Chương 4 Nghị định 64/2002/NĐ-CP: Chính sách đối với doanh nghiệp và người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hóa
Số hiệu: | 64/2002/NĐ-CP | Loại văn bản: | Nghị định |
Nơi ban hành: | Chính phủ | Người ký: | Phan Văn Khải |
Ngày ban hành: | 19/06/2002 | Ngày hiệu lực: | 04/07/2002 |
Ngày công báo: | 20/07/2002 | Số công báo: | Số 34 |
Lĩnh vực: | Doanh nghiệp | Tình trạng: |
Hết hiệu lực
12/12/2004 |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
1. Được hưởng ưu đãi về thuế theo quy định của Luật Khuyến khích đầu tư trong nước như đối với doanh nghiệp thành lập mới mà không cần phải làm thủ tục cấp chứng nhận ưu đãi đầu tư.
2. Được miễn lệ phí trước bạ đối với việc chuyển những tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng của doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa thành sở hữu của Công ty cổ phần.
3. Được tiếp tục kinh doanh những ngành nghề đã đăng ký và miễn lệ phí cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh khi chuyển từ doanh nghiệp nhà nước thành Công ty cổ phần.
4. Được duy trì các hợp đồng thuê nhà cửa, vật kiến trúc của các cơ quan nhà nước và doanh nghiệp khác hoặc được ưu tiên mua lại theo giá thị trường tại thời điểm cổ phần hoá để ổn định hoạt động sản xuất, kinh doanh.
5. Được hưởng các quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai trong trường hợp giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa đã bao gồm cả giá trị quyền sử dụng đất.
6. Được tiếp tục vay vốn tại Ngân hàng thương mại, Công ty tài chính, các tổ chức tín dụng khác của Nhà nước theo cơ chế và lãi suất như đối với doanh nghiệp nhà nước.
7. Được duy trì và phát triển quỹ phúc lợi dưới dạng hiện vật như: các công trình văn hóa, câu lạc bộ, bệnh xá, nhà điều dưỡng, nhà trẻ để bảo đảm phúc lợi cho người lao động trong Công ty cổ phần. Những tài sản này thuộc sở hữu của tập thể người lao động do Công ty cổ phần quản lý với sự tham gia của tổ chức Công đoàn.
8. Được trừ vào tiền bán cổ phần thuộc vốn nhà nước các khoản chi phí thực tế, hợp lý và cần thiết cho quá trình chuyển doanh nghiệp nhà nước thành Công ty cổ phần (bao gồm cả phí thuê tư vấn, định giá) theo mức quy định của Bộ Tài chính; trường hợp cổ phần hóa theo hình thức quy định tại khoản 1 Điều 3 Nghị định này thì được trừ vào vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp.
1. Người lao động có tên trong danh sách thường xuyên của doanh nghiệp cổ phần hoá tại thời điểm quyết định cổ phần hoá được Nhà nước bán tối đa 10 cổ phần cho mỗi năm đã làm việc thực tế tại khu vực nhà nước với giá giảm 30% so với mệnh giá ban đầu. Trị giá một cổ phần là 100.000 đồng.
Trường hợp cổ phần hoá theo hình thức quy định tại khoản 1 Điều 3 Nghị định này thì giá trị ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp được trừ vào phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp.
Tổng giá trị ưu đãi, kể cả giá trị ưu đãi cho người sản xuất và cung cấp nguyên liệu không vượt quá giá trị phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp sau khi đã trừ giá trị cổ phần Nhà nước nắm giữ.
Người lao động sở hữu số cổ phần được mua theo giá ưu đãi có quyền để thừa kế và các quyền khác của cổ đông theo quy định của pháp luật và Điều lệ tổ chức, hoạt động của Công ty cổ phần. Cổ phiếu của loại cổ phần này là cổ phiếu ghi tên và chỉ được chuyển nhượng sau 3 năm kể từ khi mua. Trường hợp đặc biệt cần chuyển nhượng số cổ phần này trước thời hạn trên thì phải được Hội đồng quản trị Công ty chấp thuận. Công ty cổ phần ưu tiên mua lại theo giá thị trường tại thời điểm bán.
2. Người lao động nghèo trong doanh nghiệp cổ phần hoá được mua chịu cổ phần theo giá ưu đãi, được hoãn trả trong 3 năm đầu và trả dần tối đa trong 7 năm tiếp theo không phải chịu lãi suất. Số cổ phần mua trả dần dành cho người lao động nghèo không quá 20% tổng số cổ phần Nhà nước bán theo giá ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp. Cổ phiếu của loại cổ phần này là cổ phiếu ghi tên. Người sở hữu cổ phần này chỉ được chuyển nhượng sau 3 năm kể từ khi mua và đã trả hết nợ cho Nhà nước.
3. Người lao động chuyển sang làm việc tại Công ty cổ phần được tiếp tục tham gia và hưởng quyền lợi về bảo hiểm xã hội theo quy định hiện hành.
4. Người lao động đã có đủ điều kiện để hưởng chế độ hưu trí tại thời điểm cổ phần hóa được giải quyết quyền lợi theo chế độ hiện hành.
5. Người lao động mất việc, thôi việc tại thời điểm cổ phần hóa được thanh toán trợ cấp mất việc, thôi việc theo quy định của pháp luật.
6. Sau khi doanh nghiệp nhà nước chuyển thành Công ty cổ phần, nếu do nhu cầu tổ chức lại hoạt động kinh doanh, thay đổi công nghệ dẫn đến người lao động ở doanh nghiệp nhà nước chuyển sang bị mất việc hoặc thôi việc, kể cả trường hợp người lao động tự nguyện thôi việc, thì được giải quyết như sau:
a) Trong 12 tháng kể từ ngày Công ty cổ phần được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, nếu người lao động bị mất việc do cơ cấu lại thuộc đối tượng hưởng chính sách đối với lao động dôi dư do sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước theo Nghị định số 41/2002/NĐ-CP ngày 11 tháng 4 năm 2002 của Chính phủ thì được Quỹ hỗ trợ lao động dôi dư hỗ trợ.
Các đối tượng lao động mất việc, thôi việc còn lại thì được hưởng trợ cấp mất việc, thôi việc theo quy định của pháp luật lao động hiện hành và được Quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước hỗ trợ.
b) Trường hợp người lao động bị mất việc, thôi việc trong 4 năm tiếp theo thì Công ty cổ phần có trách nhiệm thanh toán 50% tổng mức trợ cấp theo quy định của Bộ Luật Lao động, số còn lại được Quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước thanh toán. Hết thời hạn trên, Công ty cổ phần chịu trách nhiệm thanh toán toàn bộ trợ cấp cho người lao động.
7. Đối với số lao động dôi dư tại thời điểm cổ phần hoá cần được đào tạo, đào tạo lại để bố trí việc làm mới trong Công ty cổ phần thì Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí cho Công ty cổ phần để tổ chức đào tạo, đào tạo lại từ Quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước theo hướng dẫn của Bộ Tài chính.
POLICIES TOWARDS EQUITIZED ENTERPRISES AND LABORERS THEREIN
Article 26.- Policies towards equitized enterprises
1. They shall enjoy tax preferences under the Domestic Investment Promotion Law like newly-established enterprises, without having to carry out the procedures for being granted the investment preference certificates.
2. They shall be exempt from registration fee for the transfer of assets under their management and use to the joint-stock companies ownership.
3. They shall be allowed to continue dealing in the already registered business lines and be exempt from the fee for being granted the business registration certificates when they are transformed into joint-stock companies.
4. They shall be allowed to maintain the contracts for renting houses and/or architectural objects of State agencies and other enterprises or be given priority to re-purchase them at the market prices at the time of equitization in order to stabilize their production and/or business activities.
5. They shall enjoy the land use rights under the provisions of the Land Law in cases where their value already includes the land use right value.
6. They shall be allowed to continue borrowing capital from commercial banks, financial companies and other credit institutions of the State under the mechanisms and at the interest rates applicable to State enterprises.
7. They shall be allowed to maintain and develop welfare funds in kind, such as cultural facilities, clubs, health stations, sanatoriums and creches, so as to ensure welfare for the laborers in the joint-stock companies. These assets shall come under the laborers collective ownership and be managed by the joint-stock companies with the participation of the trade union organizations.
8. They shall be allowed to deduct from the proceeds from the sale of shares belonging to the State capital the actual, reasonable and necessary expenses for the process of transformation into joint-stock companies (including the expenses for hiring consultants and for valuation) at the levels set by the Finance Ministry. Where they are equitized in the form prescribed in Clause 1, Article 3 of this Decree, such expenses shall be deducted into the State capital amounts available at the enterprises.
Article 27.- Policies towards laborers in equitized enterprises
1. Laborers named on the regular lists of the equitized enterprises at the time the equitization is decided shall be sold by the State 10 shares at most for each year they have actually worked in the State sector with a 30% discount from the original face value of such shares. The value of each share is VND 100,000.
Where the equitization is effected in the form prescribed in Clause 1, Article 3 of this Decree, the preferential value granted to the laborers in the enterprises shall be deducted into the existing State capital portions at the enterprises.
The total preferential value, including the preferential value granted to the raw-material producers and suppliers, shall not exceed the value of the State capital portions at the enterprises, after subtracting the value of shares held by the State.
The laborers who own the shares bought at preferential prices shall be entitled to bequeath them and enjoy other rights of shareholders under the provisions of law and the joint-stock companies� organization and operation charters. Share certificates of this type of shares shall be the registered ones and can be transferred only 3 years after their purchase. In special cases where it is necessary to transfer such shares ahead of the aforesaid time limit, the consent of the companies� managing boards must be obtained. The joint-stock companies shall be given priority to re-purchase them at the market prices at the time of sale.
2. Poor laborers in the equitized enterprises shall be allowed to buy shares on credit at preferential prices, shall be granted a grace period of the first three years before making interest-free installment payments within seven subsequent years. The number of shares purchased on installment payments reserved for poor laborers must not exceed 20% of the total number of the State�s shares sold at preferential prices to laborers in the enterprises. The share certificates of this type of shares shall be registered ones. The owners of these shares can transfer them only three years after they have purchased them and paid up all debts to the State.
3. The laborers who have been transferred to work at the joint-stock companies shall be allowed to continue participating in social insurance and enjoying interests therefrom under current regulations.
4. The laborers eligible for retirement at the time of equitization shall have their interests settled according to current regulations.
5. The laborers who have lost or terminated there jobs at the time of equitization shall be paid job-loss or severance allowances according to law provisions.
6. After the State enterprises have been transformed into joint-stock companies, if due to the needs to reorganize business activities and/or renew technologies, which leads to the situation that the laborers who have been transferred from the State enterprises lose or terminate their jobs, including cases where they terminate their jobs voluntarily, they shall be settled as follows:
a/ Within 12 months as from the date the joint-stock companies are granted the business registration certificates, if the laborers who lose their jobs as a result of the restructuring fall into the subjects enjoying the policy towards laborers who are left redundant as a result of the re-arrangement of State enterprises under the Government�s Decree No. 41/2002/ND-CP of April 11, 2002, they shall be supported from the fund for support of redundant laborers.
The other laborers who also lose or terminate their jobs shall enjoy the job loss or severance allowances under the current provisions of the labor legislation and shall be supported by the fund for support of the arrangement and equitization of State enterprises.
b/ Where the laborers lose or terminate their jobs for four subsequent years, the joint-stock companies shall have to pay 50% of the total allowance amounts under the provisions of the Labor Code, the remainder shall be borne by the fund for support of the arrangement and equitization of State enterprises. Past the aforesaid time limit, the joint-stock companies shall have to pay fully the allowances to the laborers.
7. For the number of redundant laborers at the time of equitization who should be trained or retrained before they can be given new jobs in the joint-stock companies, the State shall support part of the funding for the joint-stock companies to organize training and retraining from the fund for support of the arrangement and equitization of State enterprises under the guidance of the Finance Ministry.
Tình trạng hiệu lực: Hết hiệu lực