Chương II Luật Đất đai 1993: Quản lý nhà nước về đất đai
Số hiệu: | 24-L/CTN | Loại văn bản: | Luật |
Nơi ban hành: | Quốc hội | Người ký: | Lê Đức Anh |
Ngày ban hành: | 14/07/1993 | Ngày hiệu lực: | 15/10/1993 |
Ngày công báo: | 30/11/1993 | Số công báo: | Số 22 |
Lĩnh vực: | Bất động sản, Tài nguyên - Môi trường | Tình trạng: |
Hết hiệu lực
01/07/2004 |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
Nội dung quản lý Nhà nước về đất đai bao gồm:
1- Điều tra, khảo sát, đo đạc, đánh giá và phân hạng đất, lập bản đồ địa chính;
2- Quy hoạch và kế hoạch hoá việc sử dụng đất;
3- Ban hành các văn bản pháp luật về quản lý, sử dụng đất và tổ chức thực hiện các văn bản đó;
4- Giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất;
5- Đăng ký đất đai, lập và quản lý sổ địa chính, quản lý các hợp đồng sử dụng đất, thống kê, kiểm kê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
6- Thanh tra việc chấp hành các chế độ, thể lệ về quản lý, sử dụng đất;
7- Giải quyết tranh chấp về đất đai; giải quyết khiếu nại, tố cáo các vi phạm trong việc quản lý và sử dụng đất đai.
1- Chính phủ chỉ đạo Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương điều tra, khảo sát, đo đạc, đánh giá và phân hạng đất.
2- Uỷ ban nhân dân chỉ đạo cơ quan quản lý đất đai trực thuộc và Uỷ ban nhân dân cấp dưới quản lý theo dõi sự biến động về diện tích, loại đất, người sử dụng đất, kịp thời chỉnh lý các tài liệu về đất đai cho phù hợp với hiện trạng sử dụng đất ở địa phương mình.
1- Chính phủ chỉ đạo và tổ chức việc lập bản đồ địa chính thống nhất trên phạm vi cả nước.
Cơ quan quản lý đất đai ở Trung ương ban hành quy trình kỹ thuật, quy phạm xây dựng bản đồ địa chính.
2- Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo và tổ chức việc lập bản đồ địa chính ở địa phương mình.
3- Bản đồ địa chính được lập theo đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn.
4- Bản đồ địa chính gốc được lưu giữ tại cơ quan quản lý đất đai ở Trung ương. Các bản sao được lưu giữ tại cơ quan quản lý đất đai tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn; bản sao có giá trị như bản gốc.
1- Chính phủ lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai trong cả nước.
2- Uỷ ban nhân dân các cấp lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trong địa phương mình trình Hội đồng nhân dân thông qua trước khi trình cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét duyệt.
3- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ căn cứ vào nhiệm vụ, quyền hạn của mình lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai do ngành, lĩnh vực mình phụ trách để trình Chính phủ xét duyệt.
4- Cơ quan quản lý đất đai ở Trung ương và địa phương phối hợp với các cơ quan hữu quan giúp Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai.
1- Nội dung quy hoạch sử dụng đất đai bao gồm:
a) Khoanh định các loại đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất khu dân cư nông thôn, đất đô thị, đất chuyên dùng, đất chưa sử dụng của từng địa phương và cả nước;
b) Điều chỉnh việc khoanh định nói trên cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương và trong phạm vi cả nước.
2- Nội dung kế hoạch sử dụng đất đai bao gồm:
a) Khoanh định việc sử dụng từng loại đất trong từng thời kỳ kế hoạch;
b) Điều chỉnh kế hoạch sử dụng đất đai cho phù hợp với quy hoạch.
Thẩm quyền xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai:
1- Quốc hội quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai trong phạm vi cả nước.
2- Chính phủ xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
3- Uỷ ban nhân dân cấp trên xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai của Uỷ ban nhân dân cấp dưới trực tiếp.
4- Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai nào thì có quyền cho phép bổ sung điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch đó.
Nhà nước giao đất cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài.
Thời hạn giao đất sử dụng ổn định lâu dài để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thuỷ sản là 20 năm, để trồng cây lâu năm là 50 năm. Khi hết thời hạn, nếu người sử dụng đất có nhu cầu tiếp tục sử dụng và trong quá trình sử dụng đất chấp hành đúng pháp luật về đất đai thì được Nhà nước giao đất đó để tiếp tục sử dụng.
Nhà nước giao đất sử dụng lâu dài cho hộ gia đình, cá nhân để làm nhà ở và chỉ thu hồi trong các trường hợp quy định tại Điều 26 và Điều 27 của Luật này.
Thời hạn giao đất sử dụng ổn định lâu dài đối với các loại đất khác do Chính phủ quy định.
Việc quyết định giao đất đang có người sử dụng cho người khác chỉ được tiến hành sau khi có quyết định thu hồi đất đó.
Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao đất để sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản và làm muối không phải trả tiền sử dụng đất; nếu được Nhà nước giao đất để sử dụng vào mục đích khác thì phải trả tiền sử dụng đất, trừ các trường hợp được miễn, giảm theo quy định của Chính phủ.
Thẩm quyền giao đất để sử dụng vào mục đích không phải là sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp được quy định như sau:
1- Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua kế hoạch hàng năm của Chính phủ về việc giao đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp có rừng để sử dụng vào mục đích khác.
2- Chính phủ xét duyệt kế hoạch hàng năm của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương về việc giao đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp có rừng để sử dụng vào mục đích khác.
Căn cứ vào quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai đã được Quốc hội quyết định và kế hoạch hàng năm về việc giao đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp có rừng để sử dụng vào mục đích khác đã được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua, Chính phủ quyết định việc giao đất để sử dụng vào mọi mục đích trong những trường hợp cần thiết.
3- Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định giao đất để sử dụng vào mục đích không phải là sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp theo quy định sau đây:
a) Từ 1 ha trở xuống đối với đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp có rừng, đất khu dân cư nông thôn, đất đô thị và từ 2 ha trở xuống đối với đất trống, đồi núi trọc cho mỗi công trình không thuộc các trường hợp quy định tại mục b khoản 3 Điều này;
b) Từ 3 ha trở xuống đối với đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp có rừng, đất khu dân cư nông thôn, đất đô thị; từ 5 ha trở xuống đối với đất trống, đồi núi trọc cho mỗi công trình đường bộ, đường sắt, đường dẫn nước, đường dẫn dầu, đường dẫn khí, đường điện, đê điều và từ 10 ha trở xuống đối với đất trống, đồi núi trọc cho mỗi công trình xây dựng hồ chứa nước;
c) Giao đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp có rừng để hộ gia đình, cá nhân làm nhà ở; đất chuyên dùng này để sử dụng vào mục đích chuyên dùng khác hoặc để làm nhà ở; đất đô thị theo định mức do Chính phủ quy định;
d) Kế hoạch giao đất khu dân cư nông thôn để Uỷ ban nhân dân huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giao đất cho hộ gia đình, cá nhân làm nhà ở.
Nhà nước thu hồi toàn bộ hoặc một phần đất đã giao sử dụng trong những trường hợp sau đây:
1- Tổ chức sử dụng đất bị giải thể, phá sản, chuyển đi nơi khác, giảm nhu cầu sử dụng đất mà không thuộc các trường hợp quy định tại Điều 30 của Luật này; cá nhân sử dụng đất đã chết mà không có người được quyền tiếp tục sử dụng đất đó;
2- Người sử dụng đất tự nguyện trả lại đất được giao;
3- Đất không được sử dụng trong thời hạn 12 tháng liền mà không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định giao đất đó cho phép;
4- Người sử dụng đất cố ý không thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước;
5- Đất sử dụng không đúng mục đích được giao;
6- Đất được giao không theo đúng thẩm quyền quy định tại Điều 23 và Điều 24 của Luật này.
Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định giao đất nào thì có quyền thu hồi đất đó.
Việc thu hồi đất để chuyển sang mục đích khác phải theo đúng quy hoạch và kế hoạch đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét duyệt.
Trước khi thu hồi đất phải thông báo cho người đang sử dụng biết về lý do thu hồi, thời gian, kế hoạch di chuyển, phương án đền bù thiệt hại.
Trong trường hợp có nhu cầu khẩn cấp của chiến tranh, chống thiên tai hoặc trong tình trạng khẩn cấp, thì việc trưng dụng đất do Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trở lên quyết định. Hết thời hạn trưng dụng, người sử dụng đất được trả lại đất và được đền bù thiệt hại do việc trưng dụng gây ra theo quy định của pháp luật.
Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện việc cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân thuê đất để sản xuất, kinh doanh theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật.
Không được chuyển quyền sử dụng đất trong những trường hợp sau đây:
1- Đất sử dụng không có giấy tờ hợp pháp;
2- Đất giao cho các tổ chức mà pháp luật quy định không được chuyển
quyền sử dụng;
3- Đất đang có tranh chấp.
1- Thủ tục chuyển đổi quyền sử dụng đất ở nông thôn làm tại Uỷ ban nhân dân xã; ở đô thị làm tại Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
2- Thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở nông thôn làm tại Uỷ ban nhân dân huyện; ở đô thị làm tại Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Cơ quan quản lý đất đai ở Trung ương; cơ quan quản lý đất đai ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và cán bộ địa chính xã, phường, thị trấn căn cứ vào quyền hạn, nhiệm vụ quy định tại Luật này trình Chính phủ, Uỷ ban nhân dân cùng cấp quyết định việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất.
1- Khi được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giao đất, cho phép thay đổi mục đích sử dụng đất hoặc đang sử dụng đất mà chưa đăng ký thì người sử dụng đất phải đăng ký tại cơ quan Nhà nước quy định tại khoản 2 Điều này.
Người đang sử dụng đất tại xã, phường, thị trấn nào thì phải đăng ký tại xã, phường, thị trấn đó.
2- Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn lập và quản lý sổ địa chính, đăng ký vào sổ địa chính đất chưa sử dụng và sự biến động về việc sử dụng đất.
Việc thống kê, kiểm kê đất đai được thực hiện theo các quy định sau đây:
1- Đơn vị thống kê, kiểm kê đất đai là đơn vị lập sổ địa chính quy định tại khoản 2 Điều 33 của Luật này;
2- Việc thống kê đất đai được tiến hành một năm một lần;
3- Việc kiểm kê đất đai được tiến hành năm năm một lần;
4- Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm tổ chức thực hiện việc thống kê, kiểm kê đất đai của địa phương mình;
5- Cơ quan quản lý đất đai có trách nhiệm báo cáo kết quả thống kê, kiểm kê đất đai lên cơ quan quản lý đất đai cấp trên trực tiếp.
Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được thực hiện theo các quy định sau đây:
1- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do cơ quan quản lý đất đai ở Trung ương phát hành;
2- Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định giao đất thì cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trong trường hợp Chính phủ quyết định giao đất thì Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
3- Trong trường hợp thửa đất có nhiều cá nhân không cùng một hộ gia đình hoặc không cùng một tổ chức sử dụng, thì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp đến từng tổ chức, từng hộ gia đình, từng cá nhân.
1- Chính phủ tổ chức việc thanh tra đất đai trong cả nước, Uỷ ban nhân dân các cấp tổ chức việc thanh tra đất đai trong địa phương mình.
Cơ quan quản lý đất đai ở Trung ương giúp Chính phủ; cơ quan quản lý đất đai ở địa phương giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp trong việc thực hiện thanh tra đất đai.
2- Nội dung thanh tra đất đai bao gồm:
a) Thanh tra việc quản lý Nhà nước về đất đai của Uỷ ban nhân dân các cấp;
b) Thanh tra việc chấp hành pháp luật đất đai của người sử dụng đất và của các tổ chức, cá nhân khác;
c) Giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật đất đai.
3- Khi tiến hành thanh tra đất đai, Đoàn thanh tra, thanh tra viên có quyền:
a) Yêu cầu tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có liên quan cung cấp tài liệu cần thiết cho việc thanh tra;
b) Quyết định tạm thời đình chỉ việc sử dụng phần đất không đúng pháp luật và chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định đó, đồng thời báo cáo ngay với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định xử lý;
c) Xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xử lý các vi phạm về quản lý và sử dụng đất đai.
1- Nhà nước khuyến khích việc hoà giải các tranh chấp đất đai trong nhân dân.
Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn có trách nhiệm phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Nông dân, các tổ chức thành viên khác của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác, tổ chức kinh tế ở cơ sở và công dân hoà giải các tranh chấp đất đai.
2- Các tranh chấp về quyền sử dụng đất mà người sử dụng đất không có giấy chứng nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thì do Uỷ ban nhân dân giải quyết theo quy định sau đây:
a) Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giải quyết các tranh chấp giữa cá nhân, hộ gia đình với nhau, giữa cá nhân, hộ gia đình với tổ chức, giữa tổ chức với tổ chức nếu các tổ chức đó thuộc quyền quản lý của mình;
b) Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương giải quyết các tranh chấp giữa tổ chức với tổ chức, giữa tổ chức với hộ gia đình, cá nhân nếu tổ chức đó thuộc quyền quản lý của mình hoặc của Trung ương;
c) Trong trường hợp không đồng ý với quyết định của Uỷ ban nhân dân đã giải quyết tranh chấp, đương sự có quyền khiếu nại lên cơ quan hành chính Nhà nước cấp trên. Quyết định của cơ quan hành chính Nhà nước cấp trên trực tiếp có hiệu lực thi hành.
3- Các tranh chấp về quyền sử dụng đất mà người sử dụng đất đã có giấy chứng nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và tranh chấp về tài sản gắn liền với việc sử dụng đất đó thì do Toà án giải quyết.
Các tranh chấp về quyền sử dụng đất có liên quan đến địa giới giữa các đơn vị hành chính, do Uỷ ban nhân dân các đơn vị đó cùng phối hợp giải quyết. Trong trường hợp không đạt được sự nhất trí hoặc việc tự giải quyết làm thay đổi địa giới hành chính, thì thẩm quyền giải quyết được quy định như sau:
1- Nếu việc tranh chấp liên quan đến địa giới của đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh, thì do Chính phủ quyết định;
2- Nếu việc tranh chấp liên quan đến địa giới của đơn vị hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thì do Quốc hội quyết định.
Cơ quan quản lý đất đai ở Trung ương giúp Chính phủ, cơ quan quản lý đất đai ở địa phương giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp giải quyết tranh chấp đất đai.
Cơ quan quản lý đất đai được thành lập ở Trung ương, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; ở xã, phường, thị trấn có cán bộ địa chính.
Cơ quan quản lý đất đai cấp nào thì trực thuộc cơ quan hành chính Nhà nước cấp đó; cán bộ địa chính xã, phường, thị trấn thuộc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn.
State administration of land use shall include:
1. Investigation, survey, measure, assessment and classification of land, and drawing of land maps;
2. Zoning of land and planning for its use;
3. Promulgation of rules and regulations for land administration and use, and organization of the implementation of these rules and regulation;
4. Allocation, rental and recovery of land;
5. Land registration, establishing and maintaining land registers,
management of land use contracts, recording land statistics and inventories of land, and granting certificates of rights to use land;
6. Inspection to ensure compliance with rules and regulations on land administration and land use;
7. Resolution of land disputes and complaints, and denouncement of breaches of provisions on land administration and land use.
1. The Government shall provide necessary guidance to the people's committees of the provinces and cities under central authority in their investigation, survey, measure, assessment and classification of land.
2. The higher people's committees shall provide necessary guidance to land administration bodies and the immediately subordinate people's committees on the monitoring of changes in land areas, categories of land, and land users, and the timely adjustment of land records so that they are in accordance with the actual use of land within their localities.
1. The Government shall provide necessary guidance and organize the preparation of land maps nationally.
Land administration bodies at central level shall promulgate technical regulations and standards for the preparation of land maps.
2. The people's committees of provinces and cities under central authority shall provide necessary guidance and organize the preparation of land maps in their localities.
3. The original land maps shall be kept at the central land administration body, and copies of these shall be kept at the land administration offices of the provinces and cities under central authority, in districts, towns and cities of provinces, and at people's committees of communes, precincts, and wards. All copies shall be as equally valid as the original ones.
1. The Government shall be in charge of national zoning and land use planning.
2. The people's committees at all levels shall be responsible for zoning and planning the use of land within their respective local areas, and shall submit these to the people's councils for approval, prior to their submission to an authorized State body for approval.
3. Ministries, bodies at ministerial level, and Government bodies shall, on the basis of their respective duties and powers, be responsible for zoning and planning the use of land within their jurisdiction, and shall submit these to the Government for approval.
4. Land administration bodies at central and local levels shall, in conjunction with the relevant bodies, assist the Government and the people's committees at all levels in zoning and land use planning.
1. Land use zoning shall include:
(a) Zoning different categories of land such as farm land, forestry land, residential land, urban land, specialized land, and unused land for each different locality and nationally;
(b) Adjustment of the above mentioned zoning so that it is in accordance with each phase of social and economic development for each locality and nationally.
2. Land use planning shall include:
(a) Zoning the use of each category of land in each planning period.
(b) Adjusting the plans for land use so that they may be appropriate to the zones.
Authority to approve and examine zoning and land use planning;
1. The National Assembly shall approve national zoning and land planning.
2. The Government shall examine and approve the zoning and land use planning by Ministries, bodies at ministerial level, Government bodies, and people's committees of the provinces and cities under central authority.
3. The people's committees at each level shall examine and approve the zoning and land use planning by the immediately subordinate people's committees.
4. An authorised State body shall be permitted to amend any zoning or planning approved by it.
All decisions regarding the allocation of land shall be subject to the following requirements:
1. They must be made in accordance with the zoning or land use planning approved by authorised State bodies;
2. They must accord with the demand for land use stated in the feasibility study and in the original scheme approved by authorised State bodies, or in the application for land allocation.
The State shall allocate land to organizations, households, and individuals for use on a stable and long term basis.
The duration of land allocation for use on a stable and long-term basis for planning annual trees and for aquaculture shall be twenty (20) years, and fifty (50) years for perennial trees. At the expiry of the duration, if the land user wishes to continue using the land the State shall comply with that wish, provided that the land user has strictly observed all laws relating to land during his period of occupancy.
The State shall allocate land to households and individuals for long-term use for the purpose of building residential houses, and shall only recover the land from them in circumstances stated in Articles 26 and 27 of this Law.
The duration of the allocation of land in other categories for long term and stable use shall be stipulated by the Government.
Any decision in respect of the allocation to another user of land which is currently in use shall not be made until a decision on the recovery of that land has been issued.
Organizations and households which, and individuals who were allocated with land for use in agriculture, forestry, aquaculture, and salt production shall not have to pay rent for that land. Payment of rent shall be required if land is allocated for other uses except where there is a reduction in or an exemption from rent as stipulated by the Government.
The authority to allocate land for use other than in agriculture and forestry shall be stipulated as follows:
1. The Standing Committee of the National Assembly shall approve the annual plans submitted by the Government for the allocation of farm and forest land to other uses.
2. The Government shall examine and approve the annual plans submitted by the people's committees of the provinces and cities under central authority in respect of the allocation of farm land and forest land to other uses.
Where necessary, the Government shall approve the allocation of land for all other purposes in accordance with the overall zoning and land use planting approved by the National Assembly and the annual plans for changes in the purpose of the use of farm land and forest land as approved by the Standing Committee of the National Assembly.
3. The people's committees of the provinces and cities under central authority shall decide the allocation of land for uses other than agricultural production and forestry subject to the following limits:
(a) In respect of projects which are not referred to in point (b) of clause 3 of this article; up to one hectare of farm land, forest land, land for residential areas, or urban land, and up to two hectares of waste land or bare hills and mountains;
(b) In respect of projects dealing with the construction of roads, railways, water, oil, and gas pipelines, power lines, and dykes; up to three hectares of farm land, forest land, land for residental areas, or urban land, and up to five hectares of waste land and bare hills and mountains; and in respect of projects dealing with the construction of dams up to ten (10) hectares of waste land or bare hills and mountains;
(c) The allocation of farm land and forest land to households and individuals for the purpose of building houses; the allocation of specialized land for use for another specialized purpose or for housing construction; and the allocation of urban land shall be in accordance with the limit stipulated by the Government;
(d) The plan for allocation of rural residential land to households and individuals for housing construction shall be carried out by the people's committees of provincial districts, district capitals and provincial cities.
The authority to allocate land for use in agriculture and forestry shall be as follows:
1. The people's committees of provinces and cities under central authority shall allocate land to organizations;
2. The people's committees of urban districts, district capitals and provincial cities shall allocate land to households and individuals.
The State bodies with authority to allocate land as stated in Articles 23 and 24 of this Law shall be prohibited from delegating this authority to their subordinate bodies.
Possession of the whole or part of any land which has been allocated to a land user shall revert to the State in the following cases:
1. Where the organization which has been allocated land dissolves, becomes bankrupt, moves elsewhere, or reduces its requirements for land in circumstances not referred to in Article 30 of this Law. Where the individual who has been allocated land has died and there is no successor who has the right to continue using the land.
2. Where the land user voluntarily gives up the right to possession of the land allocated.
3. Where the land user leaves the land unused for twelve (12) consecutive months without the authorization of the competent State body which allocated the land.
4. Where the land user does not have the intention to carry out its obligations to the State.
5. Where the land is used for a purpose other than for which it was allocated.
6. Where the land has been allocated beyond the authority of the relevant body as stated in Articles 23 and 24 of this Law.
Where necessary, the State shall, for the purposes of national defence, security, national or public interest, recover profession of land which is currently being used. In such cases the land user shall be entitled to payment of compensation in respect of the recovery of possession by the State.
Any State body which is authorized to determine the allocation of specified land shall also be authorized to regain possession of that land from its user.
Where the land is recovered for other uses, the purposes must be in accordance with the zoning and planning approved by the competent State bodies.
Prior to recovery of possession of the land, the land user shall be notified of the reasons for which the land is to be recovered; the time; the plan for transfer; and the methods of compensation.
In the event that an urgent need arises as a result of war or natural disasters, or during a state of emergency, the recovered of possession of land shall be determined by the people's committees at the level of, or superior to those of, districts, provincial districts, provincial capitals or provincial cities. At the end of the period for which possession of the land is recovered, the land shall be returned to its former user and compensation shall be paid for any losses incurred as a result of the recovery of possession in accordance with the provisions of the law.
The Government and people's committees at all levels shall allocate land for rental to organizations, households, and individuals for production and business purposes in accordance with the provisions of this Law and other laws.
The transfer of the right to use land shall be prohibited in the following cases:
1. Where the land is used without any legal documents.
2. Where the land is allocated to organizations which are prohibited from exercising the right to use land, as stipulated by the law.
3. Where the land is the subject of a dispute.
1. Transfer of the right to use land shall, in the case of rural areas, be determined by the people's committees of the village and, in the case of urban areas, by the people's committees of provincial districts, provincial capitals and provincial cities.
2. Transfer of the right to use land shall, in the case of rural areas, be determined by the people's committees of districts and, in the case of urban areas, by the people's committees of provinces and cities under central authority.
Land administration bodies at central level, of provinces and cities under the central authority, of district, provincial districts, provincial capitals, and provincial cities and cadastral officials of villages, wards and townships shall, on the basis of the powers and duties stipulated in this Law, submit proposals to the Government and people's committees of an equivalent level for decisions on the allocation, rental, and recovery of land.
1. After an authorized State body has allocated land, or has authorized any change in the propose of land use, or where land currently in use has not been registered, the land user must apply for registration of the land with the State bodies referred to in clause 2 of this article.
The land user must also register at the village, ward or township in which his land is located.
2. The people's committees of villages, wards, and townships shall establish and maintain land registers, recording any unused land or changes in respect of land use.
The land register shall be established in accordance with the sample forms of the central land administration body.
The land register shall be in accordance with the land maps and the current land use.
Statistics and inventories, in relation to the qualitative and quantitative aspects of land shall be maintained as follows:
1. The body responsible for obtaining statistics and inventories, in relation to the qualitative and quantitative aspects of land shall be the body which establishes the land registered as stipulated in clause 2 of Article 33 of this Law.
2. The statistics regarding land shall be yearly.
3. The inventories of land shall be on a five- year basis.
4. People's Committees at all levels shall be responsible for organizing and carrying out the collection of land statistics and the inventorying of land within their localities.
5. Land administration bodies shall be responsible for reporting the statistics in relation to the quantitative and qualitative aspects of land to an immediately superior land administration body.
The issuing of certificates of the right to use land shall be as follows:
1. The certificate of the right to use land shall be issued by a land administration body under central authority.
2. State bodies which are authorised to allocate land shall also have the authority to issue certificates of the right to use land. In cases where the Government decides the allocation of land, the people's committees of the provinces and cities under central authority shall issue certificates of the right to use land.
3. Where a parcel of land is used by individuals who are not from the same household or organization, a certificate of the right to use land shall be issued to each organization, household and individual.
1. The Government and the people's committees at al levels shall conduct land inspections within the areas under their respective authority.
Land administration bodies at central and local levels shall assist the Government and the people's committees at the equivalent levels conducting land inspections.
2. Land inspections shall include the following:
(a) Inspection of the State administration of land carried out by the people's committees at all levels;
(b) Inspection of the observance of the Land Law by land users, and other organizations and individuals;
(c) Resolution of complaints and denouncements of breaches of the Land Law.
3. While conducting land inspections, the inspection team or individual inspectors shall be authorized to:
(a) Request that the relevant organizations, households, and individuals supply necessary documents for the purposes of inspection;
(b) Suspend temporarily the use of any land or part thereof which is unlawful and take responsibility before the law in respect of this decision, and at the same time report immediately to a State body which is authorized to deal with the matter;
(c) Deal with breaches of provisions on land administration and land use in accordance with the delegated powers, or petition authorized State bodies to resolve the same.
1. The State shall encourage the resolution of all land disputes through conciliation.
The people's committees of villages, wards and townships shall coordinate with the Fatherland Front of Vietnam and its member organizations, the Peasants' Association, social and economic organizations, and all citizens, to resolve land disputes through concilitation.
2. All disputes regarding land use rights (where the land user does not have a certificate issued by an authorized State body) shall be resolved by the people's committees in accordance with the following provisions:
(a) The people's committees of districts, provincial districts and provincial cities shall resolve disputes between individuals and households, between individuals or households and organizations, and between organizations under their authority;
(b) The people's committees of the provinces and cities under central authority shall resolve disputes between organizations, or between organizations and households or individuals which are under their own authority or under central authority;
(c) Where any party disagrees with the decision of the People's Committees, it may appeal to higher State administration bodies. The decision at the higher State administration body level shall be final.
3. Disputes in relation to land use rights (where land users have a certificate granted by the authorized State body), and in relation to structures which are closely connected to the use of that land shall be resolved by a court of law.
Disputes between administrative units in relation to land use rights (in respect of boundaries) shall be resolved jointly by the people's committees and the administrative units concerned. In the event that a unanimous decision cannot be reached, or the decision leads to a change of the land boundaries of the administrative units, the determination of the dispute shall be as follows:
1. Where the land dispute relates to the land boundaries of an administrative unit under provincial authority, the dispute shall be decided by the Government.
2. Where the land dispute relates to the land boundaries of an administrative unit of provinces and cities under central authority, the dispute shall be resolved by the National Assembly.
Land administration bodies at central and local levels shall assist the Government and people's committees at the equivalent level respectively in resolving land disputes.
Land administration bodies shall be established at central level, in provinces and cities under central authority, in districts, provincial districts, provincial capitals and provincial cities, and in villages, wards and townships which have land officials.
Land administration bodies at each level shall be under the authority of the State administrative body at the equivalent level. The land officials of villages, wards and townships shall be under the authority of the people's committees at the equivalent level.
Tình trạng hiệu lực: Hết hiệu lực