm pháp luật lao động phải được tiến hành nhanh chóng, công minh, triệt để. Khi phát hiện vi phạm phải có quyết định đình chỉ ngay việc vi phạm; mọi hậu quả do hành vi vi phạm hành chính gây ra phải được khắc phục theo quy định của pháp luật.
3. Một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt một lần. Một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm. Nhiều người cùng thực hiện một hành vi vi phạm thì mỗi người vi phạm đều bị xử phạt.
4. Việc xử lý vi phạm hành chính phải căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm, nhân thân người vi phạm và những tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng được quy định tại Điều 3 và Điều 4 Nghị định này để quyết định hình thức và biện pháp xử lý phù hợp.
5. Không xử phạt vi phạm hành chính trong trường hợp thuộc tình thế cấp thiết, phòng vệ chính đáng, sự kiện bất ngờ hoặc người vi phạm hành chính trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình.
1. Người vi phạm đã ngăn chặn, làm giảm bớt tác hại của vi phạm hoặc tự nguyện khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại.
2. Người vi phạm hành chính đã tự nguyện khai báo, thành thật hối lỗi.
3. Người vi phạm là phụ nữ có thai, người chưa thành niên, người cao tuổi, người đang có bệnh hoặc tàn tật làm hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình.
4. Vi phạm do hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không tự mình gây ra hoàn cảnh khó khăn đó.
5. Vi phạm do trình độ lạc hậu.
1. Vi phạm có tổ chức.
2. Vi phạm nhiều lần hoặc tái phạm trong cùng một lĩnh vực.
3. Xúi giục, lôi kéo người chưa thành niên vi phạm, ép buộc người bị phụ thuộc vào mình về vật chất, tinh thần vi phạm.
4. Vi phạm trong tình trạng say do dùng rượu, bia hoặc các chất kích thích khác.
5. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vi phạm.
6. Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, hoàn cảnh thiên tai hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để vi phạm.
7. Vi phạm trong thời gian đang chấp hành hình phạt của bản án hình sự hoặc đang chấp hành quyết định xử lý vi phạm hành chính.
8. Tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm hành chính mặc dù người có thẩm quyền đã yêu cầu chấm dứt hành vi đó.
9. Sau khi vi phạm đã có hành vi trốn tránh, che giấu hành vi vi phạm.
1. Đối với mỗi hành vi vi phạm hành chính về pháp luật lao động, tổ chức, cá nhân vi phạm phải chịu một trong các hình thức xử phạt chính sau đây:
a) Cảnh cáo;
b) Phạt tiền.
Khi áp dụng hình thức phạt tiền, mức tiền phạt cụ thể đối với một hành vi vi phạm là mức trung bình của khung tiền phạt tương ứng với hành vi đó được quy định tại Nghị định này; nếu vi phạm có tình tiết giảm nhẹ thì mức tiền phạt có thể thấp hơn nhưng không được dưới mức thấp nhất của khung phạt tiền đã được quy định; nếu vi phạm có tình tiết tăng nặng thì mức tiền phạt có thể cao hơn nhưng không vượt quá mức cao nhất của khung phạt tiền đã được quy định.
2. Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính về pháp luật lao động còn có thể bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung là tước quyền sử dụng các loại giấy phép, chứng chỉ hành nghề.
3. Ngoài các hình thức xử phạt chính, xử phạt bổ sung quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính về pháp luật lao động còn có thể bị áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khắc phục hậu quả sau đây:
a) Buộc bồi hoàn thiệt hại do vi phạm hành chính gây ra, kể cả những thiệt hại về máy, thiết bị và tài sản của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật;
b) Buộc thực hiện đúng các quy định của pháp luật về: lập quỹ dự phòng mất việc làm; thực hiện theo phương án sử dụng lao động; giao kết hợp đồng lao động; đăng ký thỏa ước lao động; các nguyên tắc về xây dựng thang lương, bảng lương, định mức lao động, quy chế thưởng; về nội quy lao động; về các chế độ đối với lao động đặc thù, về lao động là người nước ngoài, bảo đảm điều kiện hoạt động của công đoàn, những biện pháp về quản lý lao động; bảo đảm về an toàn lao động của công đoàn, những biện pháp về quản lý lao động; bảo đảm về an toàn lao động và vệ sinh lao động;
c) Trả lại số tiền đặt cọc và lãi suất tiết kiệm cho người lao động;
d) Tổ chức đưa người lao động ở nước ngoài về nước;
đ) Buộc truy nộp số tiền bảo hiểm xã hội;
e) Kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền phong toả tài khoản, trích nộp bảo hiểm xã hội hoặc rút giấy phép hoạt động;
g) Buộc khắc phục, sửa chữa đối với các máy, thiết bị không bảo đảm các tiêu chuẩn về an toàn lao động và vệ sinh lao động;
h) Buộc kiểm định và đăng ký các loại máy, thiết bị, vật tư, các chất có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động và vệ sinh lao động;
i) Những biện pháp khác theo quy định của pháp luật.
1. Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm hành chính về pháp luật lao động quy định tại Nghị định này là một năm, kể từ ngày có hành vi vi phạm hành chính; nếu quá các thời hạn nêu trên thì không xử phạt nhưng vẫn bị áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả được quy định tại khoản 3 Điều 5 của Nghị định này.
2. Trong thời hạn quy định tại khoản 1 Điều này mà cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm hành chính mới trong cùng lĩnh vực lao động trước đây đã vi phạm hoặc cố tình trốn tránh, trì hoãn việc xử phạt thì không áp dụng thời hiệu nêu trên; thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính được tính lại kể từ thời điểm thực hiện vi phạm hành chính mới hoặc thời điểm chấm dứt hành vi trốn tránh, trì hoãn việc xử phạt.
3. Đối với cá nhân bị khởi tố, truy tố hoặc có quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục tố tụng hình sự mà có quyết định đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ án thì bị xử phạt hành chính nếu hành vi vi phạm có dấu hiệu vi phạm hành chính, thời hiệu xử phạt là (03) ba tháng, kể từ ngày có quyết định đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ án.
Thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính về pháp luật lao động là một năm, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt hoặc từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt mà không tái phạm.
Chapter I
Article 1. Scope of application
1. This Decree stipulates administrative penalties for Vietnamese organizations and individuals, who violate labour laws but are not criminal and shall be penalized in accordance with laws within the territory, economically privileged zones and the continental shelf of Vietnam.
2. Foreign individuals and organizations committing acts of administrative violations of labour laws within the territory, economically privileged zones and the continental shelf of the Socialist Republic of Vietnam shall be penalized as regulated by this Decree except for cases stipulated by international treaties, in which the Socialist Republic of Vietnam is a signatory or a supporting member;
3. Labour laws mentioned in this Decree include the regulations in the amended and supplemented Labour Code and documents detailing the compliance with the amended and supplemented Labour Code.
Article 2. Principles for the penalization application to labour legislation violations
1. The penalization for acts of labour law violations shall be conducted by the competent persons as stipulated in Articles 26, 27 and 28 below.
Individuals and organizations committing acts of violation as stipulated in Chapter 2 of this Decree shall be penalized for their labour law violations.
2. The penalization for acts of labour law violations shall be conducted promptly, fairly and thoroughly. A violation detected should be suspended promptly by a decision; every consequence caused by the act of administrative violation shall be surmounted in accordance with laws.
3. One act of administrative violation shall be penalized only once. Each of acts of violation committed by the same person shall be penalized separately. Each of the persons who commit the same act of violation shall be penalized separately.
4. Forms and measures of penalization shall be based on the nature and seriousness of the violation, the personal status of the guilty person, mitigating and aggravating factors as stipulated in Articles 3 and 4 of this Decree.
5. Penalization for administration violation is not applied for cases of emergency, legitimate self-defense, sudden factors or administrative violators losing capacity of consciousness or act control due to mental illness or other diseases.
Article 3. The mitigating factors are determined as follows:
1. The guilty person who has tried to prevent or diminish the damages caused by the violation, voluntarily to take remedial measures or to pay compensation for damages caused.
2. The guilty person has voluntarily clarified, truthfully repented.
3. The guilty person is a pregnant woman, a young, an elderly person, a sick or handicapped person whose conscience and capability to control himself/herself is limited.
4. A violation driven by extremely difficult circumstances, which were not intentionally created by the violator.
5. A violation is committed by backwardness.
Article 4. The aggravating factors are determined as follows:
1. Violating in an organized manner.
2. Multiple violation or recidivism in the same field.
3. Inciting, enticing young persons or compelling materially or spiritually dependant persons into committing a violation.
4. Committing a violation while being drunk with beer, wine or other stimulants.
5. Taking advantage of one's position or powers to commit a violation.
6. Taking advantage of war situation, natural disasters or other especially difficult circumstances of the society to commit a violation.
7. Committing a violation while serving a criminal sentence or while fulfilling an administrative penalty.
8. Continuing to commit the act of administrative violation despite having been requested to stop that act by the competent person .
9. Trying to evade the sanction or to conceal the violation after committing it.
Article 5. Forms of penalization
1. Organizations, individuals who commit acts of administrative violation of labour laws shall be punished with one of the following major forms of penalization:
a) Serving a warning;
b) Fining
When the form of fining is applied, the specific rate of fine for an act of violation is the medium rate of the corresponding range of fines for that act as stipulated in this Decree; if the violation involves in mitigating factors, the rate of fine might be lower but not below the lowest rate of the stipulated corresponding range of fines; if the violation involves in aggravating factors, the rate of fine might be higher but not above the highest rate of the stipulated corresponding range of fine.
2. Depending on the nature and seriousness of the violation, organizations and individuals who commit administrative violations of labour law might face supplementary forms of penalization for taking away the use right of licences and operation certificates.
3. Apart from major and supplementary forms of penalization as stipulated in Items 1 and 2 of this Article, one or more than one of following remedial measures might be applied to organizations, individuals committing administrative violation of labour laws:
a) Being forced to pay compensation for damages caused, including those in terms of machinery, equipment and properties of the enterprise as regulated by laws;
b) Being forced to comply with legal regulations on setting up the contingency fund for unemployment; plan for employment; labour contract signing; labour bargaining registration; principles of formulation of wage rates, payrolls, labour practice codes and reward regulations; working principles; regulations for typical workers, foreign workers, operational conditions for the trade union, measures for labour management; ensuring occupational safety by the trade union, measures for labour management; ensuring occupational safety and health;
c) Paying back the deposit and interest rate amounts to workers;
d) Sending overseas workers back to their countries;
e) Being forced to pay in arrears of social insurance;
f) Being proposed to the competent agencies to besiege account, collect social insurance or revoke operation licences;
g) Being forced to upgrade and repair factories and equipment that do not meet standards on occupational safety and health;
h) Being forced to verify and register the use of machine, equipment, materials and substances with strict requirements of occupational safety and health;
i) Other measures as regulated by laws.
Article 6. Prescription periods for handling an administrative violation
1. The prescription period for penalization for administrative violations in the labour legislation is one year, beginning from the occurrence date of the administrative violation as stipulated in this Decree; after this period, remedial measures for damages caused as stipulated in Item 3, Article 5 of this Decree shall be applied for the guilty person instead of the penalization.
2. Within the time limit set in Item 1 of this Article, if individuals or organizations concerned commit a new act of administrative violation in the same field of labour or intentionally evade or obstruct the penalization, the above limitation period shall not be applied.
3. With regard to a person, against whom a legal action has been taken or who is being prosecuted, or to whom a decision has been issued for trial according to the criminal proceedings, but later is subject to a decision issued to cancel the investigation or to cancel the trial, shall be imposed an administrative penalization if there is indication of his/her administrative violation, the limitation period for penalizing is 3 months beginning from the date the cancellation decision of investigation or the trial is issued.
Article 7. Time limit regarded as not yet being penalized for an administrative violation The time limit upon which guilty organizations or individuals shall be regarded as not yet being penalized for an administrative violation is one year since the decision of administrative penalization is finally executed or since the expiration of the penal decision provided that they do not commit any another violation.
Tình trạng hiệu lực: Hết hiệu lực