Bố cục Mắc mưu Thị Hến hay, chính xác nhất - Cánh diều

Với Bố cục Mắc mưu Thị Hến Ngữ văn lớp 10 hay, chính xác nhất sách Cánh diều giúp học sinh nắm được trọng tâm văn bản Mắc mưu Thị Hến từ đó học tốt môn Ngữ văn 10.

1 3201 lượt xem
Tải về


Bố cục Mắc mưu Thị Hến - Ngữ văn lớp 10 Cánh diều

A. Bố cục Mắc mưu Thị Hến

- Phần 1: từ đầu đến ... “sẽ bày tự tình”: Nghêu và Thị Hến

- Phần 2: tiếp đến ... “hễ phá giới tức hành trảm quyết”: Đề Hầu và Thị Hến

- Phần 3: tiếp đến... “giữ dạ đừng ham của lạ”: Huyện Trìa, Đề Hầu và Thị Hến

- Phần 4: còn lại: Kết thúc vở tuồng.

B. Nội dung chính Mắc mưu Thị Hến

Thị Hến đã hẹn Nghêu tối đến nhà, nhưng lại cho mời cả Huyện Trìa và Đề Hầu cùng đến. Thị Hến dùng mưu dụ cả ba cùng xuất đầu lộ diện và bị một phen bẽ mặt.

C. Tóm tắt Mắc mưu Thị Hến

Tóm tắt Mắc mưu Thị Hến (mẫu 1)

Ốc và Ngao rủ nhau đi ăn trộm nhà phú hộ Trùm Sò. Chúng đem bán tang vật cho Thị Hến. Lý Hà phát hiện của gian trói Thị Hến lên quan huyện xét xử. Bởi vì quan huyện và thầy Đề u mê trước vẻ đẹp của nàng nên đã tha bổng cho Thị Hến. Nghêu là một thầy tu phá giới, sa đọa cũng có ý với Hến. Hến cho mời cả ba đến nhà vào một buổi tối, và đã dùng mưu, tại đây đã diễn ra một cuộc hội ngộ đầy bẽ bàng và nhục nhã.

Tóm tắt Mắc mưu Thị Hến hay, ngắn nhất | Ngữ văn lớp 10 Cánh diều

D. Tác giả, tác phẩm Mắc mưu Thị Hến

I. Tác phầm Mắc mưu Thị Hến (Trích tuồng Nghêu, Sò, Ốc, Hến)

1. Thể loại: Tuồng

- Nghêu, Sò, Ốc, Hến thuộc loại tuồng đồ (tuồng hài), châm biếm sâu sắc nhiều thói tật trong xã hội và lật tẩy bộ mặt xấu xa của một số kẻ thuộc bộ máy cai trị ở địa phương trong xã hội xưa.

- Đây là tác phẩm tiêu biểu nhất trong di sản tuồng truyền thống và là vở tuồng đồ thuộc loại đặc sắc nhất.

2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác: Văn bản Nghêu, Sò, Ốc, Hến do Hoàng Châu Kỳ chỉnh lí (1957) gồm có tất cả 3 hồi.

3. Tóm tắt tác phầm Mắc mưu Thị Hến (Trích tuồng Nghêu, Sò, Ốc, Hến): Thị Hến đã hẹn Nghêu tối đến nhà, nhưng lại cho mời cả Huyện Trìa và Đề Hầu cùng đến. Thị Hến dùng mưu dụ cả ba cùng xuất đầu lộ diện và bị một phen bẽ mặt.

II. Tìm hiểu chi tiết tác phầm Mắc mưu Thị Hến (Trích tuồng Nghêu, Sò, Ốc, Hến)

1. Bối cảnh đoạn trích

- Không gian và thời gian trong đoạn trích Mắc mưu Thị Hến là không gian hẹp chỉ có từ nhà thị Hến ra đến cửa khi có người đến, thời gian là trời tăm tối.

2. Yếu tố tạo nên tiếng cười

- Yếu tố tạo ra tiếng cười trong đoạn trích trên xuất phát từ ngôn ngữ hành động của nhân vật Nghêu, Nghêu được biết đến là ông bói mù, với những câu nói hài hước, tếu táo.

- Nghêu đến nhà Thị Hến để tán tỉnh nàng nhưng chưa kịp làm gì thì thấy Đề Hầu gõ cửa đến. Khi ấy lão sốt vó lo lắng, hoang mang, sợ hãi đã nhanh chóng để tìm chỗ trốn “Trốn chỗ nào khác chỉ cho min/ (Chớ) Ra cửa có thầy Đề đứng đó! Sợ bị phát hiện Nghêu đã chui xuống gầm phản nhà Hến.

=> Hành động của kẻ nhút nhát, sợ sệt. Nhưng rồi khi nghe Huyện Trìa nói về việc “Phàm tu hành mà đã xuất gia/ Có phá giới đánh đòn phát lạc” thì Nghêu đã chui từ gầm phản ra và thay đổi bộ mặt vui vẻ để lấy lòng, còn nịnh hót khen những lời của Huyện Trìa là đúng đắn khác hoàn toàn so với lúc đầu khi Đề Hầu đến, Nghêu đã lật mặt thay đổi cảm xúc tuy vẫn còn run sợ nhưng hắn lại ngon ngọt.

=> Tác giả đã rất thành công trong việc dùng ngôn ngữ hành động để tạo tiếng cười.

3. Ý nghĩa

- Thể hiện thái độ phê phán, châm biếm với các nhân vật qua các hành động, ngôn ngữ.

- Tác giả phơi bày cho ta thấy những thói hư tật xấu, bộ mặt tham lam giả dối, hèn nhát với những dục vọng tầm thường của tầng lớp cường hào ác bá phong kiến.

- Còn đối với Hến - người đàn bà góa ta lại thấy trong cô có sự khao khát được hạnh phúc, được bảo vệ, Hến trẻ trung, thông minh có, xinh đẹp nhưng trong mắt mọi người nàng lại lẳng lơ, điêu ngoa.

=> Tất cả đã được tác giả dân gian khắc họa đầy đủ diện mạo bức tranh làng quê phong kiến buổi suy tàn.

E. Đọc tác phẩm Mắc mưu Thị Hến

[…]

THẦY NGHÊU:

– Trời tăm tối đi hầu bố ngửa,

Cây bụi bờ rờ chẳng ra đường.

(Này! Này, Thím ơi! Mỗ đã sang. Mở cửa mình vào với!)

THỊ HẾN:

- Chào thầy mới tới

Trà nước vội vàng.

Đành lòng đây đó giao duyên

(Nhưng) Sợ nỗi thế gian đàm tiếu (thôi.)

THẦY NGHÊU:

– Vốn đà trước liệu

Lọ phải sau lo

Kệ kinh chuông mõ trả cho chùa

Cày, cấy, đâm, xay đành phận mỗ.

(Này này!) Khuyên cùng với đó,

Chớ khá phụ đây,

Tuy làm vầy cũng tiếng ông thầy,

Ở như vậy uổng tài bà goá.

(Tiếng Đề Hầu kêu cửa)

THỊ HẾN:

(-Ủa!)

Tiếng ai kêu chỉ lạ

Hay là thầy Lại đến đây?

(Này! Này! Mô Phật!)

Đi ra kẻo tội với thầy,

Ở đó ắt tại trước mắt! (Chớ chẳng chơi đâu!).

THẦY NGHÊU:

Lão Đề Lại làm chi quá ngặt,

Khiến thầy tu chạy đã hầu điên.

(Thím oi! Thím!)

Trốn chỗ nào khác chỉ cho min!

(Chớ) Ra cửa có thầy Đề đứng đó!

THỊ HẾN:

- Dưới phản ngựa thầy mau xuống đó.

(Để tôi) Ra ngõ mời người đặng vào đây,

Dầu chuyện chỉ chịu khó một giây,

(Để) Người về đã, sẽ vầy hai mặt.

(Thầy Nghêu chui xuống gầm phản, Đề Hầu vào)

Lại nói — Thưa thầy!

Nghe kêu lật đật,

Mở cửa vội vàng

Thỉnh lại gia trang,

Sẽ bày tình tự.

ĐỀ HẦU:

- Ơn mỗ cứu cho bữa trước

Nay nường còn nhớ chưa quên?

Sao đã cùng ông Huyện kết duyên,

Mà vội phụ thầy Đề tình ngãi, (hử?)

THỊ HẾN:

– Xin thầy hãy nghĩ lại

Quan huyện dạy (tôi) phải vâng,

Đành đôi ta là cái duyên hằng

(Thế mà) Không nghe đó, sao cho nên việc, (thưa thầy?)

ĐỀ HẦU:

– Phải lắm! Thế mới biết

Đèn không khêu không tỏ,

Chuông không đánh không kêu.

(Ta nói thiệt) Đó không thương đây cũng quyết liều,

(Chừ) Duyên đã khẳn nàng tua giữ dạ.

THỊ HẾN:

– Ái ân việc còn thong thả,

Rượu trà xin hãy vui chơi

Chẳng mấy khi dặng hiệp một nơi

Bây giờ đã gặp nhau hai mặt

(Chừ có việc này)

Tôi xin hỏi thiệt, thầy khá tỏ bày!

Thầy hằng xem luật lệ xưa nay,

Tu (mà) phá giới tội chi khinh trọng, (thưa thầy?)

ĐỀ HẦU:

– Lỗ tai nghe quá chướng

Trong luật lệ rất to,

Hễ phá giới tức hành trảm quyết!

(Huyện Trìa tới)

HUYỆN TRÌA:

(nói ngoài cửa)

– Viên ngoại diễu văn tế thuyết

Môn tiền hữu ngã quan nhon

Mỏ của ra! Mau tiếp đại tân!

Ở mụ! Kíp kíp ra mời quan Huyện, (nào!)

ĐỀ HẦU:

(- Chui chao!)

Văn ngôn sắc biến! Sắc biến!

Thính thuyết hồn kinh! Hồn kinh!

Nếu mà ông Huyện tri tình,

Chắc hẳn thầy Đề mang khổ

(Thầy Đề trốn, ông Huyện vào)

HUYỆN TRÌA:

– Việc thuế má, án từ quá gấp

Đêm tối tăm đường xá (lại) khó đi!

Tưởng mụ đà tới lúc ngủ khi

Làm mỗ chạy ướt hầu bổ sắp.

Khi sớm, tối đợi mình khổ lắm

Từ rày xin tới mụ cho liên

Gẫm đà phải nợ phải duyên,

Thôi chó làm hòn, làm giận, (nữa mà!)

THỊ HẾN:

- Nghĩ mà tủi phận

Đâu dám trách ai

(Nhưng tôi nghĩ lại, như ông)

Vợ còn, còn sẵn, thiếu chi

(Mà buộc tôi không đặng?)

Trai quá gái không thường lệ

(Tôi cũng) Cam phận thiếp muối trường cơm tẻ.

(Nhưng mà tôi)

E chánh thể cả tiếng nhiều lời (đó thôi!)

(Cho nên tôi)

Lánh một xó, lọ một nơi

Khó trối thây, giàu ai chẳng lụy!

HUYỆN TRÌA:

(-Ui chao! Chừ)

Ta nghỉ ngơi kẻo mệt,

Nói dài lắm cũng buồn

Khuyên khuyên đừng chớ làm tuồng

Bớt bớt xin đừng nói bợm!

THỊ HẾN:

– Sợ gan ruột đàn ông nhiều lớp

Việc nợ duyên dễ thiếp mấy nơi?

Rượu trà hãy xin mời,

Ái ân rồi có đó.

(Bây giờ tôi xin nhờ quan)

Vốn tôi chưa rõ,

Xin hói một lời:

Người từng xem luật lệ nơi nơi

(Là) Có một việc ở đòi lạ

Rầy có chú thầy tu rất chạ

Hay đến nhà mà ve bà goá;

Đã xuất gia phá giới làm vơ,

Thời luật pháp xử chỉ cho rõ?

HUYỆN TRÌA:

(-Uẩy!)

Nói làm chi việc rối

Ai có tiếc làm chi.

Phàm tu hành mà đã xuất gia,

Có phá giới đánh đòn phát lạc!

THẦY NGHÊU:

(Từ gầm giường bò ra)

ĐỀ HẦU:

– Tâm khoái lạc! Tâm khoái lạc!

Thiện xử phân! Thiện xử phân!

(Bẩm quan lớn, lời quan dạy rất minh, chứ thầy Đề ngồi trong

thúng mơ kia nói mới ức chó! Bẩm quan lớn!)

Chơn vi phụ mẫu chỉ dân.

(Chứ thầy Đề)

Chỉ thị dâm ô chi loại!

Như thầy tu phá giới,

Thời bất quá đánh đòn,

Còn thầy Lại phạm giam

Thật ắt là tội chết!

ĐỀ HẦU:

(Lồm cồm bò ra)

– Đầu đuôi tại mụ Hến,

Mưu mẹo bởi lão thầy tu.

Rày quan Huyện trớ trêu,

Mắc đàn bà quá tội.

Tôi cam chịu lỗi

Ai biết mà chê

Trong nha môn từ Huyện đến Đề

Còn tạo lệ không mời luôn thể!

HUYỆN TRÌA:

- Thầy Lại làm nên quá tệ,

Như nhà sư bắt chước cố trêu.

Mắc cỡ lêu lêu!

Lêu lêu mắc cố!

not on they tạo

Rất nên quái gở,

Làm việc lăng nhăng

Hễ miếng to bây quyết kiếm ăn,

Còn đồ vặt bay làm sạch trụi.

Thầy Tu khá lui về cho khỏi

Để Lại mau cõng mỗ về nhà.

Dằn lòng thôi chó ngứa nghề,

Giữ dạ đừng tham của lạ.

(Hạ)

THỊ HẾN:

– Tâm khoái dã! Tâm khoái dã!

Kế hoan nhiên! Kế hoạn nhiên!

Thế thầy tu hết tới ngõ nói điên,

Rày quan huyện hết đến nhà làm bậy.

Giữ tiết hạnh một đường cho loại

Nỗi nhơn duyên đôi chữ không màng

(Hạ)

Xem thêm các bài Bố cục Ngữ văn lớp 10 sách Cánh diều hay, ngắn gọn khác:

Bố cục Thị Mầu lên chùa

Bố cục Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội: Một hằng số văn hóa Việt Nam

Bố cục Lễ hội Đền Hùng

Bố cục Lễ hội dân gian đặc sắc của dân tộc Chăm ở Ninh Thuận

Bố cục Nguyễn Trãi - người anh hùng dân tộc

1 3201 lượt xem
Tải về


Xem thêm các chương trình khác: