Chương 5 Luật Tổ chức Toà án nhân dân 2002: Thẩm phán và hội thẩm
Số hiệu: | 33/2002/QH10 | Loại văn bản: | Luật |
Nơi ban hành: | Quốc hội | Người ký: | Nguyễn Văn An |
Ngày ban hành: | 02/04/2002 | Ngày hiệu lực: | 12/04/2002 |
Ngày công báo: | 05/06/2002 | Số công báo: | Số 25 |
Lĩnh vực: | Bộ máy hành chính | Tình trạng: |
Hết hiệu lực
01/06/2015 |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
1. Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất, đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, có trình độ cử nhân luật và đã được đào tạo về nghiệp vụ xét xử, có thời gian làm công tác thực tiễn theo quy định của pháp luật, có năng lực làm công tác xét xử, có sức khoẻ bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán.
2. Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất, đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực, có kiến thức pháp lý, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, có sức khoẻ bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao, thì có thể được bầu hoặc cử làm Hội thẩm.
3. Thẩm phán, Hội thẩm chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình và phải giữ bí mật công tác theo quy định của pháp luật; nếu có hành vi vi phạm pháp luật thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
4. Thẩm phán, Hội thẩm trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình mà gây thiệt hại, thì Toà án nơi Thẩm phán, Hội thẩm đó thực hiện nhiệm vụ xét xử phải có trách nhiệm bồi thường và Thẩm phán, Hội thẩm đã gây thiệt hại có trách nhiệm bồi hoàn cho Toà án theo quy định của pháp luật.
5. Tiêu chuẩn cụ thể của Thẩm phán, Hội thẩm của Toà án mỗi cấp, thủ tục tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán, bầu hoặc cử, miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm, quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán, Hội thẩm do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định.
Thẩm phán, Hội thẩm phải tôn trọng nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân.
Khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Thẩm phán, Hội thẩm có quyền liên hệ với cơ quan nhà nước, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân. Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình, các cơ quan, tổ chức và công dân có trách nhiệm tạo điều kiện để Thẩm phán, Hội thẩm làm nhiệm vụ.
Nghiêm cấm mọi hành vi cản trở Thẩm phán, Hội thẩm thực hiện nhiệm vụ.
Người có đủ các tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều 37 của Luật này để được bổ nhiệm làm Thẩm phán phải được Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán tuyển chọn và đề nghị.
Tổ chức và hoạt động của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán, quan hệ giữa Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán với Chánh án Toà án nhân dân tối cao do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định.
1. Chánh án Toà án nhân dân tối cao do Quốc hội bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước.
Nhiệm kỳ của Chánh án Toà án nhân dân tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khoá mới bầu Chánh án mới.
2. Phó Chánh án và Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán Toà án quân sự trung ương do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.
3. Thẩm phán các Toà án nhân dân địa phương, Toà án quân sự quân khu và tương đương, Toà án quân sự khu vực do Chánh án Toà án nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của các Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán.
4. Chánh án, Phó Chánh án các Toà án nhân dân địa phương do Chánh án Toà án nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức sau khi thống nhất với Thường trực Hội đồng nhân dân địa phương; Chánh án, Phó Chánh án Toà án quân sự quân khu và tương đương, Toà án quân sự khu vực do Chánh án Toà án nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức sau khi thống nhất với Bộ trưởng Bộ quốc phòng.
5. Nhiệm kỳ của Phó Chánh án và Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Chánh án, Phó Chánh án và Thẩm phán Toà án nhân dân địa phương, Toà án quân sự là năm năm.
1. Hội thẩm nhân dân Toà án nhân dân địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu theo sự giới thiệu của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp và do Hội đồng nhân dân cùng cấp miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Chánh án Toà án nhân dân cùng cấp sau khi thống nhất với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp.
2. Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự quân khu và tương đương do Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam cử theo sự giới thiệu của cơ quan chính trị quân khu, quân đoàn, quân chủng, tổng cục hoặc cấp tương đương và do Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Chánh án Toà án quân sự quân khu và tương đương sau khi thống nhất với cơ quan chính trị quân khu, quân đoàn, quân chủng, tổng cục hoặc cấp tương đương.
3. Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự khu vực do Chủ nhiệm chính trị quân khu, quân đoàn, quân chủng, tổng cục hoặc cấp tương đương cử theo sự giới thiệu của cơ quan chính trị sư đoàn hoặc cấp tương đương và do Chủ nhiệm chính trị quân khu, quân đoàn, quân chủng, tổng cục hoặc cấp tương đương miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Chánh án Toà án quân sự khu vực sau khi thống nhất với cơ quan chính trị sư đoàn hoặc cấp tương đương.
4. Nhiệm kỳ của Hội thẩm quân nhân là năm năm.
5. Nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân dân Toà án nhân dân địa phương theo nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân cùng cấp.
6. Việc quản lý Hội thẩm nhân dân và Hội thẩm quân nhân do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định.
1. Số lượng Thẩm phán của Toà án nhân dân tối cao, số lượng Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân của các Toà án nhân dân địa phương do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao.
2. Số lượng Thẩm phán và Hội thẩm quân nhân của các Toà án quân sự do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao sau khi thống nhất với Bộ trưởng Bộ quốc phòng.
1. Vietnamese citizens who are loyal to the Fatherland and the Constitution of the Socialist Republic of Vietnam, have good qualities and virtue, are incorrupt and honest, determined to protect the socialist legislation, have the law bachelor degree and been trained in adjudicating operations, have engaged in practical work for a period of time prescribed by law, have the adjudicating capability and have good health to ensure the fulfillment of assigned tasks may be selected and appointed to work as judges.
2. Vietnamese citizens who are loyal to the Fatherland and the Constitution of the Socialist Republic of Vietnam, have good qualities and virtue, are incorrupt and honest, have the legal knowledge, have the spirit to resolutely protect the socialist legislation and have good health to ensure the fulfillment of assigned tasks may be elected or appointed to be jurors.
3. The judges and jurors shall take responsibility before law for the performance of their tasks and the exercise of their powers and must keep work secrets according to law provisions; if committing law offenses, they shall, depending on the nature and seriousness of their violations, be disciplined or examined for penal liability according to law provisions.
4. If judges, jurors, while performing their tasks and exercising their powers, cause damage, the courts where such judges and/or jurors have performed the adjudicating tasks shall have to pay the compensation therefor and the judges and/or jurors who have caused the damage have the responsibility to repay the courts according to the provisions of law.
5. The specific criteria of judges and jurors of the courts of each level, the procedures for selection, appointment, removal from office, dismissal of judges, election or appointment, removal from office and dismissal of jurors, and the rights and obligations of judges and jurors shall be prescribed by the National Assembly Standing Committee.
Article 38.- Judges and jurors must respect people and submit to the people’s supervision.
When performing their tasks and exercising their powers, the judges and jurors may contact State agencies, the Fatherland Front committee and the Front’s member organizations, other social organizations, economic organizations, people’s armed force units and citizens. Within the ambit of their respective functions and tasks, the agencies, organizations and citizens shall have to create conditions for judges and jurors to perform their tasks.
All acts of obstructing judges and/or jurors from performing their tasks are strictly forbidden.
Article 39.- Persons who satisfy all criteria prescribed in Clause 1, Article 37 of this Law for appointment as judges must be selected and recommended by the Judge Selection Council.
The organization and operation of the Judge Selection Council and the relationship between the Judge Selection Council and the chief judge of the Supreme People’s Court shall be prescribed by the National Assembly Standing Committee.
1. The chief judge of the Supreme People’s Court shall be elected, removed from office or dismissed by the National Assembly at the proposal of the State President.
The term of office of the chief judge of the Supreme People’s Court shall correspond to the term of the National Assembly. Upon the expiry of the National Assembly’s term, the chief judge of the Supreme People’s Court will continue performing his/her tasks till the new National Assembly elect the new chief judge.
2. Deputy-chief judges and judges of the Supreme People’s Court and the chief judge, deputy-chief judges and judges of the central military court shall be appointed, removed from office or dismissed by the State President.
3. Judges of the local People’s Courts, the military courts of military regions or the equivalent and the regional military courts shall be appointed, removed from office and dismissed by the chief judge of the Supreme People’s Court at the proposal of the Judge Selection Council.
4. The chief judges, deputy-chief judges of the local People Courts shall be appointed, removed from office or dismissed by the chief judge of the Supreme People’s Court after reaching agreement with the permanent members of the local People’s Councils; the chief judges and deputy-chief judges of the military courts of the military regions or the equivalent, of the regional military courts shall be appointed, removed from office, or dismissed by the chief judge of the Supreme People’s Court after reaching agreement with the Minister of Defense.
5. The term of office of the deputy-chief judges and judges of the Supreme People’s Court, the chief judges, deputy-chief judges and judges of the local People’s Courts and the military courts shall be five years.
1. The people’s jurors of the local People’s Courts shall be elected by the People’s Councils of the same level at the recommendation of the Father Front committees of the same levels, and removed from office or dismissed by the People’s Councils of the same levels at the proposal of the chief judges of the People’s Courts of the same levels after reaching agreement with the Fatherland Front committees of the same levels.
2. The army-men’s jurors of the military courts of military regions or the equivalent shall be appointed by the director of the General Political Department of Vietnam People’s Army at the recommendation of the political agencies of the military regions, army corps, army services, general departments or the equivalent levels and removed from office or dismissed by the director of the General Political Department of the Vietnam People’s Army at the proposal of the chief judges of the military courts of military regions or the equivalent after reaching agreement with the political agencies of the military regions, army corps, army services, general departments or the equivalent level.
3. The army-men’s jurors of the regional military courts shall be appointed by the directors of the political departments of military regions, army corps, army services, general departments or the equivalent level at the recommendation of the political agencies of divisions or the equivalent level, and removed from office or dismissed by the directors of the political departments of the military regions, army corps, army services, general departments or the equivalent level at the proposal of the chief judges of the regional military courts after reaching agreement with the political agencies of divisions or the equivalent level.
4. The term of office of the army men’s jurors shall be five years.
5. The term of office of the people’s jurors of the local People’s Courts shall correspond to the term of the People’s Councils of the same levels.
6. The management of the people’s jurors and army man’s jurors shall be stipulated by the National Assembly Standing Committee.
1. The number of judges of the Supreme People’s Court, the numbers of judges and people’s jurors of the local People’s Courts shall be decided by the National Assembly Standing Committee at the proposal of the chief judge of the Supreme People’s Court.
2. The numbers of judges and army men’s jurors of the military courts shall be decided by the National Assembly Standing Committee at the proposal of the chief judge of the Supreme People’s Court after reaching agreement with the Minister of Defense.
Article 43.- The State bodies, people’s armed force units, economic organizations and social organizations having persons elected or appointed to be jurors have the responsibility to create conditions for the jurors to perform their adjudicating tasks.
Jurors shall be given professional fostering and provided with uniforms and allowances when performing their adjudicating tasks.