Chương III Luật Điện ảnh 2006: Sản xuất phim
Số hiệu: | 62/2006/QH11 | Loại văn bản: | Luật |
Nơi ban hành: | Quốc hội | Người ký: | Nguyễn Phú Trọng |
Ngày ban hành: | 29/06/2006 | Ngày hiệu lực: | 01/01/2007 |
Ngày công báo: | 05/11/2006 | Số công báo: | Từ số 5 đến số 6 |
Lĩnh vực: | Thương mại, Văn hóa - Xã hội | Tình trạng: |
Hết hiệu lực
01/01/2023 |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Luật Điện ảnh - Ngày 29/6/2006, Quốc hội đã thông qua Luật Điện ảnh số 62/2006/QH11. Theo đó, doanh nghiệp sản xuất phim, ngoài việc phải có các điều kiện thành lập theo quy định của Luật doanh nghiệp còn phải có Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh do Bộ Văn hoá - Thông tin cấp. Điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh bao gồm: Có vốn pháp định, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc là công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam... Việc hợp tác, liên doanh để sản xuất phim với tổ chức, cá nhân nước ngoài, việc cung cấp dịch vụ sản xuất phim cho tổ chức, cá nhân nước ngoài phải được Bộ Văn hóa - Thông tin cấp giấy phép. Hồ sơ đề nghị cấp giấy phép của doanh nghiệp sản xuất phim, doanh nghiệp dịch vụ sản xuất phim bao gồm: Đơn đề nghị cấp giấy phép, Kịch bản văn học bằng tiếng Việt và tiếng nước ngoài... Đối với phim đặt hàng sử dụng ngân sách nhà nước, chủ đầu tư dự án sản xuất phim phải tuyển chọn kịch bản văn học trên cơ sở ý kiến của hội đồng thẩm định kịch bản văn học và chọn doanh nghiệp sản xuất phim theo quy định của Luật đấu thầu. Hội đồng thẩm định kịch bản văn học do chủ đầu tư dự án sản xuất phim thành lập có trách nhiệm thẩm định kịch bản văn học để tư vấn cho chủ đầu tư... Tổ chức, cá nhân chỉ được bán, cho thuê phim nhựa, băng phim, đĩa phim đã có giấy phép phổ biến của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về điện ảnh hoặc đã có quyết định phát sóng của Tổng giám đốc Đài truyền hình Việt Nam, Giám đốc đài phát thanh - truyền hình cấp tỉnh, băng phim, đĩa phim phải được dán nhãn kiểm soát của Bộ Văn hoá - Thông tin... Doanh nghiệp phát hành phim, doanh nghiệp khác có đăng ký kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu phim phải có rạp chiếu phim để tham gia phổ biến phim. Doanh nghiệp sản xuất phim được kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu phim và mỗi năm số lượng phim nhập khẩu không được vượt quá hai lần số lượng phim do doanh nghiệp sản xuất... Hộ gia đình in sang, nhân bản, bán, cho thuê phim sử dụng thường xuyên mười lao động trở lên phải đăng ký thành lập doanh nghiệp. Hộ gia đình in sang, nhân bản, bán, cho thuê phim có quy mô nhỏ, sử dụng thường xuyên dưới mười lao động, thực hiện đăng ký kinh doanh và hoạt động... Luật Điện ảnh có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2007.
Từ ngày 01/01/2021, Luật này bị hết hiệu lực một phần bởi Luật Đầu tư năm 2020.
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
1. Thực hiện kinh doanh theo đúng nội dung đã đăng ký.
2. Hợp tác, liên doanh với tổ chức, cá nhân trong nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài để sản xuất phim; việc hợp tác, liên doanh với tổ chức, cá nhân nước ngoài để sản xuất phim phải thực hiện đúng nội dung giấy phép của Bộ Văn hóa – Thông tin.
3. Cung cấp dịch vụ sản xuất phim cho tổ chức, cá nhân trong nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài; việc cung cấp dịch vụ sản xuất phim cho tổ chức, cá nhân nước ngoài phải thực hiện đúng nội dung giấy phép của Bộ Văn hóa – Thông tin.
4. Nộp lưu chiểu, nộp lưu trữ phim.
1. Tổ chức thực hiện kinh doanh theo đúng nội dung đã đăng ký.
2. Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch sản xuất phim hằng năm.
3. Quản lý tổ chức, nhân sự và cơ sở vật chất, kỹ thuật của doanh nghiệp sản xuất phim.
4. Tuyển chọn kịch bản văn học.
5. Ký kết hợp đồng với tổ chức, cá nhân đặt hàng sản xuất phim, biên kịch, đạo diễn và các thành viên khác trong đoàn làm phim.
6. Đề nghị cấp giấy phép trước khi phổ biến phim.
7. Chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung phim.
8. Thực hiện quy định về quyền tác giả và quyền liên quan.
9. Thực hiện quyền và trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật.
1. Quyền và trách nhiệm của biên kịch, đạo diễn và các thành viên khác trong đoàn làm phim thực hiện theo nội dung hợp đồng với Giám đốc hoặc Tổng giám đốc doanh nghiệp sản xuất phim.
2. Hợp đồng giữa biên kịch, đạo diễn và các thành viên khác trong đoàn làm phim với Giám đốc hoặc Tổng giám đốc doanh nghiệp sản xuất phim được ký kết và thực hiện trên cơ sở thoả thuận và không trái với quy định của pháp luật.
1. Thực hiện kinh doanh theo đúng nội dung đã đăng ký.
2. Hợp tác, liên doanh với tổ chức, cá nhân trong nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài để cung cấp dịch vụ sản xuất phim.
3. Cung cấp dịch vụ sản xuất phim cho tổ chức, cá nhân trong nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài theo hợp đồng; việc cung cấp dịch vụ sản xuất phim cho tổ chức, cá nhân nước ngoài phải thực hiện đúng nội dung giấy phép của Bộ Văn hóa – Thông tin.
1. Tổ chức thực hiện kinh doanh theo đúng nội dung đã đăng ký.
2. Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch hằng năm.
3. Quản lý tổ chức, nhân sự và cơ sở vật chất, kỹ thuật của doanh nghiệp dịch vụ sản xuất phim.
4. Thực hiện quyền và trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật.
1. Việc hợp tác, liên doanh để sản xuất phim với tổ chức, cá nhân nước ngoài, việc cung cấp dịch vụ sản xuất phim cho tổ chức, cá nhân nước ngoài phải được Bộ Văn hóa - Thông tin cấp giấy phép.
2. Hồ sơ đề nghị cấp giấy phép của doanh nghiệp sản xuất phim, doanh nghiệp dịch vụ sản xuất phim bao gồm:
a) Đơn đề nghị cấp giấy phép;
b) Kịch bản văn học bằng tiếng Việt và tiếng nước ngoài.
3. Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Bộ Văn hóa - Thông tin có trách nhiệm cấp giấy phép; trường hợp không cấp giấy phép phải có văn bản nêu rõ lý do.
1. Tổ chức, cá nhân đặt hàng sản xuất phim là chủ đầu tư dự án sản xuất phim.
2. Chủ đầu tư dự án sản xuất phim đặt hàng theo kịch bản văn học của mình phải liên đới chịu trách nhiệm với Giám đốc hoặc Tổng giám đốc doanh nghiệp sản xuất phim về nội dung phim.
3. Đối với phim đặt hàng sử dụng ngân sách nhà nước, chủ đầu tư dự án sản xuất phim phải tuyển chọn kịch bản văn học trên cơ sở ý kiến của hội đồng thẩm định kịch bản văn học và chọn doanh nghiệp sản xuất phim theo quy định của Luật đấu thầu. Hội đồng thẩm định kịch bản văn học do chủ đầu tư dự án sản xuất phim thành lập có trách nhiệm thẩm định kịch bản văn học để tư vấn cho chủ đầu tư.
4. Chủ đầu tư dự án sản xuất phim có trách nhiệm cung cấp tài chính và thực hiện các điều khoản khác theo đúng hợp đồng với doanh nghiệp sản xuất phim.
5. Giám đốc hoặc Tổng giám đốc doanh nghiệp sản xuất phim phải thực hiện đúng hợp đồng với chủ đầu tư dự án sản xuất phim và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung phim.
Việc sản xuất phim truyền hình của Đài truyền hình Việt Nam, đài phát thanh - truyền hình tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là đài phát thanh - truyền hình cấp tỉnh) do Tổng giám đốc Đài truyền hình Việt Nam, Giám đốc đài phát thanh - truyền hình cấp tỉnh quyết định đầu tư và tổ chức sản xuất phim để phát sóng trên đài truyền hình của mình, phù hợp với quy định của pháp luật.
Article 18.- Rights and responsibilities of film production enterprises
1. To do business in accordance with the registered contents.
2. To cooperate and enter into joint ventures with domestic or foreign organizations and individuals to produce films; the cooperation and joint venture with foreign organizations or individuals shall strictly comply with the contents of licenses granted by the Ministry of Culture and Information.
3. To provide film production services for domestic and foreign organizations and individuals; the provision of film production services for foreign organizations and individuals shall strictly comply with the contents of licenses granted by the Ministry of Culture and Information.
4. To submit films for deposit and archive.
Article 19.- Rights and responsibilities of directors or general directors of film production enterprises
1. To organize business in accordance with the registered contents.
2. To draw up, and organize the implementation of, annual film production plans.
3. To manage the organization, personnel and material and technical facilities of their film production enterprises.
4. To select screenplays.
5. To sign contracts with organizations or individuals that order film production, and with screenwriters, directors and other members of film crews.
6. To apply for permits prior to the dissemination of films.
7. To be answerable before law for the contents of films.
8. To observe regulations on copyright and related rights.
9. To exercise other rights and perform other responsibilities as provided for by law.
Article 20.- Rights and responsibilities of screenwriters, directors and other members of film crews
1. The rights and responsibilities of screenwriters, directors and other members of film crews shall be performed under contracts signed with directors or general directors of film production enterprises.
2. Contracts between screenwriters, directors and other members of the film crews and directors or general directors of film production enterprises shall be signed and performed on the basis of mutual agreement and must not be contrary to law.
Article 21.- Rights and responsibilities of film production service enterprises
1. To do business in accordance with the registered contents.
2. To cooperate and enter into joint ventures with domestic or foreign organizations or individuals to provide film production services.
2. To provide film production services for domestic and foreign organizations and individuals under contracts; the provision of film production services for foreign organizations and individuals shall strictly comply with the contents of licenses granted by the Ministry of Culture and Information.
Article 22.- Rights and responsibilities of directors or general directors of film production service enterprises
1. To organize business in accordance with the registered contents.
2. To draw up and organize the implementation of annual plans.
3. To manage the organization, personnel and material and technical bases of film production service enterprises.
4. To exercise other rights and perform other responsibilities as provided for by law.
Article 23.- Grant of licenses for cooperation or joint venture in film production, or the provision of film production services for foreign organizations and individuals.
1. The cooperation and joint venture in film production with foreign organizations or individuals, and the provision of film production services for foreign organizations or individuals must be licensed by the Ministry of Culture and Information.
2. For film production enterprises and film production service enterprises, a dossier of application for a license comprises:
a/ An application for the license;
b/ The screenplay in Vietnamese and a foreign language.
3. Within thirty days after the date of receipt of complete and valid dossiers, the Ministry of Culture and Information shall grant the license in case of refusal, it shall reply in writing, clearly stating the reason therefor.
Article 24.- Production of ordered films
1. Organizations and individuals ordering film production are investors of film production projects.
2. Film production project investors ordering film production according to their screenplays shall bear joint responsibility with directors or general directors of film production enterprises for the film contents.
3. For films ordered and funded with the state budget, the film production project investors shall select screenplays on the basis of comments of the screenplay appraisal council and select film production enterprises in accordance with the Bidding Law. The screenplay appraisal councils set up by film production project investors shall appraise screenplays in order to give advice thereon to the investors.
4. Film production project investors shall provide funds and implement other provisions of contracts signed with film production enterprises.
5. Directors or general directors of film production enterprises shall properly perform contracts signed with film production project investors and shall take responsibility before law for the film contents.
Article 25.- Production of television films
The general director of Vietnam Television and directors of radio-television stations of provinces and centrally run cities (hereinafter referred to as provincial-level radio-television stations) shall decide on investment in, and organization of, film production for broadcasting on their respective television stations in accordance with law.
Tình trạng hiệu lực: Hết hiệu lực