Chương 2 Luật Giáo dục 1998: Hệ thống giáo dục quốc dân
Số hiệu: | 11/1998/QH10 | Loại văn bản: | Luật |
Nơi ban hành: | Quốc hội | Người ký: | Nông Đức Mạnh |
Ngày ban hành: | 02/12/1998 | Ngày hiệu lực: | 01/06/1999 |
Ngày công báo: | 15/01/1999 | Số công báo: | Số 2 |
Lĩnh vực: | Giáo dục | Tình trạng: |
Hết hiệu lực
01/01/2006 |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
Giáo dục mầm non thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em từ ba tháng tuổi đến sáu tuổi.
Mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em vào học lớp một.
1. Nội dung giáo dục mầm non phải bảo đảm hài hoà giữa nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục, phù hợp với sự phát triển tâm sinh lý của trẻ em; giúp trẻ em phát triển cơ thể cân đối, khoẻ mạnh, nhanh nhẹn; biết kính trọng, yêu mến, lễ phép với ông bà, cha mẹ, thầy giáo, cô giáo và người trên; yêu quý anh, chị, em, bạn bè; thật thà, mạnh dạn, hồn nhiên, yêu thích cái đẹp; ham hiểu biết, thích đi học.
2. Phương pháp chủ yếu trong giáo dục mầm non là thông qua việc tổ chức các hoạt động vui chơi để giúp trẻ em phát triển toàn diện; chú trọng việc nêu gương, động viên, khích lệ.
Cơ sở giáo dục mầm non gồm:
1. Nhà trẻ, nhóm trẻ nhận trẻ em từ ba tháng tuổi đến ba tuổi;
2. Trường, lớp mẫu giáo nhận trẻ em từ ba tuổi đến sáu tuổi;
3. Trường mầm non là cơ sở giáo dục kết hợp nhà trẻ và trường mẫu giáo, nhận trẻ em từ ba tháng tuổi đến sáu tuổi.
Giáo dục phổ thông gồm:
1. Giáo dục tiểu học là bậc học bắt buộc đối với mọi trẻ em từ sáu đến mười bốn tuổi; được thực hiện trong năm năm học, từ lớp một đến lớp năm. Tuổi của học sinh vào học lớp một là sáu tuổi;
2. Giáo dục trung học cơ sở được thực hiện trong bốn năm học, từ lớp sáu đến lớp chín. Học sinh vào học lớp sáu phải có bằng tốt nghiệp tiểu học, có tuổi là mười một tuổi;
3. Giáo dục trung học phổ thông được thực hiện trong ba năm học, từ lớp mười đến lớp mười hai. Học sinh vào học lớp mười phải có bằng tốt nghiệp trung học cơ sở, có tuổi là mười lăm tuổi.
Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định những trường hợp có thể bắt đầu học ở tuổi cao hơn tuổi quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này.
Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở.
Giáo dục trung học cơ sở nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục tiểu học; có trình độ học vấn phổ thông cơ sở và những hiểu biết ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học trung học phổ thông, trung học chuyên nghiệp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động.
Giáo dục trung học phổ thông nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục trung học cơ sở, hoàn thiện học vấn phổ thông và những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động.
1. Nội dung giáo dục phổ thông phải bảo đảm tính phổ thông, cơ bản, toàn diện, hướng nghiệp và hệ thống; gắn với thực tiễn cuộc sống, phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi của học sinh, đáp ứng mục tiêu giáo dục ở mỗi bậc học, cấp học.
Giáo dục tiểu học phải bảo đảm cho học sinh có hiểu biết đơn giản, cần thiết về tự nhiên, xã hội và con người; có kỹ năng cơ bản về nghe, đọc, nói, viết và tính toán; có thói quen rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh; có hiểu biết ban đầu về hát, múa, âm nhạc, mỹ thuật.
Giáo dục trung học cơ sở phải củng cố, phát triển những nội dung đã học ở tiểu học, bảo đảm cho học sinh có những hiểu biết phổ thông cơ bản về tiếng Việt, toán, lịch sử dân tộc; kiến thức khác về khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, pháp luật, tin học, ngoại ngữ; có những hiểu biết cần thiết tối thiểu về kỹ thuật và hướng nghiệp.
Giáo dục trung học phổ thông phải củng cố, phát triển những nội dung đã học ở trung học cơ sở, hoàn thành nội dung giáo dục phổ thông. Ngoài nội dung chủ yếu nhằm bảo đảm chuẩn kiến thức phổ thông, cơ bản, toàn diện và hướng nghiệp cho mọi học sinh còn có nội dung nâng cao ở một số môn học để phát triển năng lực, đáp ứng nguyện vọng của học sinh.
2. Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.
3. Nội dung, phương pháp giáo dục phổ thông được thể hiện thành chương trình giáo dục do Bộ Giáo dục và Đào tạo quyết định ban hành.
1. Sách giáo khoa phải thể hiện mục tiêu, nguyên lý giáo dục, cụ thể hoá nội dung, phương pháp giáo dục quy định trong chương trình giáo dục của từng bậc học, cấp học, lớp học.
2. Sách giáo khoa do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức biên soạn và duyệt trên cơ sở thẩm định của Hội đồng quốc gia thẩm định sách giáo khoa để sử dụng chính thức, thống nhất, ổn định trong giảng dạy, học tập ở nhà trường và các cơ sở giáo dục khác.
3. Nhà nước quản lý việc xuất bản, in và phát hành sách giáo khoa.
Cơ sở giáo dục phổ thông gồm:
1. Trường tiểu học;
2. Trường trung học sơ sở;
3. Trường trung học phổ thông;
4. Trung tâm kỹ thuật tổng hợp - hướng nghiệp.
1. Học sinh học hết chương trình tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông có đủ điều kiện theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo thì được dự thi và nếu đạt yêu cầu thì được cấp bằng tốt nghiệp tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông.
2. Trưởng Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện) cấp bằng tốt nghiệp tiểu học.
Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh) cấp bằng tốt nghiệp trung học cơ sở, bằng tốt nghiệp trung học phổ thông.
Giáo dục nghề nghiệp gồm:
1. Trung học chuyên nghiệp được thực hiện từ ba đến bốn năm học đối với người có bằng tốt nghiệp trung học cơ sở, từ một đến hai năm học đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông;
2. Dạy nghề dành cho người có trình độ học vấn và sức khoẻ phù hợp với nghề cần học; được thực hiện dưới một năm đối với các chương trình dạy nghề ngắn hạn, từ một đến ba năm đối với các chương trình dạy nghề dài hạn.
Mục tiêu của giáo dục nghề nghiệp là đào tạo người lao động có kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp ở các trình độ khác nhau, có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp, có sức khoẻ nhằm tạo điều kiện cho người lao động có khả năng tìm việc làm, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh.
Giáo dục trung học chuyên nghiệp nhằm đào tạo kỹ thuật viên, nhân viên nghiệp vụ có kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp ở trình độ trung cấp.
Dạy nghề nhằm đào tạo người lao động có kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp phổ thông, công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ.
1. Nội dung giáo dục nghề nghiệp phải tập trung vào đào tạo năng lực nghề nghiệp, coi trọng giáo dục đạo đức, rèn luyện sức khoẻ, nâng cao trình độ học vấn theo yêu cầu đào tạo.
2. Phương pháp giáo dục nghề nghiệp phải kết hợp giảng dạy lý thuyết với rèn luyện kỹ năng thực hành, bảo đảm để sau khi tốt nghiệp người học có khả năng hành nghề.
3. Nội dung, phương pháp giáo dục nghề nghiệp phải được thể hiện thành chương trình giáo dục.
Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với các Bộ chuyên ngành quy định chương trình khung về giáo dục trung học chuyên nghiệp gồm cơ cấu nội dung, số môn học, thời lượng các môn học, tỷ lệ thời gian giữa lý thuyết và thực hành, thực tập đối với từng ngành, nghề đào tạo. Căn cứ vào chương trình khung, trường trung học chuyên nghiệp xác định chương trình giáo dục của trường mình.
Cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề quy định về nguyên tắc xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình dạy nghề.
1. Giáo trình trung học chuyên nghiệp, giáo trình dạy nghề dài hạn phải thể hiện mục tiêu, nguyên lý giáo dục, cụ thể hoá nội dung, phương pháp giáo dục quy định trong chương trình giáo dục trung học chuyên nghiệp, chương trình dạy nghề dài hạn.
2. Giáo trình trung học chuyên nghiệp, giáo trình dạy nghề dài hạn do Hiệu trưởng nhà trường tổ chức biên soạn và duyệt trên cơ sở thẩm định của Hội đồng thẩm định giáo trình do Hiệu trưởng thành lập để sử dụng làm tài liệu giảng dạy, học tập chính thức trong nhà trường.
1. Học sinh học hết chương trình trung học chuyên nghiệp, chương trình dạy nghề dài hạn, có đủ điều kiện theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo thì được dự thi và nếu đạt yêu cầu thì được cấp bằng tốt nghiệp.
Học sinh học hết chương trình dạy nghề ngắn hạn, chương trình bồi dưỡng nâng cao trình độ nghề tại các trường trung học chuyên nghiệp, có đủ điều kiện theo quy định được dự kiểm tra để lấy chứng chỉ.
2. Hiệu trưởng trường trung học chuyên nghiệp cấp bằng tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp, bằng tốt nghiệp đào tạo nghề, chứng chỉ nghề.
Hiệu trưởng trường dạy nghề cấp bằng tốt nghiệp đào tạo nghề, chứng chỉ nghề; Giám đốc trung tâm dạy nghề cấp chứng chỉ nghề.
Giáo dục đại học và sau đại học gồm:
1. Giáo dục đại học đào tạo trình độ cao đẳng và trình độ đại học:
a) Đào tạo trình độ cao đẳng được thực hiện trong ba năm học đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc bằng tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp;
b) Đào tạo trình độ đại học được thực hiện từ bốn đến sáu năm học tùy theo ngành nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc bằng tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp; từ một đến hai năm học đối với người có bằng tốt nghiệp cao đẳng cùng chuyên ngành.
2. Giáo dục sau đại học đào tạo trình độ thạc sĩ và trình độ tiến sĩ:
a) Đào tạo trình độ thạc sĩ được thực hiện trong hai năm đối với người có bằng tốt nghiệp đại học;
b) Đào tạo trình độ tiến sĩ được thực hiện trong bốn năm đối với người có bằng tốt nghiệp đại học, từ hai đến ba năm đối với người có bằng thạc sĩ. Trong trường hợp đặc biệt, thời gian đào tạo trình độ tiến sĩ có thể được kéo dài theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
c) Chính phủ quy định cụ thể việc đào tạo sau đại học ở một số ngành chuyên môn đặc biệt.
Mục tiêu của giáo dục đại học và sau đại học là đào tạo người học có phẩm chất chính trị, đạo đức, có ý thức phục vụ nhân dân, có kiến thức và năng lực thực hành nghề nghiệp tương xứng với trình độ đào tạo, có sức khoẻ, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đào tạo trình độ cao đẳng giúp sinh viên có kiến thức chuyên môn và kỹ năng thực hành cơ bản về một ngành nghề, có khả năng giải quyết những vấn đề thông thường thuộc chuyên ngành được đào tạo.
Đào tạo trình độ đại học giúp sinh viên nắm vững kiến thức chuyên môn và kỹ năng thực hành về một ngành nghề, có khả năng phát hiện, giải quyết những vấn đề thông thường thuộc chuyên ngành được đào tạo.
Đào tạo trình độ thạc sĩ giúp học viên nắm vững lý thuyết, có trình độ cao về thực hành, có khả năng phát hiện, giải quyết những vấn đề thuộc chuyên ngành được đào tạo.
Đào tạo trình độ tiến sĩ giúp nghiên cứu sinh có trình độ cao về lý thuyết và thực hành, có năng lực nghiên cứu độc lập, sáng tạo, giải quyết những vấn đề khoa học - công nghệ và hướng dẫn hoạt động chuyên môn.
Yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục đại học và sau đại học được quy định như sau:
1. Đối với giáo dục đại học:
a) Nội dung giáo dục đại học phải có tính hiện đại và phát triển, bảo đảm cơ cấu hợp lý giữa kiến thức khoa học cơ bản với kiến thức chuyên ngành và các bộ môn khoa học Mác-Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp, bản sắc văn hoá dân tộc; tương ứng với trình độ chung của khu vực và thế giới.
Đào tạo trình độ cao đẳng phải bảo đảm cho sinh viên có những kiến thức khoa học cơ bản và chuyên ngành cần thiết; chú trọng rèn luyện kỹ năng cơ bản và năng lực thực hiện công tác chuyên môn.
Đào tạo trình độ đại học phải bảo đảm cho sinh viên có những kiến thức khoa học cơ bản và chuyên ngành tương đối hoàn chỉnh; có phương pháp làm việc khoa học; có năng lực vận dụng lý thuyết vào công tác chuyên môn;
b) Phương pháp giáo dục đại học phải coi trọng việc bồi dưỡng năng lực tự học, tự nghiên cứu, tạo điều kiện cho người học phát triển tư duy sáng tạo, rèn luyện kỹ năng thực hành, tham gia nghiên cứu, thực nghiệm, ứng dụng;
c) Nội dung, phương pháp giáo dục đại học phải được thể hiện thành chương trình giáo dục. Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định chương trình khung gồm cơ cấu nội dung các môn học, thời gian đào tạo, tỷ lệ phân bổ thời gian đào tạo giữa các môn học cơ bản và chuyên ngành; giữa lý thuyết với thực hành, thực tập. Căn cứ vào chương trình khung, trường cao đẳng, trường đại học xác định chương trình giáo dục của trường mình.
2. Đối với giáo dục sau đại học:
a) Nội dung giáo dục sau đại học phải giúp cho người học phát triển và hoàn thiện kiến thức khoa học cơ bản, kiến thức chuyên ngành, các bộ môn khoa học Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh; phát huy năng lực sáng tạo, phát hiện và giải quyết các vấn đề thuộc chuyên ngành đào tạo; có khả năng đóng góp vào sự phát triển khoa học, công nghệ, kinh tế - xã hội của đất nước.
Đào tạo trình độ thạc sĩ phải bảo đảm cho học viên được bổ sung và nâng cao những kiến thức đã học ở trình độ đại học; tăng cường kiến thức liên ngành; có đủ năng lực thực hiện công tác chuyên môn và nghiên cứu khoa học trong chuyên ngành của mình.
Đào tạo trình độ tiến sĩ phải bảo đảm cho nghiên cứu sinh nâng cao và hoàn chỉnh kiến thức cơ bản; có hiểu biết sâu về kiến thức chuyên ngành; có đủ năng lực tiến hành độc lập công tác nghiên cứu khoa học và sáng tạo trong công tác chuyên môn;
b) Phương pháp đào tạo thạc sĩ được thực hiện bằng cách phối hợp các hình thức học tập trên lớp với tự học, tự nghiên cứu; coi trọng việc phát huy năng lực thực hành, năng lực phát hiện, giải quyết những vấn đề chuyên môn.
Phương pháp đào tạo tiến sĩ được thực hiện chủ yếu bằng tự học, tự nghiên cứu dưới sự hướng dẫn của nhà giáo, nhà khoa học; coi trọng rèn luyện thói quen nghiên cứu khoa học, phát triển tư duy sáng tạo trong phát hiện, giải quyết những vấn đề chuyên môn;
c) Nội dung, phương pháp giáo dục các môn học, chuyên đề, luận văn, luận án theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
1. Giáo trình cao đẳng, giáo trình đại học phải thể hiện mục tiêu, nguyên lý giáo dục, cụ thể hoá nội dung, phương pháp giáo dục quy định trong chương trình đào tạo của trường cao đẳng, trường đại học.
2. Nhà nước có chính sách bảo đảm để các trường cao đẳng, trường đại học có đủ giáo trình chủ yếu.
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm tổ chức biên soạn và duyệt các giáo trình sử dụng chung cho các trường cao đẳng, trường đại học. Giáo trình cao đẳng, giáo trình đại học theo chuyên ngành của từng trường do Hiệu trưởng trường cao đẳng, trường đại học tổ chức biên soạn và duyệt trên cơ sở thẩm định của Hội đồng thẩm định giáo trình do Hiệu trưởng thành lập để sử dụng làm tài liệu giảng dạy, học tập chính thức trong nhà trường.
1. Cơ sở giáo dục đại học và sau đại học gồm:
a) Trường cao đẳng đào tạo trình độ cao đẳng;
b) Trường đại học đào tạo trình độ cao đẳng, đại học; đào tạo trình độ thạc sĩ, tiến sĩ khi được Thủ tướng Chính phủ giao;
c) Viện nghiên cứu khoa học đào tạo trình độ tiến sĩ, phối hợp với trường đại học đào tạo trình độ thạc sĩ khi được Thủ tướng Chính phủ giao.
2. Mô hình tổ chức cụ thể của các loại trường đại học do Chính phủ quy định.
1. Sinh viên học hết chương trình cao đẳng, có đủ điều kiện theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo thì được dự thi và nếu đạt yêu cầu thì được cấp bằng tốt nghiệp cao đẳng.
Sinh viên học hết chương trình đại học, có đủ điều kiện theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo thì được dự thi hoặc bảo vệ đồ án, khoá luận tốt nghiệp và nếu đạt yêu cầu thì được cấp bằng tốt nghiệp đại học.
Bằng tốt nghiệp đại học của ngành kỹ thuật được gọi là bằng kỹ sư, của ngành kiến trúc là bằng kiến trúc sư, của ngành y tế là bằng bác sĩ, bằng dược sĩ, của các ngành khoa học cơ bản, sư phạm, luật, kinh tế là bằng cử nhân; đối với các ngành còn lại là bằng tốt nghiệp đại học.
2. Học viên hoàn thành chương trình đào tạo thạc sĩ, có đủ điều kiện theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo thì được bảo vệ luận văn và nếu đạt yêu cầu thì được cấp bằng thạc sĩ.
Nghiên cứu sinh hoàn thành chương trình đào tạo tiến sĩ, có đủ điều kiện theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo thì được bảo vệ luận án và nếu đạt yêu cầu thì được cấp bằng tiến sĩ.
3. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cấp bằng tiến sĩ.
Đối với bằng thạc sĩ, bằng tốt nghiệp đại học, bằng tốt nghiệp cao đẳng, nhà trường được phép đào tạo ở trình độ nào thì Hiệu trưởng cấp bằng ở trình độ ấy.
4. Chính phủ quy định văn bằng tốt nghiệp sau đại học của một số ngành chuyên môn đặc biệt.
Giáo dục không chính quy là phương thức giáo dục giúp mọi người vừa làm vừa học, học liên tục, suốt đời nhằm hoàn thiện nhân cách, mở rộng hiểu biết, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ để cải thiện chất lượng cuộc sống, tìm việc làm và thích nghi với đời sống xã hội.
1. Nội dung giáo dục không chính quy được thể hiện trong các chương trình sau đây:
a) Chương trình xoá nạn mù chữ và giáo dục tiếp tục sau khi biết chữ;
b) Chương trình đào tạo bổ sung, tu nghiệp định kỳ, bồi dưỡng nâng cao trình độ, cập nhật kiến thức, kỹ năng;
c) Chương trình giáo dục đáp ứng yêu cầu của người học;
d) Chương trình giáo dục để lấy văn bằng của hệ thống giáo dục quốc dân theo hình thức vừa học vừa làm, học từ xa, tự học có hướng dẫn.
2. Nội dung giáo dục của các chương trình quy định tại các điểm a, b và c khoản 1 Điều này phải bảo đảm tính thiết thực, giúp người học nâng cao khả năng lao động, sản xuất, công tác và chất lượng cuộc sống.
Nội dung giáo dục của chương trình giáo dục quy định tại điểm d khoản 1 Điều này phải được thực hiện theo đúng quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
3. Phương pháp giáo dục không chính quy phải phát huy vai trò chủ động, khai thác kinh nghiệm của người học, coi trọng việc bồi dưỡng năng lực tự học.
1. Cơ sở giáo dục không chính quy gồm:
a) Trung tâm giáo dục thường xuyên;
b) Giáo dục không chính quy còn được thực hiện tại trường phổ thông, trường trung học chuyên nghiệp, cơ sở dạy nghề, trường cao đẳng, trường đại học và thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng.
Cơ sở giáo dục chính quy thực hiện các chương trình giáo dục theo phương thức giáo dục không chính quy phải bảo đảm nhiệm vụ đào tạo của mình; chỉ thực hiện đối với chương trình giáo dục quy định tại điểm d khoản 1 Điều 41 của Luật này khi các chương trình đó đang được thực hiện ở hệ chính quy và được cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục có thẩm quyền cho phép.
2. Trung tâm giáo dục thường xuyên không thực hiện các chương trình giáo dục để lấy bằng tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp, bằng tốt nghiệp cao đẳng, bằng tốt nghiệp đại học.
1. Học viên theo học chương trình giáo dục quy định tại điểm d khoản 1 Điều 41 của Luật này được dự thi để lấy bằng tốt nghiệp nếu có đủ các điều kiện sau đây:
a) Đăng ký tại một cơ sở giáo dục có thẩm quyền đào tạo ở bậc học, cấp học, trình độ tương ứng;
b) Học hết chương trình, thực hiện đủ các yêu cầu về kiểm tra kết quả học tập và được cơ sở giáo dục nơi đăng ký xác nhận đủ điều kiện dự thi theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
2. Học viên học hết các chương trình giáo dục quy định tại các điểm a, b và c khoản 1 Điều 41 của Luật này, nếu có đủ điều kiện theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo thì được dự kiểm tra; nếu đạt yêu cầu thì được cấp chứng chỉ giáo dục không chính quy.
3. Học viên học hết chương trình giáo dục quy định tại điểm d khoản 1 Điều 41 của Luật này, nếu có đủ điều kiện theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo thì được dự thi; nếu đạt yêu cầu thì được cấp văn bằng tốt nghiệp theo phương thức giáo dục không chính quy, trên văn bằng có ghi hình thức học tập; nếu có đủ điều kiện theo quy định của kỳ thi tốt nghiệp hệ chính quy thì được dự thi và nếu đạt yêu cầu thì được cấp bằng tốt nghiệp của hệ chính quy.
4. Thẩm quyền cấp văn bằng giáo dục không chính quy được quy định như thẩm quyền cấp văn bằng giáo dục chính quy.
5. Giám đốc trung tâm giáo dục thường xuyên cấp chứng chỉ giáo dục không chính quy.
Infant education carries out the raising, care for, and education of children from three months to six years old.
Article 19.- Objective of infant education
The objective of infant education is to help children develop physically, sentimentally, intellectually and aesthetically and form the first elements of their personality, and prepare the children for the first form.
Article 20.- Requirements for the contents and method of infant education
1. The contents of infant education must ensure harmony between raising, caring and education and conform with the psychological and physiological development of the child, help children develop their body in a balanced manner, and become healthy and alert, know how to respect, love and behave politely to their grandparents, parents, teachers and elders, love their brothers, sisters and friends, be honest, brave and unassumed, love the beautiful, eager to know and to go to school.
2. The main method of infant education is to help children through the organization of recreative activities to develop in all spheres; to pay attention to setting example, encouraging and inciting.
Article 21.- Establishments of infant education
The establishments of infant education comprise:
1. Creche and group of baby sitters to care for children from three months to three years old;
2. Infant school and infant class admitting children from three to six years old;
3. "Young bud" school is an educational establishment combining creche and infant school admitting children from three months to six years old.
Article 22.- General education
General education comprises:
1. Primary education is the compulsory level of education for all children from six to fourteen years old; it is conducted in five school-years from the first to the fifth form. The age of pupils admitted to the first form is six years;
2. Basic secondary education is conducted in four school years from the sixth to the ninth form. Pupils admitted to the sixth form must have the graduation certificate of primary education and be eleven years old;
3. General secondary education is conducted in three school-years from the tenth to twelfth form. Pupils admitted to the tenth form must have the graduation certificate of basic secondary education and be fifteen years old.
The Ministry of Education and Training shall provide for cases where the age to start learning can be higher than prescribed in Items 1, 2 and 3 of this Article.
Article 23.- Objective of general education
The objective of general education is to help the pupils develop in all spheres, ethical, intellectual, physical, aestical, and in the basic abilities aimed at forming the personality of the socialist Vietnamese, building the civic quality and sense of responsibility and preparing the pupils to continue their education to a higher level or to join the working life and taking part in the building and defense of the Fatherland.
Primary education aims to help form the initial bases for the correct and long-term ethical, intellectual, physical and aesthetic development and the basic know-hows for the pupils to proceed to basic general education.
Basic secondary education aims to help the pupils to consolidate and develop the results of primary education, achieve the basic general cultural level and the initial technical and vocational knowledge in order to proceed to general secondary education, vocational secondary education and job training or embark on the working life.
General secondary education aims to help the pupils consolidate and develop the results of basic secondary education, complete their general education and grasp the common technical and vocational knowledge in order to proceed to university, college or vocational secondary education and job training education or embark on the working life.
Article 24.- Requirements for the contents and method of general education
1. The contents of general education must ensure the popular, basic, all-round, vocational and systematic character, must be associated with the practice of life and conform with the psychology and physiology of the age group of the pupils and meeting the requirements of education of each level and degree of education.
Primary education must ensure that the pupils get simple and necessary knowledge of nature, society and man; get the basic know-how on listening, reading and writing and the calculations, the habit of training physically and observing hygiene, get the initial knowledge of singing, dancing, music and art.
Basic secondary education must consolidate and develop the contents already learned at primary education, ensure that the pupils get the basic general knowledge of the Vietnamese language, mathematics, the national history and other knowledge of social science, natural science, law, informatics, foreign languages and other necessary minimum understanding of technique and vocation.
General secondary education must consolidate and develop the contents already learned at basic secondary education and complete the contents of general education. Besides the main contents aimed at ensuring the standard general, basic, all-round and vocational knowledge for all the pupils, there must also be the content of raising the standard in a number of subjects in order to develop their capacities and meeting their aspirations.
2. The method of general education consists in developing the activeness, voluntariness, initiative and creativeness of the pupils in conformity with the characteristics of each form and subject; fostering the method of self teaching, training their ability to apply knowledge to practice, and impact on the sentiments, bring joy and enthusiasm in studies for the pupils.
3. The contents of the method of general education shall be reflected in the program of education decided and issued by the Ministry of Education and Training.
1. Text-books must reflect the objective and principle of education, concretize the contents and method of education defined in the educational program of each degree, level and form.
2. The Ministry of Education and Training shall organize the compilation and ratify the textbooks on the basis of the examinations by the National Text-book Examination Council for official unified and stable use in teaching and study at the schools and other educational establishments.
3. The State manages the publication, printing and distribution of text-books.
Article 26.- General education establishments
The general education establishments comprise:
1. The primary schools;
2. The basic secondary schools;
3. The general secondary schools;
4. The general-vocational technical centers.
Article 27.- Diplomas of general education
1. Pupils having completed the program of primary education, basic secondary education and general secondary education and meeting all the conditions prescribed by the Ministry of Education and Training are eligible to sit at examinations and, if they meet the requirements, shall be issued the diplomas of graduation from primary, basic secondary and general secondary education.
2. The Head of the Education and Training Section at the district, town and city under the province (hereafter commonly called district level) shall issue graduation diplomas of primary education.
The Directors of the Education and Training Services of the provinces and cities directly under the Central Government (hereafter commonly called the provincial level) shall issue graduation diplomas of basic secondary and general secondary education.
Job education comprises:
1. Vocational secondary education is conducted from three to four years for learners having the graduation diploma of basic secondary education, from one to two years for those having the diploma of general secondary education;
2. Job training reserved for those having a cultural standard and health condition suited to the job they need to be trained in. It is carried out for less than one year for the short-term job training programs and from one to three years for the long term job training programs.
Article 29.- Objective of job education
The objective of job education is to train working people with knowledge and professional know-how of different levels, good ethics, professional conscience, the sense of discipline, an industrial style and good health with a view to creating conditions for the working people to have the capacity to find a job and meeting the needs of socio-economic development and strengthening national defense and security.
Vocational secondary education aims to train technicians and professional personnel equipped with professional knowledge and know-how at the intermediate level.
Job training aims to train working people having general knowledge and know-how, technical workers and professional personnel.
Article 30.- Requirements for contents and method of job education
1. The content of job education shall concentrate on training the professional acity, paying attention to ethical education, physical training, raising the cultural standard according of the need of training.
2. The method of job education must combine theoretical teaching with training of practical know-how in order to ensure that after graduation the learner can do the job.
3. The content and method of job education must be reflected in the educational program.
The Ministry of Education and Training shall coordinate with the specialized ministries to work out the frame programs of vocational secondary education including the structure of the contents, the number of subjects, the time frame of the subjects, the time ratio between theory and practice and experimentation for each trade and profession of the training. Basing itself on the frame program, the vocational secondary school shall determine its own curriculum.
The State agency managing job training shall determine the principle of working out and organizing the implementation of the job training program.
Article 31.- Curriculum of vocational secondary education and curriculum of long-term job training
1. The curriculum of vocational secondary education and the curriculum of long-term job training must reflect the objective and principle of education, concretize the content and method of education defined in the curriculum of vocational secondary education and the curriculum of long-term job training.
2. The Headmaster of the school shall organize the compilation and ratify the curriculum of vocational secondary education and the curriculum of long-term job training on the basis of the examination by the Curriculum Examination Council set up by the Headmaster for use as official material for teaching and study of the school.
Article 32.- Job education establishments
1. Job education establishments comprise:
a/ Vocational secondary schools;
b/ Job training schools, job training centers, job training courses (hereafter commonly called job training establishments).
2. Job training establishments may be organized independently or in association with production, business, service establishments and other educational establishments.
Article 33.- Diplomas and certificates of job education
1. Pupils having finished their vocational secondary education program, program of long-term job training and who fill all the conditions prescribed by the Ministry of Education and Training are eligible to sit for exams and, if they pass, shall be issued the graduation diplomas.
Pupils who have finished short-term job education programs, or the programs of fostering job standard at the vocational secondary schools and who fill the conditions as prescribed shall be eligible to take tests for certificates.
2. The Headmasters of vocational secondary schools shall issue diplomas of vocational secondary education, diplomas of job training education and job certificates.
The Headmasters of job training schools shall issue diplomas of job training education and job certificates. The directors of job training centers shall issue job certificates.
SECTION 4. UNIVERSITY AND POST-UNIVERSITY EDUCATION
Article 34.- University and post university education
University and post-university education comprise:
1. University education trains the college degree and university degree.
a/ College degree training is conducted in three years for persons having diplomas of general secondary education or diplomas of vocational secondary education;
b/ Doctorate training is conducted in from four to six years depending on the trades and jobs for those having the diploma of general secondary education or diploma of vocational secondary education and from one to two years for those having college diplomas of the same branch.
2. Post-university education trains the master’s degree and doctorate.
a/ Master’s degree training is conducted in two years for persons having university diplomas;
b/ Doctor degree training is conducted in four years for persons having university diplomas, from two to three years for persons having master diplomas. In special cases, the time for training the doctorate may be extended as prescribed by the Ministry of Education and Training;
c/ The Government shall issue specific regulations on post-university training in a number of special specialties.
Article 35.- Objective of university and post-university education
The objective of university and post-university education is to train persons with good political and ethical qualities, with a sense of serving the people, having the knowledge and capacity to do their jobs corresponding to the level of training, good health and meeting the demand of building and defending the Fatherland.
College degree training helps the students acquire basic professional knowledge and practice know-how about a trade and the capacity to solve ordinary questions in the specialty of their training.
University degree training helps the students have a firm grasp of professional knowledge and practice know-how about a trade and have the capacity to detect and solve ordinary questions in the specialty of their training.
Master degree training helps the learners to grasp the theory, get a high level of practice, have the capacity to detect and solve questions in the specialty of their training.
Doctor degree training helps the post-graduates get a high theoretical and practical level, have the acity to conduct research independently and creatively, solve questions of science and technology and guide activities in specialized domains.
Article 36.- Requirements for contents and method of university and post-university education
The requirements for the contents and method of university and post- university education are provided as follows:
1. For university education:
a/ The contents of university education must have a modern and developed character, ensure a rational proportion between basic science knowledge and specialized knowledge and the subjects of Marxism-Leninism and Ho Chi Minh Thought; inherit and develop the fine traditions and the national cultural identity corresponding to the general standard of the region and the world.
College degree training must ensure that the students get the necessary and relatively complete knowledge of basic and specialized science, must pay attention to training the fundamental know-how and capacity to carry out specialized work.
University degree training must ensure that the students get the relatively complete knowledge of fundamental science and specialized knowledge, a scientific method of work, the capacity to apply theory to specialized work.
b/ The method of university education must give importance to fostering the capacity of self teaching and independent research, creating conditions for the learner to develop his creative thinking, train his practical know-how, take part in research, experimentation and application.
c/ The content and method of university education must be reflected in the educational program. The Ministry of Education and Training shall work out the frame program including the content structure of the subjects, the time of training, the rate of distribution of training time among the basic and specialized subjects, between theory, practice and experimentation. On the basis of the frame program, the college and university shall determine the program of education for their school.
2. For post-university education:
a/ The content of post-university education must help the learners develop and complete their knowledge in fundamental science and specialized knowledge, the subjects of Marxism-Leninism and Ho Chi Minh Thought; develop their creative capacity and their capacity to detect and solve questions of the specialties of their training, acquire the capacity to contribute to the development of science and technology and to social-economic development of the country.
Master degree training must ensure that the learners can complement and raise the knowledge they have learned at the university degree, increase their multi-discipline knowledge, have the necessary capacity to carry out their specialized work and scientific research in their specialty.
Doctor degree training must ensure that the post-graduates raise and complete their fundamental knowledge, have deep understanding of their specialty and are able of conducting independently and creatively scientific research in their specialty.
b/ The method of training masters is carried out by the combination of in-class learning with self-teaching, independent research, giving importance to developing the capacity to practice, the capacity of discovery and the settlement of professional matters.
The method of training doctors is carried out chiefly through self-teaching and independent research under the guidance of teachers, and scientists, giving importance to the habit of scientific research, developing creative thinking in discovery and settling professional matters.
c/ The content of the method of education in the subjects, specialized subjects, treatises and theses shall be prescribed by the Ministry of Education and Training.
Article 37.- College and university curricula
1. The college and university curricula must reflect the objective and principle of education, concretize the content and method of education defined in the training program of the colleges and universities.
2. The State adopts policies to ensure that all colleges and universities have the necessary curricula.
3. The Ministry of Education and Training shall organize the compilation and ratifying of curricula used for both the colleges and universities. The Headmasters of the colleges and universities shall organize the compilation and ratifying of the curricula for different specialties of each school on the basis of the Curriculum Examination Council set up by the Headmaster for use as official materials for teaching and study at the school.
Article 38.- Establishments for university and post university education
1. The establishments of university and post-university education comprise:
a/ Colleges to train college degree;
b/ Universities to train college and university degrees and the master and doctor degrees when assigned by the Prime Minister;
c/ Scientific research institutes train the doctor degree and coordinate with the university in training the master’s degree when assigned by the Prime Minister.
2. The concrete model for organization of different types of university shall be prescribed by the Government.
Article 39.- Diplomas of university and post-university education
1. Students having finished the college degree and qualifying as prescribed by the Ministry of Education and Training.
Students having finished the university program and having the conditions prescribed by the Ministry of Education and Training are eligible to sit for examinations and defend their projects and graduation theses and shall be granted the diploma of college degree if they get the pass.
The university graduation diploma of a technical branch is called engineer diploma, of the architecture branch is called architect diploma, of the medical branch is called medical doctor diploma or pharmacist diploma, of the fundamental sciences, teacher’ training, jurisprudence and economy is called bachelor diploma. For the other branches it is called university diploma.
2. Learners who have finished the program of training masters and who meet the conditions prescribed by the Ministry of Education and Training are eligible to defend their theses and if they pass shall be issued the master’s diploma.
Post-graduates who have finished the program of doctor training and who meet the conditions prescribed by the Ministry of Education and Training are eligible to defend their theses and if they meet the requirements shall be issued the doctorate diploma.
3. The Minister of Education and Training shall issue the doctorate diploma.
For the diplomas of masters and diplomas of university graduation and masters degree, the Headmaster of the school shall issue diplomas of such degree as it is allowed to train.
4. The Government shall provide for post-university diplomas of a number of special branches.
SECTION 5. MODE OF NON-FORMAL EDUCATION
Article 40.- Non-formal education
Non-formal education is the mode of education to help everyone to work and learn at the same time and to learn continually all the life aimed at perfecting their personality, broadening their knowledge, elevating their cultural, specialization and professional standard in order to improve the quality of life, find a job and adapt to social life.
Article 41.- Requirements for content and method of non-formal education
1. The content of non-formal education shall be reflected in the following programs:
a/ Program of eradication of illiteracy and further education after literacy;
b/ Program of complementary training, periodical fostering and fostering to raise the standard and upgrade knowledge and know-how;
c/ Educational program to meet the demand of the learner;
d/ Educational program to get the diploma of the national educational system in the form of learning while working, correspondence education and self teaching with guidance.
2. The educational content of the programs defined at Points a, b and c, Item 1 of this Article must ensure the practicality to help the learners raise their labor capacity, production and working capacity and quality of life.
The educational content of the educational program stipulated at Point d, Item 1 of this Article must conform with the regulations of the Ministry of Education and Training.
3. The method of non-formal education must develop the initiative role and exploit the experience of the learner and give importance to fostering his/her self-teaching capacity.
Article 42.- Establishments of non-formal education
1. The establishments of non-formal education comprises:
a/ Permanent education centers;
b/ Non-formal education is also carried out at the general education and vocational secondary schools, job training centers, colleges and universities, and through the mass media.
The formal education establishments which conduct educational programs in the method of non-formal education must assure their training task; non-formal education can be conducted only for the programs stipulated at Point d, Item 1, Article 41 of this Law and conducted in the formal system with the permission of the competent State educational authority.
2. The centers of permanent education shall not carry out educational programs for diplomas of vocational secondary education and the diplomas of college and university education.
Article 43.- Diplomas and certificates of non-formal education
1. Learners of educational programs stipulated in Point d, Item 1, Article 41 of this Law are eligible to sit for examination for the graduation diplomas if they fill the following conditions:
a/ They have registered at an educational establishment competent to train the corresponding grade, level or degree;
b/ They have finished the program and meet all the conditions on checking the result of learning and are certified by the educational establishment at the place of registration to be fully qualified to sit for examination as prescribed by the Ministry of Education and Training.
2. Learners having finished the educational programs prescribed at Points a, b and c, Item 1, Article 41 of this Law and meeting the conditions prescribed by the Ministry of Education and Training are eligible to attend the test and shall be issued certificates of non-formal education if they get the pass.
3. Learners having finished the educational program stipulated in Point d, Item 41 of this Law, are eligible for the examinations if they meet all the conditions prescribed by the Ministry of Education and Training. If they get the pass they shall be issued the graduation diplomas of the mode of non-formal education. This mode must be specified on the diplomas. If they meet all the conditions prescribed for a graduation examination in the formal system they shall be qualified to attend the examinations and if they get the pass they shall be issued the graduation diplomas of this formal system.
4. The competence of issuing diplomas of non formal education is prescribed like the competence of issuing diplomas of formal education.
5. The Director of the non-formal educational center shall issue the certificate of non-formal education.
Tình trạng hiệu lực: Hết hiệu lực