Chương 1 Pháp lệnh 04/2002/PL-UBTVQH11: Những quy định chung
Số hiệu: | 04/2002/PL-UBTVQH11 | Loại văn bản: | Pháp lệnh |
Nơi ban hành: | Ủy ban Thường vụ Quốc hội | Người ký: | Nguyễn Văn An |
Ngày ban hành: | 04/11/2002 | Ngày hiệu lực: | 15/11/2002 |
Ngày công báo: | 25/12/2002 | Số công báo: | Số 65 |
Lĩnh vực: | Bộ máy hành chính, Thủ tục Tố tụng | Tình trạng: | Còn hiệu lực |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
Các Toà án quân sự là những cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc hệ thống Toà án nhân dân được tổ chức trong Quân đội.
Trong phạm vi chức năng của mình, các Toà án quân sự có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ an ninh quốc phòng, kỷ luật và sức mạnh chiến đấu của Quân đội; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, tài sản, tự do, danh dự, nhân phẩm của quân nhân, công chức, công nhân quốc phòng và của các công dân khác.
Bằng hoạt động của mình, các Toà án quân sự góp phần giáo dục quân nhân, công chức, công nhân quốc phòng trung thành với Tổ quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, điều lệnh của Quân đội, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác.
a) Toà án quân sự trung ương;
b) Các Toà án quân sự quân khu và tương đương;
c) Các Toà án quân sự khu vực.
2. Căn cứ vào nhiệm vụ và tổ chức của Quân đội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập, giải thể Toà án quân sự quân khu và tương đương, Toà án quân sự khu vực theo đề nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao sau khi thống nhất với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Các Toà án quân sự có thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự mà bị cáo là:
1. Quân nhân tại ngũ, công chức, công nhân quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu; dân quân, tự vệ phối thuộc với Quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu và những người được trưng tập làm nhiệm vụ quân sự do các đơn vị quân đội trực tiếp quản lý;
2. Những người không thuộc các đối tượng quy định tại khoản 1 Điều này mà phạm tội có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho Quân đội.
Đối với những người không còn phục vụ trong Quân đội mà phát hiện hành vi phạm tội của họ đã được thực hiện trong thời gian phục vụ trong Quân đội hoặc những người đang phục vụ trong Quân đội mà phát hiện hành vi phạm tội của họ đã được thực hiện trước khi vào Quân đội, thì Toà án quân sự xét xử những tội phạm có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho Quân đội; những tội phạm khác do Toà án nhân dân xét xử.
Trong trường hợp vụ án vừa có bị cáo hoặc tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự, vừa có bị cáo hoặc tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân thì thẩm quyền xét xử được thực hiện như sau:
1. Trong trường hợp có thể tách vụ án thì Toà án quân sự xét xử những bị cáo và tội phạm theo quy định tại khoản 1 Điều 3 và Điều 4 của Pháp lệnh này; những bị cáo và tội phạm khác thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân;
2. Trong trường hợp không thể tách vụ án thì Toà án quân sự xét xử toàn bộ vụ án.
Toà án quân sự xét xử theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội; cá nhân, cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ trang nhân dân và các cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật.
1. Toà án quân sự thực hiện chế độ hai cấp xét xử.
Bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án quân sự có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng.
Bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn do pháp luật quy định thì có hiệu lực pháp luật. Đối với bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải được xét xử phúc thẩm. Bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật.
2. Đối với bản án, quyết định của Toà án quân sự đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới thì được xem xét lại theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm do pháp luật tố tụng quy định.
Bản án, quyết định của Toà án quân sự đã có hiệu lực pháp luật phải được các đơn vị vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế và mọi người tôn trọng.
Cá nhân, đơn vị, cơ quan, tổ chức có nghĩa vụ chấp hành bản án, quyết định của Toà án quân sự phải nghiêm chỉnh chấp hành.
Trong phạm vi chức năng của mình, các cơ quan, tổ chức được giao nhiệm vụ thi hành bản án, quyết định của Toà án quân sự phải nghiêm chỉnh thi hành và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ đó.
Trong trường hợp cần thiết, cùng với việc ra bản án, quyết định, Toà án quân sự ra kiến nghị yêu cầu thủ trưởng đơn vị vũ trang nhân dân, cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng biện pháp khắc phục nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm hoặc vi phạm pháp luật tại đơn vị, cơ quan, tổ chức đó. Thủ trưởng đơn vị vũ trang nhân dân, cơ quan, tổ chức nhận được kiến nghị có trách nhiệm nghiên cứu thực hiện và trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được kiến nghị phải thông báo cho Toà án quân sự về việc đó.
Cơ quan chính trị quân khu và tương đương mỗi năm một lần tổ chức hội nghị đại biểu quân nhân trong đơn vị mình và các đơn vị đóng quân trên địa bàn để nghe Toà án quân sự cùng cấp báo cáo hoạt động của Toà án quân sự và trả lời những câu hỏi của các đại biểu.
Toà án quân sự có trách nhiệm trả lời chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân về hoạt động của Toà án quân sự có liên quan đến địa phương.
Article 1.- The military courts are adjudicating bodies of the Socialist Republic of Vietnam, which belong to the system of people’s courts organized in the Army.
Within the scope of their functions, the military courts are tasked to protect the socialist legislation; to protect the socialist regime and the people’s mastery; to protect security and defense, discipline and combat strength of the Army; to protect the property of the State and collectives; to protect the lives, health, assets, freedom, honor, dignity of army men, defense employees and workers as well as of other citizens.
Through their activities, the military courts contribute to educating army men, defense employees and workers to be loyal to the Fatherland, to strictly abide by laws and the Army’s regulations, observe the rules of social life and to raise the sense of struggle to prevent and combat crimes as well as other law offenses.
1. The military courts include:
a) The Central Military Court;
b) The military courts of the military zone and the equivalent level;
c) The regional military courts.
2. Basing itself on the tasks and organization of the Army, the National Assembly Standing committee shall decide to set up or dissolve the military courts of the military zone and the equivalent level, and/or the regional military courts at the proposal of the chief judge of the Supreme People’s Court after reaching agreement with the Minister of Defense.
Article 3.- The military courts are competent to adjudicate criminal cases in which the defendants are:
1. Army men on active service, defense employees or workers, reserve army men being in the period of concentrated training or combat readiness inspection; militia or self-defense personnel detached to the Army for combat or combat services and persons summoned for military tasks and directly managed by army units.
2. The persons other than the subjects prescribed in Clause 1 of this Article, who commit offenses related to military secrets or causing damage to the Army.
Article 4.- For persons who are no longer in the Army but detected as having committed criminal acts while they were on active service in the Army or persons who are being on active service in the Army but detected as having committed criminal acts before they join the Army, the military courts shall adjudicate offenses related to military secrets or causing damage to the Army; other offenses shall be adjudicated by people’s courts.
Article 5.- Where a case involves defendants or criminals who are under the adjudicating jurisdiction of military courts and defendants or criminals who are under the adjudicating jurisdiction of people’s courts, the adjudicating jurisdiction shall be exercised as follows:
1. Where the case can be separated, the military court shall try the defendants and criminals prescribed at Clause 1, Article 3 and Article 4 of this Ordinance; the other defendants and criminals shall be under the adjudicating jurisdiction of the people�s courts;
2. Where the case cannot be separated, the military court shall adjudicate the entire case.
Article 6.- The regime of judge appointment shall apply to the military courts.
The regime of designation of army men’s jurors shall apply to the military courts of the military zone and equivalent level as well as the regional military courts.
Article 7.- The adjudication by the military courts of the military zone and equivalent level, and the regional military courts shall be participated by army men’s jurors as provided for by the procedural legislation. In adjudication, the army men’s jurors are equal in rights with the judges.
Article 8.- When conducting trials, judges and army men’s jurors are independent and only abide by laws.
Article 9.- The military courts conduct trials collectively and make decisions by majority. The composition of the Board of Juries at each adjudicating level shall be prescribed by the procedural legislation.
Article 10.- The military courts shall conduct trials publicly, except for cases of necessity to conduct trials behind closed doors to protect State secrets, military secrets, fine traditions and customs of the nation or to keep secrets of the involved parties at their legitimate requests.
Article 11.- The military courts shall conduct trials on the principle that all citizens are equal before law, regardless of sex, nationality, religion, social status, social position, and that individuals, agencies, organizations, people’s armed force units and production and/or business establishments of all economic sectors are all equal before law.
Article 12.- The military courts ensure the right to defense of defendants and the right to protect legitimate rights and interests of the involved parties.
Article 13.- The military courts ensure the right of people involved in legal proceedings to use the speech and scripts of their respective nationalities before court.
1. The military courts follow the regime of two-level adjudication.
The first-instance judgements and/or decisions of military courts can be protested against or appealed under the provisions of the procedural legislation.
The first-instance judgements and/or decisions, which are not protested against or appealed within the law-prescribed time limit shall take legal effect. For protested or appealed judgements or decisions, the cases shall be brought to appellate trials. The appellate judgements or decisions shall take legal effect.
2. For judgements and decisions of military courts, which have already taken legal effect but are detected as having violated laws or contained new circumstances, they shall be reviewed according to the supervisory or review order prescribed by procedural legislation.
Article 15.- The military courts’ judgements and decisions, which have already taken legal effect, must be respected by people’s armed force units, State bodies, political organizations, socio-political organizations, social organizations, socio-professional organizations, economic organizations and everyone.
Individuals, units, agencies and organizations, that are obliged to execute the judgments and/or decisions of military courts, must strictly execute them.
Within their respective functions, agencies and organizations, which are tasked to enforce judgments and/or decisions of military courts, must strictly enforce them and take responsibility before law for the performance of such task.
Article 16.- In case of necessity, together with the judgments and decisions they have made, the military courts shall request the heads of the concerned people’s armed force units, agencies or organizations to apply measures to overcome the causes of and conditions for commission of crimes or law offenses in their respective units, agencies and organizations. Upon receiving such requests, the heads of such units, agencies or organizations shall have to study the implementation thereof and within thirty days as from the date of receiving the requests have to notify the military courts thereof.
Article 17.- The military courts shall coordinate with people’s armed force units, agencies and organizations in bringing into full play the educative effect of court sessions and creating favorable conditions for the enforcement of judgments and decisions of the military courts.
Article 18.- The military courts shall, together with the military procuracies, the Army’s criminal investigation agencies, the Army’s security bodies and other concerned agencies, study and implement undertakings and measures to prevent and combat crimes as well as other law offenses.
Article 19.- The political offices of the military zone and equivalent level shall annually organize a conference of army men’s delegates in their respective units as well as units stationing in the localities to hear the military courts of the same level reporting on their activities and answer questions of delegates.
The military courts shall have to answer questions of People’s Council deputies about the military courts’ activities related to the localities.
Article 20.- The Supreme People’s Court shall organizationally manage the military courts in close coordination with the Ministry of Defense.
The regulations on the coordination between the Supreme People’s Court and the Ministry of Defense in the organizational management of the military courts shall be submitted by the chief judge of the Supreme People’s Court to the National Assembly Standing Committee for decision.
Tình trạng hiệu lực: Còn hiệu lực