Nghị định 14/2001/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo vệ
Số hiệu: | 14/2001/NĐ-CP | Loại văn bản: | Nghị định |
Nơi ban hành: | Chính phủ | Người ký: | Phan Văn Khải |
Ngày ban hành: | 25/04/2001 | Ngày hiệu lực: | 10/05/2001 |
Ngày công báo: | 31/05/2001 | Số công báo: | Số 20 |
Lĩnh vực: | Doanh nghiệp | Tình trạng: |
Hết hiệu lực
17/05/2008 |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
CHÍNH PHỦ |
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 14/2001/NĐ-CP |
Hà Nội, ngày 25 tháng 4 năm 2001 |
CỦA CHÍNH PHỦ SỐ 14/2001/NĐ-CP NGÀY 25 THÁNG 4 NĂM 2001 VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH DỊCH VỤ BẢO VỆ
CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 30 tháng 9 năm 1992;
Để thống nhất quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo vệ, nhằm đáp ứng yêu cầu việc bảo đảm an ninh, trật tự và phát triển kinh tế - xã hội;
ưTheo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Công an,
NGHỊ ĐỊNH:
1. Nghị định này quy định việc quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo vệ trong các lĩnh vực sau đây:
a) Hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo vệ con người;
b) Hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo vệ tài sản và hàng hóa;
c) Sản xuất, sửa chữa các phương tiện, thiết bị kỹ thuật đặc biệt chuyên dùng cho hoạt động dịch vụ bảo vệ.
2. Những đối tượng, mục tiêu thuộc danh mục nhà nước quy định do lực lượng Quân đội và Công an nhân dân có trách nhiệm vũ trang canh gác, bảo vệ và những đối tượng mà pháp luật quy định do lực lượng bảo vệ của các cơ quan, doanh nghiệp đảm nhiệm không thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định này.
1. Chỉ những doanh nghiệp được thành lập, đăng ký kinh doanh theo đúng quy định của Nghị định này và các quy định của pháp luật khác có liên quan mới được tiến hành hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo vệ.
2. Những tổ chức, cá nhân sau đây không được thành lập và quản lý doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ bảo vệ:
a) Tổ chức, cá nhân mà Luật Doanh nghiệp và các văn bản pháp luật khác cấm thành lập và quản lý doanh nghiệp;
b) Người đang bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác, đang chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cấm cư trú, quản chế hoặc bị Toà án cấm hành nghề kinh doanh dịch vụ bảo vệ;
c) Người có tiền án về các tội do lỗi cố ý hoặc người đã bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác mà theo quy định của pháp luật chưa được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính;
d) Tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài; doanh nghiệp có vốn đầu tư của nước ngoài hoặc của người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
3. Những tổ chức, cá nhân sau đây không được trực tiếp thực hiện các hoạt động dịch vụ bảo vệ:
a) Tổ chức, cá nhân được quy định tại khoản 2 Điều này;
b) Tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài; doanh nghiệp có vốn đầu tư của nước ngoài, hoặc của người Việt Nam định cư ở nước ngoài, trừ một số hoạt động sản xuất, sửa chữa các phương tiện, thiết bị kỹ thuật đặc biệt chuyên dùng cho hoạt động dịch vụ bảo vệ quy định tại điểm c khoản 1 Điều 1 của Nghị định này.
Nghiêm cấm thành lập các doanh nghiệp để điều tra bí mật, tiến hành các hoạt động vũ trang bảo vệ hoặc các hành vi lợi dụng hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo vệ để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Mọi hành vi vi phạm quy định của Nghị định này và các quy định của pháp luật khác có liên quan đến tổ chức và hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo vệ đều phải được phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật.
1. Việc thành lập và đăng ký kinh doanh dịch vụ bảo vệ hoặc mở rộng quy mô, địa bàn hoạt động, bổ sung ngành nghề kinh doanh dịch vụ bảo vệ phải thực hiện theo đúng quy định của Nghị định này và các quy định của pháp luật khác có liên quan đối với mỗi loại hình doanh nghiệp.
2. Trong hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc xin bổ sung ngành nghề kinh doanh dịch vụ bảo vệ phải có "Giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự" do Công an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cấp.
Cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận cấp đăng ký kinh doanh hoặc cho phép bổ sung ngành nghề kinh doanh dịch vụ bảo vệ chỉ được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh sau khi có "Giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự" của Công an cấp tỉnh.
1. Hồ sơ xin cấp "Giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự" gồm:
a) Đơn xin cấp "Giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự";
b) Hồ sơ gửi cơ quan nhà nước có thẩm quyền để xin cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh dịch vụ bảo vệ hoặc xin bổ sung ngành nghề kinh doanh dịch vụ bảo vệ;
c) Danh sách và lý lịch (có ảnh và xác nhận của Công an cấp xã nơi cư trú) của sáng lập viên và những người dự kiến giữ các chức vụ chủ chốt của doanh nghiệp;
d) Quy chế về tổ chức và hoạt động, phạm vi, quy mô kinh doanh dịch vụ bảo vệ.
2. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, Công an cấp tỉnh có trách nhiệm giải quyết việc cấp "Giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự" cho người nộp hồ sơ.
Trường hợp không đủ điều kiện hoặc hồ sơ không đầy đủ theo quy định tại Điều 6 Nghị định này, thì cơ quan Công an phải thông báo bằng văn bản cho người nộp hồ sơ biết rõ lý do hoặc yêu cầu bổ sung hồ sơ.
3. Người xin cấp "Giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự" phải nộp lệ phí. Mức thu lệ phí và chế độ quản lý, sử dụng lệ phí do Bộ Tài chính quy định.
Chậm nhất là 10 ngày trước khi bắt đầu hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo vệ, người đứng đầu doanh nghiệp phải thông báo bằng văn bản cho Công an cấp tỉnh biết nơi đặt trụ sở, địa bàn và thời gian bắt đầu hoạt động, đồng thời phải sao gửi kèm theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và danh sách những người trong ban lãnh đạo, ban quản lý.
Trường hợp doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ bảo vệ đăng ký kinh doanh ở tỉnh này mà được phép mở chi nhánh, văn phòng đại diện hoặc thường xuyên hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo vệ ở tỉnh khác, thì chậm nhất là 10 ngày trước khi hoạt động phải thông báo bằng văn bản và gửi kèm theo danh sách những nhân viên sẽ đến làm việc tại tỉnh đó cho Công an cấp tỉnh nơi đến biết.
Người đứng đầu doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ bảo vệ phải là người có lý lịch rõ ràng, có kiến thức cần thiết về pháp luật và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp với doanh nghiệp do mình quản lý, có kinh nghiệm trong công tác bảo vệ và không thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 2 Nghị định này.
1. Nhân viên của doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ bảo vệ phải là người có lý lịch rõ ràng (có xác nhận của Công an cấp xã nơi cư trú) và không thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 2 Nghị định này.
2. Nhân viên của doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ bảo vệ trong khi thực hiện nhiệm vụ phải đeo biển hiệu nhân viên bảo vệ và phải có "Giấy chứng nhận nhân viên bảo vệ" do Giám đốc doanh nghiệp cấp để xuất trình khi cần thiết.
Trong khi tiến hành hoạt động dịch vụ bảo vệ, nếu phát hiện các vụ việc có liên quan đến an ninh, trật tự xảy ra trong khu vực bảo vệ như: cháy, nổ, tai nạn gây thương tích hoặc chết người; gây rối trật tự hoặc những hành vi khác có dấu hiệu phạm tội, thì người đang thực hiện nhiệm vụ tại nơi đó có trách nhiệm bảo vệ hiện trường, cấp cứu nạn nhân và tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại xảy ra, đồng thời phải báo ngay cho cơ quan Công an nơi gần nhất để có biện pháp xử lý kịp thời.
1. Việc nhập khẩu, xuất khẩu các phương tiện, thiết bị kỹ thuật đặc biệt chuyên dùng cho hoạt động dịch vụ bảo vệ phải được Bộ Công an đồng ý bằng văn bản trước khi xin phép nhập khẩu, xuất khẩu.
2. Cơ sở sản xuất phương tiện, thiết bị kỹ thuật đặc biệt chuyên dùng cho hoạt động dịch vụ bảo vệ phải ghi rõ tên cơ sở sản xuất trên sản phẩm và phải đăng ký, lưu mẫu tại Công an cấp tỉnh.
Bộ trưởng Bộ Công an chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực an ninh, trật tự đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo vệ trong phạm vi cả nước và có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
1. Quy định các điều kiện cụ thể về an ninh, trật tự trong hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo vệ;
2. Chỉ đạo Công an các cấp kiểm tra, hướng dẫn việc thực hiện các quy định về an ninh, trật tự trong hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo vệ; kiểm tra chương trình, nội dung đào tạo nghiệp vụ bảo vệ; xử lý theo thẩm quyền các hành vi vi phạm quy định về an ninh, trật tự trong tổ chức và hoạt động của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ bảo vệ;
3. Kiến nghị với Chính phủ ban hành hoặc sửa đổi các văn bản pháp luật có liên quan đến việc đảm bảo an ninh, trật tự trong hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo vệ.
Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ bảo vệ phải chấp hành các quy định về an ninh, trật tự theo hướng dẫn của cơ quan Công an.
Mọi hành vi vi phạm quy định của Nghị định này và các quy định của pháp luật khác có liên quan đến tổ chức và hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo vệ, thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm sẽ bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu gây thiệt hại về tài sản thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Trường hợp phát hiện doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ bảo vệ có người không đủ tiêu chuẩn theo quy định tại Điều 2 của Nghị định này, thì cơ quan Công an có quyền yêu cầu doanh nghiệp chấm dứt ngay việc sử dụng người đó.
Mọi hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn vi phạm các quy định của pháp luật trong việc cấp đăng ký kinh doanh, cấp "Giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự" hoặc có các hành vi vi phạm khác trong quản lý hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo vệ, thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm sẽ bị xử lý kỷ luật hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.
1. Doanh nghiệp 100% vốn trong nước đã được phép tiến hành hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo vệ từ trước khi ban hành Nghị định này, thì không phải làm lại thủ tục đăng ký kinh doanh, nhưng trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực, phải bổ sung những thủ tục còn thiếu theo quy định của Nghị định này.
2. Doanh nghiệp đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép liên doanh với tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài để hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo vệ từ trước khi ban hành Nghị định này, được tiếp tục hoạt động đến hết thời hạn ghi trong giấy phép, nhưng không được mở rộng quy mô, địa bàn hoạt động hoặc bổ sung ngành nghề kinh doanh dịch vụ bảo vệ. Trong thời gian được tiếp tục hoạt động phải tuân theo quy định tại Nghị định này và các quy định của pháp luật khác có liên quan.
3. Doanh nghiệp trong nước, doanh nghiệp liên doanh với tổ chức, cá nhân nước ngoài hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài để hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo vệ mà không được phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì phải đình chỉ hoạt động.
|
Phan Văn Khải (Đã ký) |
THE GOVERNMENT |
SOCIALIST REPUBLIC OF VIET NAM |
No: 14/2001/ND-CP |
Hanoi, April 25, 2001 |
DECREE
ON THE MANAGEMENT OF THE SECURITY SERVICE BUSINESS
THE GOVERNMENT
Pursuant to the Law on Organization of the Government of September 30, 1992;
In order to unify the State management over the security service business and to meet the requirement of ensuring security, order and socio-economic development;
At the proposal of the Minister of Public Security,
DECREES:
Chapter I
GENERAL PROVISIONS
1. This Decree stipulates the State management over the security service business in the following domains:
a/ Human protection;
b/ Property and goods protection;
c/ Manufacture and repair of special technical means and equipment used exclusively for security services.
2. The targets and objects on the State-prescribed list to be safeguarded and protected by the peoples army and the peoples police forces and the objects prescribed by law to be protected by the security forces of agencies and enterprises shall not fall under the scope of regulation of this Decree.
1. Only enterprises that are established and have registered for business activities according to the provisions of this Decree and other relevant law provisions may conduct the security service business.
2. The following organizations and individuals shall not be allowed to establish and manage the security service business enterprises:
a/ Organizations and individuals that are banned from establishing and managing enterprises under the Enterprise Law and other legal documents;
b/ Those who are being subject to other administrative handling measures, are serving non-custodial reform, are being subject to residence ban or probation, or are banned by the court from conducting the security service business;
c/ Those who possess previous criminal records of intentional crimes or had been subject to other administrative handling measures but have not yet been, according to law provisions, regarded as not yet having been handled for administrative violations;
d/ Foreign organizations and individuals, overseas Vietnamese, foreign-invested enterprises or enterprises owned by overseas Vietnamese.
3. The following organizations and individuals shall not be allowed to directly provide security services:
a/ Organizations and individuals specified in Clause 2 of this Article;
b/ Foreign organizations and individuals, overseas Vietnamese, foreign-invested enterprises or enterprises of overseas Vietnamese, except for a number of activities of manufacturing and repairing special technical means and equipment exclusively used for security services specified at Point c, Clause 1, Article 1 of this Decree.
Article 3.- All organizations and individuals engaged in the security service business shall have to strictly observe the provisions of this Decree and other relevant law provisions; submit to the guidance, inspection and violation-handling by the competent State bodies.
Article 4.- It is strictly forbidden to establish enterprises for conducting secret investigation, armed security activities or acts of taking advantage of the security service business to infringe upon the States interests, legitimate rights and interests of organizations and individuals.
All acts of violating the provisions of this Decree and other relevant law provisions on the organization and operation of the security service business must be detected in time and strictly handled according to law provisions.
Chapter II
RESPONSIBILITIES OF THE SUBJECTS ENGAGED IN SECURITY SERVICE BUSINESS ACTIVITIES
1. The establishment and business registration of the security services or the expansion of the scope and geographical area of operation, and the addition of security service business lines shall have to comply with the provisions of this Decree and other relevant law provisions on each type of enterprise.
2. In the dossiers of application for business registration certificates or for addition of security service business lines, there must be "certificates of satisfaction of security and order conditions" issued by the Police Offices of the provinces or centrally-run cities.
The State bodies competent to grant business registration certificates or permit the addition of security service lines may grant business registration certificates only upon the availability of "certificates of satisfaction of security and order conditions conditions."
1. A dossier of application for "certificate of satisfaction of security and order" consists of:
a/ An application for the "certificate of satisfaction of security and order conditions";
b/ The dossier addressed to a competent State body, applying for security service business registration certificate or addition of security service business lines;
c/ A list and CVs (affixed with photos and certified by the Police Offices of the communes of residence) of the founders and those who are expected to hold key posts in the enterprise;
d/ The regulations on the organization and operation, scope and scale of the security service business.
2. Within 15 days after receiving the valid dossiers, the provincial-level Police Offices shall have to effect the granting of "certificates of satisfaction of security and order conditions" to the dossier submitters.
For cases of ineligibility or incomplete dossiers as required in Article 6 of this Decree, the Police Offices shall have to clearly inform in writing the dossiers submitters of the reasons therefor or request the completion of such dossiers.
3. The applicants for "certificates of satisfaction of security and order conditions" shall have to pay a fee. The fee rates and the regime on fee management and use shall be prescribed by the Ministry of Finance.
Article 7.- Within 10 days before conducting the security service business, the heads of the enterprises shall have to inform in writing the provincial-level Police Offices of the addresses of their head offices, the location and the time of commencement of operation and, at the same time, attach therewith the copies of their business registration certificates and the lists of their leadership and management members.
Where a security service business enterprise has registered its business in one province while permitted to open its branch(es) or representative office(s) or regularly providing security services in other provinces, it shall, within 10 days before starting such operation, have to inform such in writing and send therewith a list of its employees expected to work in these provinces to the Police Offices of these provinces.
Article 9.- The heads of the security service business enterprises must be those who have clear personal backgrounds, possess necessary legal knowledge and professional qualifications suited to the enterprises under their management, have experiences in the security work and do not fall in one of the cases specified in Clause 2, Article 2 of this Decree.
1. Employees of the security service business enterprises must be those who have clear personal backgrounds (certified by the Police Offices of the communes of their residence) and do not fall in one of the cases specified in Clause 3, Article 2 of this Decree.
2. When on duty, employees of the security service business enterprises shall have to wear security guards badges and carry security guards certificates, issued by the enterprises directors, for production when necessary.
Article 11.- While providing security services, if detecting security- or order-related cases occurring in the protected areas, such as fires, explosions, injury-inflicting or fatal accidents; order disturbances or acts showing criminal signs, the security guards on duty there shall have to keep the scenes intact, render first aid to victims and take necessary measures to minimize damage and, at the same time, immediately report them to the nearest police office for timely handling measures.
1. The import and export of special technical means and equipment exclusively used for security services must be permitted in writing by the Ministry of Public Security before applying for the import or export permits.
2. Establishments that manufacture special technical means and equipment exclusively used for security services must clearly inscribe their names on their products and shall have to register with and send the product samples to the provincial-level Police Office for archive.
Chapter III
RESPONSIBILITIES OF THE MINISTRIES, BRANCHES AND THE PEOPLE�S COMMITTEES OF DIFFERENT LEVELS IN THE MANAGEMENT OF THE SECURITY SERVICE BUSINESS ACTIVITIES
Article 13.- The Minister of Public Security shall be accountable to the Government for performing the State management function in the security and order domain regarding the security service business activities nationwide and have the following tasks and powers:
1. To prescribe concrete security and order conditions in the security service business activities;
2. To direct the Police Offices of various levels to supervise and guide the observance of the regulations on security and order in the security service business activities; inspecting the security profession training program and contents; handling according to their competence acts of violating the regulations on security and order in the organization and operation of the security service business enterprises;
3. To propose the Government to promulgate or amend legal documents related to the assurance of security and order in the security service business activities.
Article 14.- The ministries, the ministerial-level agencies and the agencies attached to the Government shall, within the scope of their respective functions, tasks and powers, have to coordinate with the Ministry of Public Security in managing, directing and guiding the organization and operation of the security service business enterprises according to law provisions.
Article 15.- The Peoples Committees of various levels shall perform the function of State management over the security service business activities according to their competence and under the direction and guidance of the Ministry of Public Security according to the provisions of this Decree and other relevant law provisions.
Chapter IV
COMMENDATION AND HANDLING OF VIOLATIONS
Article 16.- Individuals and organizations engaged in the security service business activities, that have made positive contributions to the security and order protection, shall be considered for commendation and reward according to general provisions of the State.
Article 17.- In the course of operation, the security service business enterprises shall have to observe the regulations on security and order under the guidance of the Police Offices.
All acts of violating the provisions of this Decree and other relevant law provisions on the security service business organization and activities shall, depending on their nature and seriousness, be subject to administrative sanctions or penal liability examination. If any property damage is caused, compensation must be paid therefor according to law provisions.
If detecting that security service business enterprises employ those who are unqualified under the provisions of Article 2 of this Decree, the Police Offices may request such enterprises to immediately terminate the employment of such persons.
Article 18.- All acts of abusing positions and powers, violating law provisions on the granting of business registration certificates and "certificates of satisfaction of security and order conditions" or other violations in the management of the security service business activities shall, depending on the their nature and seriousness, be subject to administrative disciplines or penal liability examination.
Chapter V
IMPLEMENTATION PROVISIONS
1. Enterprises with 100% domestic capital, which are permitted to conduct the security services business activities before the promulgation of this Decree, shall not have to re-carry out the business registration procedures but, within 60 days as from the effective date of this Decree, have to carry out additional procedures as prescribed in this Decree.
2. Enterprises already permitted by competent State bodies to enter into joint ventures with foreign organizations, individuals or overseas Vietnamese for conducting the security services business activities before the promulgation of this Decree, may continue operation till the expiry of the term inscribed in their licenses but must neither expand the scope and/or geographical area of their operation nor add new security service lines. During the time of continued operation, they shall have to observe the provisions of this Decree and other relevant law provisions.
3. Domestic enterprises, enterprises of joint venture with foreign organizations, individuals or overseas Vietnamese, that are conducting the security service business activities without permission of competent State bodies, shall have to terminate their operation.
Article 20.- This Decree takes implementation effect 15 days after its signing.
The Ministry of Public Security shall guide in detail the implementation of this Decree.
Article 21.- The ministers, the heads of the ministerial-level agencies, the heads of the agencies attached to the Government and the presidents of the Peoples Committees of the provinces and centrally-run cities shall have to implement this Decree.
|
ON BEHALF OF THE GOVERNMENT |
Tình trạng hiệu lực: Hết hiệu lực