Chương II Thông tư 11/2021/TT-BYT: Yêu cầu về dữ liệu lâm sàng để bảo đảm an toàn, hiệu quả và tiêu chí xác định trường hợp miễn một, một số giai đoạn thử vắc xin trên lâm sàng, vắc xin phải thử lâm sàng giai đoạn 4 tại việt nam
Số hiệu: | 11/2021/TT-BYT | Loại văn bản: | Thông tư |
Nơi ban hành: | Bộ Y tế | Người ký: | Trương Quốc Cường |
Ngày ban hành: | 19/08/2021 | Ngày hiệu lực: | 19/08/2021 |
Ngày công báo: | *** | Số công báo: | |
Lĩnh vực: | Thể thao, Y tế | Tình trạng: |
Hết hiệu lực
01/01/2023 |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
1. Yêu cầu về dữ liệu lâm sàng để bảo đảm an toàn, hiệu quả trong hồ sơ đăng ký lưu hành vắc xin thực hiện theo quy định tại điểm a, điểm b khoản 1 Điều 13 Thông tư số 32/2018/TT-BYT.
2. Đối với vắc xin đăng ký được sản xuất tại địa điểm sản xuất hoặc cơ sở sản xuất khác với vắc xin dùng trong thử nghiệm lâm sàng, cơ sở được sử dụng dữ liệu lâm sàng của vắc xin dùng trong thử nghiệm lâm sàng và chứng minh việc thay đổi địa điểm sản xuất hoặc cơ sở sản xuất không ảnh hưởng tới tiêu chuẩn chất lượng của vắc xin. Trường hợp cơ sở đăng ký hoặc cơ sở sản xuất không phải là chủ sở hữu hoặc không thuộc cùng tập đoàn với chủ sở hữu dữ liệu lâm sàng thì phải được chủ sở hữu cho phép sử dụng dữ liệu lâm sàng.
Sau khi được cấp giấy đăng ký lưu hành, cơ sở đăng ký phối hợp với cơ sở sản xuất tiếp tục đánh giá tính an toàn, tính sinh miễn dịch trên quần thể đích tại Việt Nam trong quá trình sử dụng theo hướng dẫn của Bộ Y tế (Cục Khoa học công nghệ và Đào tạo) đối với các vắc xin chưa được cấp phép lưu hành bởi cơ quan quản lý dược chặt chẽ (Strengthening Regulatory Authorities - SRA) quy định tại khoản 10 Điều 2 Thông tư số 32/2018/TT-BYT.
3. Vắc xin phòng Covid-19 sản xuất trong nước đang thực hiện thử lâm sàng nhưng đã có kết quả đánh giá giữa kỳ giai đoạn 3 về tính an toàn và hiệu quả bảo vệ của vắc xin dựa trên dữ liệu về tính sinh miễn dịch của vắc xin được sử dụng để xem xét cấp giấy đăng ký lưu hành có điều kiện trên cơ sở ý kiến tư vấn của Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học cấp quốc gia đối với vắc xin thực hiện thử lâm sàng tại Việt Nam và ý kiến tư vấn của Hội đồng tư vấn cấp giấy đăng ký lưu hành thuốc, nguyên liệu làm thuốc đối với từng vắc xin cụ thể, có tham khảo hướng dẫn hoặc khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới (World Health Organization - WHO).
Vắc xin được cấp trong trường hợp trên phải được tiếp tục theo dõi về tính an toàn, hiệu quả, kiểm soát về đối tượng, số lượng, phạm vi sử dụng sau khi cấp giấy đăng ký lưu hành.
Sau khi được cấp phép lưu hành, cơ sở đăng ký phối hợp với cơ sở sản xuất tiếp tục thực hiện nghiên cứu lâm sàng và cập nhật dữ liệu lâm sàng theo hướng dẫn của Bộ Y tế (Cục Khoa học công nghệ và Đào tạo).
Vắc xin đã được cấp giấy đăng ký lưu hành tại Việt Nam khi có các thay đổi, bổ sung liên quan đến dữ liệu lâm sàng so với hồ sơ đăng ký vắc xin đã được phê duyệt, cơ sở đăng ký phải bổ sung dữ liệu lâm sàng theo quy định tại Phụ lục II ban hành kèm theo Thông tư số 32/2018/TT-BYT hoặc phù hợp với hồ sơ kỹ thuật chung ICH-CTD (International Council for Harmonisation of Technical Requirements for Pharmaceuticals for Human Use (ICH) - Common Technical Document (CTD)) hoặc một trong các hướng dẫn của Cơ quan Quản lý Dược và Thực phẩm Mỹ (United States Food and Drug Administration - USFDA), Cơ quan quản lý Dược phẩm Châu Âu (European Medicines Agency - EMA), Cơ quan quản lý thuốc và các sản phẩm y tế của Vương quốc Anh (Medicines and Healthcare products Regulatory Agency - MHRA) hoặc Tổ chức Y tế thế giới (WHO).
Vắc xin chưa đáp ứng quy định tại khoản 1 Điều 11 Thông tư này được Bộ trưởng Bộ Y tế xem xét quyết định miễn một, một số giai đoạn thử thuốc trên lâm sàng (bao gồm cả miễn giảm dữ liệu lâm sàng) trên cơ sở ý kiến tư vấn của Hội đồng tư vấn cấp giấy đăng ký lưu hành thuốc, nguyên liệu làm thuốc khi thuộc một trong các trường hợp sau:
1. Vắc xin đã được cấp phép lưu hành tại ít nhất một nước trên thế giới và có dữ liệu lâm sàng về an toàn, hiệu quả.
Trường hợp cơ quan quản lý dược của nước đã cấp phép lưu hành không thuộc một trong các cơ quan quản lý quy định tại khoản 10 Điều 2 Thông tư số 32/2018/TT-BYT, sau khi được cấp giấy đăng ký lưu hành, cơ sở đăng ký phối hợp với cơ sở sản xuất phải tiếp tục đánh giá tính an toàn và tính sinh miễn dịch trên quần thể đích tại Việt Nam trong quá trình sử dụng theo hướng dẫn của Bộ Y tế (Cục Khoa học công nghệ và Đào tạo).
2. Vắc xin được sản xuất tại Việt Nam theo hình thức chuyển giao công nghệ một, một số hoặc toàn bộ các công đoạn của quy trình sản xuất thành phẩm mà vắc xin trước chuyển giao công nghệ có dữ liệu lâm sàng về an toàn, hiệu quả đã được cấp phép lưu hành tại ít nhất một nước trên thế giới.
Trên cơ sở ý kiến tư vấn của Hội đồng tư vấn cấp giấy đăng ký lưu hành thuốc, nguyên liệu làm thuốc, vắc xin đã được cấp giấy đăng ký lưu hành nhưng cần đánh giá thêm về an toàn, hiệu quả thì phải thử lâm sàng giai đoạn 4 tại Việt Nam.
REQUIREMENTS FOR CLINICAL DATA TO ENSURE SAFETY AND EFFECTIVENESS, ELIGIBILITY FOR EXEMPTION FROM ONE OR MORE THAN ONE CLINICAL TRIAL PHASE, AND VACCINES REQUIRING PHASE 4 CLINICAL TRIAL IN VIETNAM
Article 11. Regulations on clinical data in applications for vaccine marketing authorization
1. Requirements for clinical data for safety and effectiveness assurance in applications for vaccine marketing authorization are provided in Points a and b Clause 1 Article 13 of Circular No. 32/2018/TT-BYT.
2. For vaccines manufactured at a manufacturing site or manufacturing facility different from where vaccines used in the clinical trial are manufactured, applicants may use clinical data of vaccines used in the clinical trial and shall prove that the change of manufacturing site or manufacturing facility does not affect vaccine quality. If the applicant or manufacturing facility does not own clinical data or is not affiliated to the same corporation as the clinical data owner, clinical data must be used with permission from its owner.
After being granted marketing authorization, the applicant shall cooperate with the manufacturing facility in further evaluating vaccine safety and immunogenicity on the target population in Vietnam during use according to guidelines of the Ministry of Health (Administration of Science Technology and Training) if the vaccine has not been authorized by a Strengthening Regulatory Authority (SRA) mentioned in Clause 10 Article 2 of Circular No. 32/2018/TT-BYT.
3. For vaccines which are manufactured in Vietnam and undergoing clinical trials, if phase 3 interim assessment results for safety and protection effectiveness based on immunogenicity data are available, these results may be used to apply for conditional granting of marketing authorization based on advice of the national research ethics committee (for drugs and vaccines undergoing clinical trials in Vietnam) and advice of the advisory board for each vaccine and with reference to WHO guidelines or recommendations.
Vaccines granted marketing authorization in the abovementioned cases are subject to further monitoring of their safety, effectiveness, recipients, dosage and scope of use after they are granted marketing authorization.
After granted marketing authorization, the applicant shall cooperate with the manufacturing facility in further clinical research and clinical data update in compliance with guidelines of the Ministry of Health (Administration of Science Technology and Training).
Article 12. Requirements for clinical data of vaccines granted marketing authorization in Vietnam upon revision of clinical data in approved vaccine registration applications
For vaccines granted marketing authorization in Vietnam, upon revision of clinical data in approved vaccine registration applications, applicants shall provide additional clinical data in compliance with regulations in Appendix II of Circular No. 32/2018/TT-BYT or ICH-CTD (International Council for Harmonisation of Technical Requirements for Pharmaceuticals for Human Use (ICH) - Common Technical Document (CTD)) or guidance of United States Food and Drug Administration (USFDA), European Medicines Agency (EMA), Medicines and Healthcare products Regulatory Agency (MHRA) or WHO.
Article 13. Exemption from one or more than one clinical trial phase when applying for marketing authorization
The Minister of Health may consider and decide to exempt vaccines not meeting the requirements mentioned in Clause 1 Article 11 herein from one or more than one clinical trial phase (including clinical data reduction or exemption) based on advice of the advisory board in any of the following cases:
1. The vaccine has been authorized by at least one country and has clinical data on its safety and effectiveness.
In case the pharmaceutical authority of the authorizing country is not one of the regulatory bodies mentioned in Clause 10 Article 2 of Circular No. 32/2018/TT-BYT, after granted marketing authorization, the applicant shall cooperate with the manufacturing facility in further assessing the vaccine’s safety and immunogenicity on the target population in Vietnam during use according to guidelines of the Ministry of Health (Administration of Science Technology and Training).
2. The vaccine is manufactured in Vietnam using transferred technology for one or more than one part of or the whole manufacturing process and, prior to the technology transfer, the vaccine has clinical data on safety and effectiveness and is authorized by at least one country.
Article 14. Cases requiring phase 4 clinical trial in Vietnam
Based on advice from the advisory board, vaccines granted marketing authorization but needing further safety and effectiveness assessment must undergo phase 4 clinical trial in Vietnam.