SBT Ngữ văn 7 Thiên nhiên và con người trong truyện Đất rừng phương Nam - Cánh diều

Với giải sách bài tập Ngữ Văn lớp 7 Thiên nhiên và con người trong truyện Đất rừng phương Nam sách Cánh diều hay nhất, chi tiết sẽ giúp học sinh dễ dàng làm bài tập trong SBT Ngữ Văn 7.

1 1,129 08/08/2022
Tải về


Giải SBT Ngữ văn 7 Thiên nhiên và con người trong truyện Đất rừng phương Nam - Cánh diều

Câu 1 trang 29 SBT Ngữ Văn lớp 7 Tập 1: Vì sao văn bản Thiên nhiên và con người trong truyện “Đất rừng phương Nam” là văn bản nghị luận?

Trả lời:

- Văn bản Thiên nhiên và con người trong truyện “Đất rừng phương Nam” là văn bản nghị luận vì: văn bản thuyết phục người đọc về vấn đề về thiên nhiên và con người được nhà văn Đoàn Giỏi khắc họa trong truyện Đất rừng phương Nam.

- Giá trị nhận thức: Tác phẩm mang lại cho người đọc những hiểu biết về thiên nhiên, cảnh vật, con người Nam Bộ đồng thời cũng nhận ra những gì mình chưa biết, chưa hiểu hết và điều mình yêu thích về vùng đất phương Nam.

Câu 2 trang 29 SBT Ngữ Văn lớp 7 Tập 1: Bài Thiên nhiên và con người trong truyện “Đất rừng phương Nam” (Bùi Hồng) khác truyện Đất rừng phương Nam (Đoàn Giỏi) ở điểm nào?

A. Viết về vùng đất giàu đẹp tận cùng phía nam Tổ quốc.

B. Viết về con người và đất rừng Cà Mau, Nam Bộ.

C. Viết về giá trị của truyện Đất rừng phương Nam

D. Viết về những phẩm chất cao đẹp của con người Nam Bộ

Trả lời:

Đáp án đúng là B.

Viết về con người và đất rừng Cà Mau, Nam Bộ.

Câu 3 trang 29 SBT Ngữ Văn lớp 7 Tập 1: (Câu hỏi 3, SGK) Trong phần (3), tác giả đã so sánh hai nhân vật: ông Hai bán rắn và chú Võ Tòng. Dựa vào bài viết, em hãy chỉ ra những điểm giống nhau và khác nhau giữa hai nhân vật này.

Trả lời:

- Giống nhau: Hai người đều không có đất, quanh năm ở đợ làm thuê cho địa chủ. Bị chúng cướp công, cướp người yêu, cướp vợ. Họ đánh trả và bị tù.

- Khác nhau:

+ Ông Hai bán rắn – tía nuôi An - trốn tù, đón vợ rồi bỏ vào rừng U Minh.

+ Chú Võ Tòng gây án, chú tự đến nhà việc nộp mình. Mãn hạn tù trở về, con chết, vợ trở thành vợ nhỏ chủ đất. Chú vào rừn làm nghề săn bắt thú.

Câu 4 trang 29 SBT Ngữ Văn lớp 7 Tập 1: (Câu hỏi 4, SGK) Theo em, mục đích chính của văn bản nghị luận trên là gì? Nội dung của các phần trong văn bản đã làm rõ được mục đích ấy như thế nào?

Trả lời:

- Mục đích chính của văn bản nghị luận trên là làm rõ ý kiến “Đất rung phương Nam đã nói được cái tinh túy của hồn đất, hồn người một vùng châu thổ Cửu Long Giang.”

- Nội dung các phần của văn bản đã liên kết với nhau để làm rõ cho mục đích nghị luận của tác giả.

Câu 5 trang 29 SBT Ngữ Văn lớp 7 Tập 1: (Câu hỏi 6, SGK) Văn bản Thiên nhiên và con người trong truyện "Đất rừng phương Nam" đã giúp em hiểu văn học góp phần mở rộng kiến thức về con người và thế giới xung quanh như thế nào?

Trả lời:

Kết quả đọc hiểu một văn bản cho thấy giá trị nhận thức của văn học. Nghĩa là qua việc đọc tác phẩm, người đọc có thêm những hiểu biết về con người và cuộc sống. Vấn đề này đã nêu lên trong phần Kiến thức ngữ văn. Nội dung chính cần làm rõ là vì sao có thể nói như vậy. Có thể nói, qua tác phẩm của Đoàn Giỏi, người viết (Bùi Hồng) thấy được vẻ đẹp của con người và thiên nhiên đất rừng phương Nam; còn chúng ta, qua cả tác phẩm của Đoàn Giỏi và bài viết của Bùi Hồng, mà hiểu thêm được những kiến thức về con người và cuộc sống xung quanh, cụ thể ở đây là con người và thiên nhiên Nam Bộ.

Câu 6 trang 29 SBT Ngữ Văn lớp 7 Tập 1: Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:

          Đoàn Giỏi đã từng viết một loạt sách về các con vật trên rừng, dưới biển, trong đó mỗi con (hổ, cá sấu, voi, …), ông đều kể đến trên dưới 50 trang sách. Không phải chỉ có kiến thức về loài, họ, thói quen sinh thái, … mà phần nhiều là những mẩu chuyện có thật, sinh động xen lẫn những huyền thoại có xuất xứ hẳn hoi. Trong “Đất rừng phương Nam”, ông chỉ sử dụng một phần rất nhỏ vốn sống phong phú đó mà đã làm người đọc đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác: ba ba to bằng cái nia, kì đà lớn hơn chiếc xuồng tam bản, cá sấu phải 12 trai tráng lực lưỡng mới khiêng nổi. Người đọc không chỉ ngạc nhiên mà còn thấm đẫm cảm xúc, bởi Đoàn Giỏi là một nhà thơ, một “thi sĩ của đất rừng phương Nam” (ý của Trần Đình Nam). Đó là cảm giác ngây ngất trước vẻ đẹp rừng U Minh dưới ánh Mặt Trời vàng óng: “Những thân cây tràm vỏ trắng vươn thẳng lên trời, chẳng khác gì những cây nến khổng lồ, đầu lá rủ phất nhơ như những đầu lá liễu bạt ngàn. Từ trong biển lá xanh rờn đã bắt đầu ngả sang màu úa, ngát dậy một mùi hương lá tràm bị hun nóng … tiếng chim không ngớt vang ra, vọng mãi lên trời cao xanh thẳm không cùng …”. Và nỗi rợp ngợp trước dòng sông Năm Căn: “nước ầm ầm đổ ra biển ngày đêm như thác, cá nước bơi hàng đàn đen trũi nhô lên hụp xuống như người bơi ếch giữa những đầu sóng trắng … con sông rộng hơn ngàn thước, trông hai bên bờ, rừng đước dựng lên cao ngất như hai dãy trường thành vô tận …”.

a. Đoạn văn cho biết nhà văn Đoàn Giỏi có sở trường viết về đề tài gì? Chi tiết, câu văn nào cho biết điều đó?

b. Dẫn ra một số câu văn nêu lên lí lẽ và dẫn chứng của tác giả Bùi Hồng trong đoạn trích trên.

c. Tại sao một số câu của đoạn trích lại phải đặt trong dấu ngoặc kép?

Trả lời:

a) Ngay câu mở đầu, tác giả đã cho biết nhà văn Đoàn Giỏi có sở trường viết về đề tài “các con vật trên rừng, dưới biển”, mỗi con vật ông đều “kể đến trên dưới 50 trang sách”.

b) Một số câu nêu lên lí lẽ và dẫn chứng của tác giả Bùi Hồng trong đoạn trích:

Lí lẽ

Dẫn chứng

Trong Đất rừng phương Nam, ông chỉ sử dụng một phần rất nhỏ vốn sống phong phú đó mà đã làm người đọc đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác.

Ba ba to bằng cái nia, kì đà lớn hơn chiếc xuồng tam bản, cá sấu phải 12 trai tráng lực lưỡng mới khiêng nổi.

Người đọc không chỉ ngạc nhiên mà còn thấm đẫm cảm xúc, bởi Đoàn Giỏi là một nhà thơ, một “thi sĩ của đất rừng phương Nam”.

Đó là cảm giác ngây ngất trước vẻ đẹp rừng U Minh dưới ánh Mặt Trời vàng óng: Những thân cây tràm vỏ trắng vươn thẳng lên trời, chẳng khác gì những cây nến khổng lồ, …

Và nỗi rợn ngợp trước dòng sông Năm căn: …

c) Trong một văn bản, khi trích dẫn lời văn của người khác (ở đây là các câu văn của Đoàn Giỏi) để làm bằng chứng cho lí lẽ thì người viết phải đặt trong dấu ngoặc kép.

Xem thêm các bài giải sách bài tập Ngữ Văn lớp 7 sách Cánh diều hay, chi tiết khác:

Vẻ đẹp của bài thơ Tiếng gà trưa

Sức hấp dẫn của tác phẩm Hai vạn dặm dưới đáy biển

Bài tập tiếng Việt trang 33

Bài tập viết trang 34

1 1,129 08/08/2022
Tải về


Xem thêm các chương trình khác: