Chương 2 Nghị định 105/2006/NĐ-CP bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ quản lý nhà nước hướng dẫn luật sở hữu trí tuệ: Xác định hành vi, tính chất và mức độ xâm phạm, xác định thiệt hại
Số hiệu: | 105/2006/NĐ-CP | Loại văn bản: | Nghị định |
Nơi ban hành: | Chính phủ | Người ký: | Nguyễn Tấn Dũng |
Ngày ban hành: | 22/09/2006 | Ngày hiệu lực: | 21/10/2006 |
Ngày công báo: | 06/10/2006 | Số công báo: | Từ số 11 đến số 12 |
Lĩnh vực: | Sở hữu trí tuệ | Tình trạng: | Còn hiệu lực |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
Hành vi bị xem xét bị coi là hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ quy định tại các Điều 28, 35, 126, 127, 129 và 188 của Luật Sở hữu trí tuệ, khi có đủ các căn cứ sau đây:
1. Đối tượng bị xem xét thuộc phạm vi các đối tượng đang được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
2. Có yếu tố xâm phạm trong đối tượng bị xem xét.
3. Người thực hiện hành vi bị xem xét không phải là chủ thể quyền sở hữu trí tuệ và không phải là người được pháp luật hoặc cơ quan có thẩm quyền cho phép theo quy định tại các Điều 25, 26, 32, 33, khoản 2 và khoản 3 Điều 125, Điều 133, Điều 134, khoản 2 Điều 137, các Điều 145, 190 và 195 của Luật Sở hữu trí tuệ.
4. Hành vi bị xem xét xảy ra tại Việt Nam.
Hành vi bị xem xét cũng bị coi là xảy ra tại Việt Nam nếu hành vi đó xảy ra trên mạng internet nhưng nhằm vào người tiêu dùng hoặc người dùng tin tại Việt Nam.
1. Việc xác định đối tượng được bảo hộ được thực hiện bằng cách xem xét các tài liệu, chứng cứ chứng minh căn cứ phát sinh, xác lập quyền theo quy định tại Điều 6 của Luật Sở hữu trí tuệ.
2. Đối với các loại quyền sở hữu trí tuệ đã được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền, đối tượng được bảo hộ được xác định theo giấy chứng nhận đăng ký, văn bằng bảo hộ và các tài liệu kèm theo giấy chứng nhận đăng ký, văn bằng bảo hộ đó.
3. Đối với quyền tác giả, quyền của người biểu diễn, quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, quyền của tổ chức phát sóng không đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền thì các quyền này được xác định trên cơ sở bản gốc tác phẩm, bản định hình đầu tiên cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng và các tài liệu liên quan (nếu có).
Trong trường hợp bản gốc tác phẩm, bản định hình đầu tiên của cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng và các tài liệu liên quan không còn tồn tại, quyền tác giả, quyền của người biểu diễn, quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, quyền của tổ chức phát sóng được xem là có thực trên cơ sở các thông tin về tác giả, người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng và về đối tượng quyền tác giả, quyền liên quan tương ứng, được thể hiện thông thường trên các bản sao được công bố hợp pháp.
4. Đối với tên thương mại, đối tượng được bảo hộ được xác định trên cơ sở quá trình sử dụng, lĩnh vực và lãnh thổ sử dụng tên thương mại đó.
5. Đối với bí mật kinh doanh, đối tượng được bảo hộ được xác định trên cơ sở các tài liệu thể hiện nội dung, bản chất của bí mật kinh doanh và thuyết minh, mô tả về biện pháp bảo mật tương ứng.
6. Đối với nhãn hiệu nổi tiếng, đối tượng được bảo hộ được xác định trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ thể hiện sự nổi tiếng của nhãn hiệu theo các tiêu chí quy định tại Điều 75 của Luật Sở hữu trí tuệ.
1. Yếu tố xâm phạm quyền tác giả có thể thuộc một trong các dạng sau đây:
a) Bản sao tác phẩm được tạo ra một cách trái phép;
b) Tác phẩm phái sinh được tạo ra một cách trái phép;
c) Tác phẩm giả mạo tên, chữ ký của tác giả, mạo danh hoặc chiếm đoạt quyền tác giả;
d) Phần tác phẩm bị trích đoạn, sao chép, lắp ghép trái phép;
đ) Sản phẩm có gắn thiết bị kỹ thuật bảo vệ quyền tác giả bị vô hiệu hoá trái phép.
Sản phẩm có yếu tố xâm phạm quy định tại khoản này bị coi là sản phẩm xâm phạm quyền tác giả.
2. Yếu tố xâm phạm quyền liên quan có thể thuộc một trong các dạng sau đây:
a) Bản định hình đầu tiên cuộc biểu diễn được tạo ra một cách trái phép;
b) Bản sao bản định hình cuộc biểu diễn, bản sao bản ghi âm, ghi hình, bản sao chương trình phát sóng được tạo ra một cách trái phép;
c) Một phần hoặc toàn bộ cuộc biểu diễn đã được định hình, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng bị sao chép, trích ghép trái phép; một phần hoặc toàn bộ chương trình phát sóng bị thu, giải mã và phân phối trái phép;
d) Sản phẩm có gắn thiết bị kỹ thuật bảo vệ quyền liên quan bị vô hiệu hoá trái phép; bản định hình cuộc biểu diễn bị dỡ bỏ hoặc bị thay đổi một cách trái phép thông tin về quản lý quyền liên quan.
Sản phẩm có chứa yếu tố xâm phạm quy định tại khoản này bị coi là sản phẩm xâm phạm quyền liên quan.
3. Căn cứ xác định yếu tố xâm phạm quyền tác giả là phạm vi bảo hộ quyền tác giả được xác định theo hình thức thể hiện bản gốc tác phẩm; được xác định theo nhân vật, hình tượng, cách thể hiện tính cách nhân vật, hình tượng, tình tiết của tác phẩm gốc trong trường hợp xác định yếu tố xâm phạm đối với tác phẩm phái sinh.
4. Căn cứ xác định yếu tố xâm phạm quyền liên quan là phạm vi bảo hộ quyền liên quan đã được xác định theo hình thức thể hiện bản định hình đầu tiên cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng.
5. Để xác định một bản sao hoặc tác phẩm (hoặc bản định hình cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng) có phải là yếu tố xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan hay không, cần so sánh bản sao hoặc tác phẩm đó với bản gốc tác phẩm (bản định hình đầu tiên cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng) hoặc tác phẩm gốc.
Bản sao tác phẩm, bản định hình cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng bị coi là yếu tố xâm phạm trong các trường hợp sau đây:
a) Bản sao là bản sao chép một phần hoặc toàn bộ tác phẩm, bản định hình đầu tiên cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng đang được bảo hộ của người khác;
b) Tác phẩm (phần tác phẩm) là một phần hoặc toàn bộ tác phẩm, bản định hình đầu tiên cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng đang được bảo hộ của người khác;
c) Tác phẩm, phần tác phẩm có nhân vật, hình tượng, cách thể hiện tính cách nhân vật, hình tượng, tình tiết của tác phẩm đang được bảo hộ của người khác.
6. Sản phẩm có yếu tố xâm phạm quy định tại điểm a và điểm d khoản 1, điểm b và điểm c khoản 2 Điều này bị coi là hàng hoá sao chép lậu theo quy định tại Điều 213 của Luật Sở hữu trí tuệ.
1. Yếu tố xâm phạm quyền đối với sáng chế có thể thuộc một trong các dạng sau đây:
a) Sản phẩm hoặc bộ phận (phần) sản phẩm trùng hoặc tương đương với sản phẩm hoặc bộ phận (phần) của sản phẩm thuộc phạm vi bảo hộ sáng chế;
b) Quy trình trùng hoặc tương đương với quy trình thuộc phạm vi bảo hộ sáng chế;
c) Sản phẩm hoặc bộ phận (phần) của sản phẩm được sản xuất theo quy trình trùng hoặc tương đương với quy trình thuộc phạm vi bảo hộ sáng chế.
2. Căn cứ để xác định yếu tố xâm phạm quyền đối với sáng chế là phạm vi bảo hộ sáng chế được xác định theo Bằng độc quyền sáng chế, Bằng độc quyền giải pháp hữu ích.
1. Yếu tố xâm phạm quyền đối với thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn (sau đây gọi là thiết kế bố trí) có thể thuộc một trong các dạng sau đây:
a) Thiết kế bố trí được tạo ra do sao chép trái phép thiết kế bố trí được bảo hộ;
b) Mạch tích hợp bán dẫn được tạo ra một cách trái phép theo thiết kế bố trí được bảo hộ;
c) Sản phẩm hoặc bộ phận (phần) sản phẩm gắn mạch tích hợp bán dẫn quy định tại điểm b khoản này.
2. Căn cứ xác định yếu tố xâm phạm quyền đối với thiết kế bố trí là phạm vi bảo hộ quyền đối với thiết kế bố trí được xác định theo Giấy chứng nhận đăng ký thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn.
1. Yếu tố xâm phạm quyền đối với kiểu dáng công nghiệp là sản phẩm hoặc phần của sản phẩm mà hình dáng bên ngoài không khác biệt đáng kể với kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ.
2. Căn cứ để xác định yếu tố xâm phạm quyền đối với kiểu dáng công nghiệp là phạm vi bảo hộ kiểu dáng công nghiệp được xác định theo Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp.
3. Sản phẩm, phần sản phẩm bị coi là yếu tố xâm phạm quyền đối với kiểu dáng công nghiệp thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Trên sản phẩm hoặc phần sản phẩm bị xem xét, kể cả trường hợp đã được cấp Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp, có tập hợp các đặc điểm tạo dáng hợp thành một tổng thể là bản sao hoặc về bản chất là bản sao (gần như không thể phân biệt được sự khác biệt) của kiểu dáng công nghiệp của chủ sở hữu khác đã được bảo hộ mà không được sự đồng ý của người đó;
b) Trên sản phẩm hoặc phần sản phẩm bị xem xét có tập hợp các đặc điểm tạo dáng hợp thành một tổng thể là bản sao hoặc về bản chất là bản sao của kiểu dáng công nghiệp của ít nhất một sản phẩm trong bộ sản phẩm được bảo hộ của người khác.
4. Kiểu dáng công nghiệp của một sản phẩm (phần sản phẩm) chỉ bị coi là không khác biệt đáng kể với kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ theo quy định tại khoản 1 Điều này khi kiểu dáng công nghiệp đó là bản sao hoặc về bản chất là bản sao của kiểu dáng công nghiệp đã được bảo hộ.
1. Yếu tố xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu là dấu hiệu gắn trên hàng hoá, bao bì hàng hoá, phương tiện dịch vụ, giấy tờ giao dịch, biển hiệu, phương tiện quảng cáo và các phương tiện kinh doanh khác, trùng hoặc tương tự tới mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu được bảo hộ.
2. Căn cứ để xem xét yếu tố xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu là phạm vi bảo hộ nhãn hiệu, gồm mẫu nhãn hiệu và danh mục hàng hoá, dịch vụ được xác định tại Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hoặc Giấy chứng nhận nhãn hiệu đăng ký quốc tế được bảo hộ tại Việt Nam.
3. Để xác định một dấu hiệu bị nghi ngờ có phải là yếu tố xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu hay không, cần phải so sánh dấu hiệu đó với nhãn hiệu, đồng thời phải so sánh sản phẩm, dịch vụ mang dấu hiệu đó với sản phẩm, dịch vụ thuộc phạm vi bảo hộ. Chỉ có thể khẳng định có yếu tố xâm phạm khi đáp ứng cả hai điều kiện sau đây:
a) Dấu hiệu bị nghi ngờ trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu thuộc phạm vi bảo hộ; trong đó một dấu hiệu bị coi là trùng với nhãn hiệu thuộc phạm vi bảo hộ nếu có cùng cấu tạo, cách trình bày (kể cả màu sắc); một dấu hiệu bị coi là tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu thuộc phạm vi bảo hộ nếu có một số đặc điểm hoàn toàn trùng nhau hoặc tương tự đến mức không dễ dàng phân biệt với nhau về cấu tạo, cách phát âm, phiên âm đối với dấu hiệu, chữ, ý nghĩa, cách trình bày, màu sắc và gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu;
b) Hàng hoá, dịch vụ mang dấu hiệu bị nghi ngờ trùng hoặc tương tự về bản chất hoặc có liên hệ về chức năng, công dụng và có cùng kênh tiêu thụ với hàng hoá, dịch vụ thuộc phạm vi bảo hộ.
4. Đối với nhãn hiệu nổi tiếng, dấu hiệu bị nghi ngờ bị coi là yếu tố xâm phạm nếu:
a) Dấu hiệu bị nghi ngờ đáp ứng điều kiện quy định tại điểm a khoản 3 Điều này;
b) Hàng hoá, dịch vụ mang dấu hiệu bị nghi ngờ đáp ứng điều kiện quy định tại điểm b khoản 3 Điều này hoặc hàng hoá, dịch vụ không trùng, không tương tự, không liên quan tới hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu nổi tiếng nhưng có khả năng gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về nguồn gốc hàng hoá, dịch vụ hoặc gây ấn tượng sai lệch về mối quan hệ giữa người sản xuất, kinh doanh sản phẩm, dịch vụ đó với chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng.
5. Trường hợp sản phẩm, dịch vụ mang dấu hiệu trùng hoặc khó phân biệt về tổng thể cấu tạo và cách trình bày so với nhãn hiệu được bảo hộ cho sản phẩm, dịch vụ cùng loại thuộc phạm vi bảo hộ thì bị coi là hàng hoá giả mạo nhãn hiệu theo quy định tại Điều 213 của Luật Sở hữu trí tuệ.
1. Yếu tố xâm phạm quyền đối với chỉ dẫn địa lý được thể hiện dưới dạng dấu hiệu gắn trên hàng hoá, bao bì hàng hoá, phương tiện dịch vụ, giấy tờ giao dịch, biển hiệu, phương tiện quảng cáo và các phương tiện kinh doanh khác, trùng hoặc tương tự tới mức gây nhầm lẫn với chỉ dẫn địa lý được bảo hộ.
2. Căn cứ để xem xét yếu tố xâm phạm quyền đối với chỉ dẫn địa lý là phạm vi bảo hộ chỉ dẫn địa lý được xác định tại Quyết định đăng bạ chỉ dẫn địa lý.
3. Để xác định một dấu hiệu bị nghi ngờ có phải là yếu tố xâm phạm quyền đối với chỉ dẫn địa lý được bảo hộ hay không, cần phải so sánh dấu hiệu đó với chỉ dẫn địa lý và so sánh sản phẩm mang dấu hiệu bị nghi ngờ với sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý được bảo hộ dựa trên các căn cứ sau đây:
a) Dấu hiệu bị nghi ngờ trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với chỉ dẫn địa lý, trong đó một dấu hiệu bị coi là trùng với chỉ dẫn địa lý nếu giống với chỉ dẫn địa lý được bảo hộ về cấu tạo từ ngữ, kể cả cách phát âm, phiên âm đối với chữ cái, ý nghĩa hoặc về hình ảnh, biểu tượng thuộc phạm vi bảo hộ của chỉ dẫn địa lý; một dấu hiệu bị coi là tương tự đến mức gây nhầm lẫn với chỉ dẫn địa lý nếu tương tự đến mức gây nhầm lẫn với chỉ dẫn địa lý đó về cấu tạo từ ngữ, kể cả cách phát âm, phiên âm đối với chữ cái, ý nghĩa hoặc về hình ảnh, biểu tượng thuộc phạm vi bảo hộ của chỉ dẫn địa lý;
b) Sản phẩm mang dấu hiệu bị nghi ngờ trùng hoặc tương tự với sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý được bảo hộ, trong đó sản phẩm bị coi là trùng hoặc tương tự nếu giống nhau hoặc tương tự nhau về bản chất, chức năng, công dụng và kênh tiêu thụ;
c) Đối với rượu vang, rượu mạnh, ngoài quy định tại điểm a, điểm b khoản này, dấu hiệu trùng với chỉ dẫn địa lý được bảo hộ, kể cả thể hiện dưới dạng dịch nghĩa, phiên âm hoặc kèm theo các từ loại, kiểu, dạng, phỏng theo hoặc những từ tương tự như vậy được sử dụng cho sản phẩm không có nguồn gốc xuất xứ từ khu vực địa lý mang chỉ dẫn địa lý được bảo hộ cũng bị coi là yếu tố xâm phạm quyền đối với chỉ dẫn địa lý.
4. Trường hợp sản phẩm mang dấu hiệu trùng hoặc khó phân biệt về tổng thể cấu tạo và cách trình bày so với chỉ dẫn địa lý được bảo hộ cho sản phẩm cùng loại thuộc phạm vi bảo hộ thì bị coi là hàng hoá giả mạo chỉ dẫn địa lý quy định tại Điều 213 của Luật Sở hữu trí tuệ.
1. Yếu tố xâm phạm quyền đối với tên thương mại được thể hiện dưới dạng chỉ dẫn thương mại gắn trên hàng hoá, bao bì hàng hoá, phương tiện dịch vụ, giấy tờ giao dịch, biển hiệu, phương tiện quảng cáo và các phương tiện kinh doanh khác, trùng hoặc tương tự tới mức gây nhầm lẫn với tên thương mại được bảo hộ.
2. Căn cứ để xem xét yếu tố xâm phạm quyền đối với tên thương mại là phạm vi bảo hộ tên thương mại được xác định trên cơ sở các chứng cứ thể hiện việc sử dụng tên thương mại đó một cách hợp pháp, trong đó xác định cụ thể về chủ thể kinh doanh, cơ sở kinh doanh, hoạt động kinh doanh và sản phẩm, dịch vụ mang tên thương mại.
3. Để xác định một dấu hiệu bị nghi ngờ có phải là yếu tố xâm phạm quyền đối với tên thương mại hay không, cần phải so sánh dấu hiệu đó với tên thương mại được bảo hộ và phải so sánh sản phẩm, dịch vụ mang dấu hiệu đó với sản phẩm, dịch vụ thuộc phạm vi bảo hộ, dựa trên các căn cứ sau đây:
a) Dấu hiệu bị nghi ngờ trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với tên thương mại được bảo hộ; trong đó một dấu hiệu bị coi là trùng với tên thương mại được bảo hộ nếu giống với tên thương mại về cấu tạo từ ngữ, kể cả cách phát âm, phiên âm đối với chữ cái; một dấu hiệu bị coi là tương tự với tên thương mại được bảo hộ nếu tương tự về cấu tạo, cách phát âm, phiên âm đối với chữ cái, gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về chủ thể kinh doanh, cơ sở kinh doanh, hoạt động kinh doanh dưới tên thương mại được bảo hộ;
b) Sản phẩm, dịch vụ mang dấu hiệu bị nghi ngờ bị coi là trùng hoặc tương tự với sản phẩm, dịch vụ mang tên thương mại được bảo hộ nếu giống nhau hoặc tương tự nhau về bản chất, chức năng, công dụng và kênh tiêu thụ.
1. Yếu tố xâm phạm quyền đối với giống cây trồng có thể thuộc một trong các dạng sau đây:
a) Sử dụng cây giống hoàn chỉnh hoặc vật liệu nhân giống của giống cây trồng được bảo hộ để thực hiện các hành vi quy định tại khoản 1 Điều 186 của Luật Sở hữu trí tuệ mà không được phép của chủ Bằng bảo hộ;
b) Sử dụng giống cây hoàn chỉnh hoặc vật liệu nhân giống của các giống cây trồng quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 187 của Luật Sở hữu trí tuệ;
c) Quy trình sản xuất giống cây trồng quy định tại khoản 3 Điều 187 của Luật Sở hữu trí tuệ;
d) Sử dụng tên của một giống cây trồng cùng loài hoặc loài gần với loài của giống được bảo hộ mà tên này trùng hoặc tương tự tới mức nhầm lẫn với tên của giống được bảo hộ nói trên;
đ) Quy định tại điểm a, điểm b khoản này cũng áp dụng đối với vật liệu thu hoạch nếu chủ Bằng bảo hộ chưa có điều kiện hợp lý để thực hiện quyền của mình đối với vật liệu nhân giống của cùng giống đó.
2. Căn cứ xác định yếu tố xâm phạm quyền đối với giống cây trồng:
a) Bản mô tả giống cây trồng được cơ quan bảo hộ giống cây trồng xác nhận;
b) Bằng bảo hộ giống cây trồng.
1. Tính chất xâm phạm quy định tại khoản 1 Điều 199 của Luật Sở hữu trí tuệ được xác định dựa trên các căn cứ sau đây:
a) Hoàn cảnh, động cơ xâm phạm: xâm phạm do vô ý, xâm phạm cố ý, xâm phạm do bị khống chế hoặc bị lệ thuộc, xâm phạm lần đầu, tái phạm;
b) Cách thức thực hiện hành vi xâm phạm: xâm phạm riêng lẻ, xâm phạm có tổ chức, tự thực hiện hành vi xâm phạm, mua chuộc, lừa dối, cưỡng ép người khác thực hiện hành vi xâm phạm.
2. Mức độ xâm phạm quy định tại khoản 1 Điều 199 của Luật Sở hữu trí tuệ được xác định dựa trên các căn cứ sau đây:
a) Phạm vi lãnh thổ, thời gian, khối lượng, quy mô thực hiện hành vi xâm phạm;
b) Ảnh hưởng, hậu quả của hành vi xâm phạm.
1. Thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ quy định tại Điều 204 của Luật Sở hữu trí tuệ là sự tổn thất thực tế về vật chất và tinh thần do hành vi xâm phạm trực tiếp gây ra cho chủ thể quyền sở hữu trí tuệ.
2. Được coi là có tổn thất thực tế nếu có đủ các căn cứ sau đây:
a) Lợi ích vật chất hoặc tinh thần là có thực và thuộc về người bị thiệt hại;
b) Người bị thiệt hại có khả năng đạt được lợi ích quy định tại điểm a khoản này;
c) Có sự giảm sút hoặc mất lợi ích của người bị thiệt hại sau khi hành vi xâm phạm xảy ra so với khả năng đạt được lợi ích đó khi không có hành vi xâm phạm và hành vi xâm phạm là nguyên nhân trực tiếp gây ra sự giảm sút, mất lợi ích đó.
3. Mức độ thiệt hại được xác định phù hợp với yếu tố xâm phạm quyền đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ.
Việc xác định mức độ thiệt hại dựa trên chứng cứ về thiệt hại do các bên cung cấp, kể cả kết quả trưng cầu giám định và bản kê khai thiệt hại, trong đó làm rõ các căn cứ để xác định và tính toán mức thiệt hại.
1. Tổn thất về tài sản được xác định theo mức độ giảm sút hoặc bị mất về giá trị tính được thành tiền của đối tượng quyền sở hữu trí tuệ được bảo hộ.
2. Giá trị tính được thành tiền của đối tượng quyền sở hữu trí tuệ quy định tại khoản 1 Điều này được xác định theo một hoặc các căn cứ sau đây:
a) Giá chuyển nhượng quyền sở hữu hoặc giá chuyển giao quyền sử dụng đối tượng quyền sở hữu trí tuệ;
b) Giá trị góp vốn kinh doanh bằng quyền sở hữu trí tuệ;
c) Giá trị quyền sở hữu trí tuệ trong tổng số tài sản của doanh nghiệp;
d) Giá trị đầu tư cho việc tạo ra và phát triển đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, bao gồm các chi phí tiếp thị, nghiên cứu, quảng cáo, lao động, thuế và các chi phí khác.
1. Thu nhập, lợi nhuận quy định tại điểm a khoản 1 Điều 204 của Luật Sở hữu trí tuệ bao gồm:
a) Thu nhập, lợi nhuận thu được do sử dụng, khai thác trực tiếp đối tượng quyền sở hữu trí tuệ;
b) Thu nhập, lợi nhuận thu được do cho thuê đối tượng quyền sở hữu trí tuệ;
c) Thu nhập, lợi nhuận thu được do chuyển giao quyền sử dụng đối tượng quyền sở hữu trí tuệ.
2. Mức giảm sút về thu nhập, lợi nhuận được xác định theo một hoặc các căn cứ sau đây:
a) So sánh trực tiếp mức thu nhập, lợi nhuận thực tế trước và sau khi xảy ra hành vi xâm phạm, tương ứng với từng loại thu nhập quy định tại khoản 1 Điều này;
b) So sánh sản lượng, số lượng sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ thực tế tiêu thụ hoặc cung ứng trước và sau khi xảy ra hành vi xâm phạm;
c) So sánh giá bán thực tế trên thị trường của sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ trước và sau khi xảy ra hành vi xâm phạm.
1. Cơ hội kinh doanh quy định tại điểm a khoản 1 Điều 204 của Luật Sở hữu trí tuệ bao gồm:
a) Khả năng thực tế sử dụng, khai thác trực tiếp đối tượng quyền sở hữu trí tuệ trong kinh doanh;
b) Khả năng thực tế cho người khác thuê đối tượng quyền sở hữu trí tuệ;
c) Khả năng thực tế chuyển giao quyền sử dụng đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, chuyển nhượng đối tượng quyền sở hữu trí tuệ cho người khác;
d) Cơ hội kinh doanh khác bị mất do hành vi xâm phạm trực tiếp gây ra.
2. Tổn thất về cơ hội kinh doanh là thiệt hại về giá trị tính được thành tiền của khoản thu nhập đáng lẽ người bị thiệt hại có thể có được khi thực hiện các khả năng quy định tại khoản 1 Điều này nhưng thực tế không có được khoản thu nhập đó do hành vi xâm phạm gây ra.
Chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại quy định tại điểm a khoản 1 Điều 204 của Luật Sở hữu trí tuệ gồm chi phí cho việc tạm giữ, bảo quản, lưu kho, lưu bãi đối với hàng hoá xâm phạm, chi phí thực hiện các biện pháp khẩn cấp tạm thời, chi phí hợp lý để thuê dịch vụ giám định, ngăn chặn, khắc phục hành vi xâm phạm và chi phí cho việc thông báo, cải chính trên phương tiện thông tin đại chúng liên quan đến hành vi xâm phạm.
DETERMINATION OF ACTS, NATURE AND EXTENT OF INFRINGEMENT,
DETERMINATION OF DAMAGE
Section I. Bases for determination of acts, nature and extent of infringement
Article 5.- Determination of acts of infringement
An examined act shall be regarded as an act of infringement of intellectual property rights specified in Articles 28, 35, 126, 127, 129 and 188 of the Law on Intellectual Property when all the following bases exist:
1. The examined subject matter is a protected one.
2. The examined subject matter contains an infringing element.
3. The person that takes the examined act is neither the intellectual property right holder nor any person permitted by law or a competent agency under Articles 25, 26, 32, 33, Clauses 2 and 3 of Article 125, Article 133, Article 134, Clause 2 of Article 137, Articles 145, 190 and 195 of the Law on Intellectual Property.
4. The examined act takes place in Vietnam.
An examined act that takes place in the Internet but is targeted at consumers or information users in Vietnam shall be regarded to take place in Vietnam.
Article 6.- Bases for determination of protected subject matters
1. The determination of a protected subject matter shall be based on the examination of documents and evidence proving the bases for emergence and establishment of the rights specified in Article 6 of the Law on Intellectual Property.
2. For intellectual property rights that have been registered with competent agencies, the protected subject matters shall be determined on the basis of the registration certificates, protection titles and other documents accompanying such certificates and protection titles.
3. For copyright and rights of performers, rights of producers of phonograms or video recordings, rights of broadcasting organizations that are not registered with competent agencies, these rights shall be determined on the basis of the original exemplar of the work, the first fixation of the performance, phonogram, video recording, broadcast and relevant documents, if any.
When the original exemplar of the work, the first fixation of the performance, phonogram, video recording, broadcast and relevant documents no longer exist, copyright or rights of performers, of producers of phonograms or video recordings or of broadcasting organizations shall be deemed to be true on the basis of information that is usually shown on lawfully published copies on authors, performers, producers of phonograms or video recordings or broadcasting organizations and on the subject matters of copyright or related rights.
4. For trade names, the protected subject matters shall be determined on the basis of their using process and the sector and territory in which such trade names are used.
5. For business secrets, the protected subject matters shall be determined on the basis of documents expressing the contents and nature of the business secrets and explanations and descriptions of relevant measures to keep them secret.
6. For well-known marks, the protected subject matters shall be determined on the basis of documents and evidence expressing the reputation of the marks according to the criteria defined in Article 75 of the Law on Intellectual Property.
Article 7.- Infringing elements of copyright and related rights
1. An infringing element of copyright may take one of the following forms:
a/ Illegally made copy of a work;
b/ Illegally made derivative work;
c/ Work with the forged name and signature of the author, impersonation of the author or appropriation of copyright;
d/ Illegally recited, duplicated or incorporated part of a work;
e/ Product with an illegally deactivated technical device used for copyright protection.
Products containing an infringing element defined in this Clause shall be regarded as copyright-infringing products.
2. An infringing element of related rights may take one of the following forms:
a/ Illegally made first fixation of a performance;
b/ Illegally made copy of the fixation of a performance, illegally made copy of a phonogram, video recording or broadcast;
c/ Illegally duplicated, extracted or incorporated part or whole of a fixed performance, a phonogram or video recording; illegally received, decoded and distributed part or whole of a broadcast;
d/ Product with an illegally deactivated technical device used for related rights protection; the fixation of a performance from which related rights management information has been illegally disengaged or modified.
Products containing an infringing element defined in this Clause shall be regarded as related rights-infringing products.
3. The basis for determination of an infringing element of copyright shall be the scope of copyright protection determined according to the forms of expression of the original work. For determination of infringing elements of derivative works, the basis shall be the characters, images; ways of expression of characters’ personalities, images and circumstances of the original work.
4. The basis for determining an infringing element of related rights shall be the scope of related rights protection already determined according to the forms of expression of the first fixation of the performance, phonogram, video recording or broadcast.
5. In order to determine whether a copy or a work (or the fixation of a performance, phonogram, video recording or broadcast) constitutes an infringing element of copyright or related rights, it is required to compare the copy or work with the original exemplar of the work (the first fixation of a performance, phonogram, video recording or broadcast) or the original work.
A copy of a work or the fixation of a performance, phonogram, video recording or broadcast shall be regarded as an infringing element in the following cases:
a/ The copy is a duplicate of part or the whole of a protected work, the first fixation of a protected performance, phonogram, video recording or broadcast of another person;
b/ The work (part of the work) is part or the whole of a protected work, the first fixation of a protected performance, phonogram, video recording or broadcast of another person;
c/ The work or part of the work contains a character, image, way of expression of the personality of a character or image or circumstances of a protected work of another person.
6. Products containing an infringing element defined at Points a and d, Clause 1, Points b and c, Clause 2 of this Article shall be regarded as pirated goods under the provisions of Article 213 of the Law on Intellectual Property.
Article 8.- Infringing elements of inventions
1. An infringing element of an invention may take one of the following forms:
a/ Product or part (component) of a product that is identical or similar to a product or part (component) of a product being protected as an invention;
b/ Process that is identical or similar to a process being protected as an invention;
c/ A product or part (component) of the product produced through a process that is identical or similar to a process being protected as an invention.
2. The basis for determination of an infringing element of an invention is the scope of invention protection stated in the invention or utility solution patent.
Article 9.- Infringing elements of layout designs of semiconductor integrated circuits
1. An infringing element of a layout design of a semiconductor integrated circuit may take one of the following forms:
a/ Layout design created through illegally copying a protected layout design;
b/ Semiconductor integrated circuit illegally created according to a protected layout design;
c/ Product or part (component) of a product in which a semiconductor integrated circuit defined at Point b of this Clause is incorporated.
2. The basis for determination of an infringing element of a lay-out design of semiconductor integrated circuit is the scope of protection of rights to lay-out designs stated in the certificates of registration of the lay-out designs of semiconductor integrated circuits.
Article 10.- Infringing elements of industrial designs
1. An infringing element of an industrial design is a product or part of a product of which the external appearance is insignificantly different from that of a protected industrial design.
2. The basis for determination of an infringing element of an industrial design is the scope of protection of the industrial design stated in the industrial design patent.
3. A product or part of a product shall be regarded as an infringing element of an industrial design in the following cases:
a/ The examined product or part of the examined product, even with an industrial design patent, contains a combination of design features that create an overall combination being a copy or in substance a copy (with virtually indistinguishable difference) of a protected industrial design of another owner with the permission of such owner;
b/ The examined product or part of the examined product contains a combination of design features that create an overall combination being a copy or in substance a copy of the protected industrial design or at least one product within a set of products of another person.
4. The industrial design of a product (part of a product) shall only be regarded as insignificantly different from a protected one defined in Clause 1 of this Article when it is a copy or in substance a copy of the protected one.
Article 11.- Infringing elements of marks
1. An infringing element of a mark is a sign affixed on goods, their packages, means of services, transaction documents, signboards, means of advertising or other means of business that is identical or confusingly similar to the protected mark.
2. The basis for determination of an infringing element of a mark is the scope of protection of the mark including the mark specimen and a list of goods and services in the mark registration certificate or the certificate of protection in Vietnam of internationally registered mark.
3. In order to determine whether a suspected sign is an infringing element of a mark, it is required to compare such sign to the mark and at the same time to compare goods or services bearing such sign to the protected products or services. An infringing element can only be confirmed if the following two conditions are fully met:
a/ The suspected sign is identical or confusingly similar to the mark within the scope of protection; where a sign is regarded as identical to a protected mark if it has the same composition and method of presentation (including the colors); a sign is regarded as confusingly similar to a protected mark if it has several features identical or similar to those of the protected mark to such an extent that it is not easy to distinguish between them in terms of composition, the way of pronunciation, the way of phonetic transcription of signs, letters, meaning, the method of presentation and colors, thereby causing confusion to consumers in selecting goods or services bearing the mark;
b/ Goods or services bearing the suspected sign that is identical or similar in substance to, have a relationship in terms of functions and utility with, and have the same distribution channel with, the protected goods or services.
4. For well-known marks, a suspected sign shall be regarded as an infringing element if:
a/ The suspected sign meets the condition specified at Point a, Clause 3 of this Article;
b/ Goods or services bearing the suspected sign meet the condition specified at Point b, Clause 3 of this Article or goods or services are not identical, similar or related to the goods or services bearing the well-known mark but are capable of misleading customers as to the origin of services or goods or create wrong impressions about the relationship between the producer or trader of such goods or services and the owner of the well-known mark.
5. When a product or service bears a sign that is identical to or is insignificantly different in terms of overall composition and method of presentation from the protected mark of a product or service of the same type within the scope of protection, it shall be regarded as a counterfeit mark goods as provided for in Article 213 of the Law on Intellectual Property.
Article 12.- Infringing elements of geographical indications
1. An infringing element of a geographical indication is expressed in the form of a sign affixed on goods, their packages, means of services, transaction documents, signboards, means of advertising and other means of business, which is identical or confusingly similar to the protected geographical indication.
2. The basis for determination of an infringing element of a geographical indication is the scope of protection of the geographical indication stated in the decision on registration of the geographical indication.
3. In order to determine whether a suspected sign is an infringing element of a geographical indication, it is required to compare such sign to the geographical indication and to compare products bearing such sign to products bearing the protected geographical indication on the bases:
a/ The suspected sign is identical or confusingly similar to the geographical indication under the scope of protection; where a sign is regarded as identical to a protected geographical indication if it has the same composition of words, including the way of pronunciation, the way of phonetic transcription of letters, meaning, image and symbol within the scope of protection of the geographical indication; a sign is regarded as confusingly similar to a protected geographical indication if it is confusingly similar to the protected geographical indication in terms of word composition, the way of pronunciation, the way of phonetic transcription of letters, meaning, image and symbol within the scope of protection of the geographical indication;
b/ Products bearing the suspected sign are identical or similar to those bearing the protected geographical indication, where a product is regarded as identical or similar if it is identical or similar in terms of substance, functions, utility and distribution channel to another product;
c/ For wine and spirits, apart from the provisions of Point a and Point b of this Clause, a sign that is identical to a protected geographical indication, including its expression in the form of translation or phonetic transcription or accompanied by parts of speech, types, forms, adaptations or similar words that are used for products not originated from the geographical area bearing the protected geographical indication, shall also be regarded as an infringing element of the rights to the geographical indication.
4. When a product bears a sign that is identical to or is insignificantly different in terms of overall composition and the method of presentation from the protected geographical indication of a product of the same type within the scope of protection, it shall be regarded as a counterfeit geographical indication goods as provided for in Article 213 of the Law on Intellectual Property.
Article 13.- Infringing elements of trade names
1. An infringing element of a trade name is expressed in the form of a sign affixed on goods, their packages, means of services, transaction documents, signboards, means of advertising or other means of business that is identical or confusingly similar to the protected trade name.
2. The basis for determination of an infringing element of a trade name is the scope of protection of the trade name that is determined on the basis of evidence of the lawful use of the trade name, specifying the business owner, business establishment, business activities and products or services bearing the trade name.
3. In order to determine whether a suspected sign is an infringing element of a trade name, it is required to compare the sign to the protected trade name and to compare goods or services bearing this sign to the protected products or services on the following bases:
a/ The suspected sign is identical or confusingly similar to the protected trade name; where a sign is regarded as identical to a protected trade name if it has the same composition, including the way of pronunciation, the way of phonetic transcription of letters; a sign is regarded as similar to a protected trade name if it similar in terms of composition, the way of pronunciation, the way of phonetic transcription of letters, thereby misleading consumers as to the business owner, business establishment or business activities bearing the protected trade name;
b/ Goods or services bearing the suspected sign shall be regarded as identical or similar to those bearing the protected trade name if they are identical or similar in terms of substance, functions, utility and distribution channel.
Article 14.- Infringing elements of plant varieties
1. An infringing element of a plant variety may take one of the following forms:
a/ Use of a sapling or propagative material of a protected plant variety to commit acts specified in Clause 1, Article 186 of the Law on Intellectual Property without the permission of the protection title holder;
b/ Use of a sapling or propagative material or any plant variety specified in Clause 1 or Clause 2, Article 187 of the Law on Intellectual Property;
c/ The process of producing plant varieties specified in Clause 3, Article 187 of the Law on Intellectual Property;
d/ Use of the name of a plant variety of the same species or a species close to the species of a protected plant variety that is identical or confusingly similar to the name of the protected plant variety;
e/ The provisions of Point a and Point b of this Clause shall also apply to harvested materials if the protection title holder has no reasonable conditions for exercising his/her rights to the propagation material of the same plant variety.
2. Bases for determination of an infringing element of the rights to a plant variety:
a/ Written description of the plant variety, with the certification of a plant variety protection agency;
b/ Plant variety protection title.
Article 15.- Bases for determination of the nature and extent of infringement
1. The nature of infringement provided in Clause 1, Article 199 of the Law on Intellectual Property is determined on the following bases:
a/ Circumstances and motive of infringement: unintentional infringement, intentional infringement, infringement due to control or dependency, first-time infringement, recidivism;
b/ Manners of commission of acts of infringement: isolated infringement, infringement in an organized manner, self-commission of acts of infringement, bribery, deception or compelling of other persons to commit acts of infringement.
2. The extent of infringement provided in Clause 1, Article 199 of the Law on Intellectual Property is determined on the following bases:
a/ Scope of territory, time, volume and scale of commission of acts of infringements;
b/ Influence and consequences of acts of infringement.
Section 2. Determination of damage
Article 16.- Principles for determination of damage
1. Damage as a result of intellectual property right infringement provided in Article 204 of the Law on Intellectual Property is actual losses including both physical and spiritual losses directly caused to the intellectual property right holder by acts of intellectual property right infringement.
2. Actual losses shall be regarded as having been occurred when all of the following bases exist:
a/ The physical or spiritual benefit is real and belongs to the aggrieved person;
b/ The aggrieved person could achieve the benefit referred to at Point a of this Clause;
c/ There is a decrease in or loss of the benefit of the aggrieved person after the act of intellectual property right infringement is committed as compared to the possibility of achieving such benefit if such act of intellectual property right infringement would not happen and it constitutes the direct cause of such decrease in or loss of the benefit.
3. The level of damage is determined in accordance with the infringing elements of the intellectual property right subject matters.
The determination of the level of damage is based on the evidence of the damage furnished by the parties, including the assessment results and damage declarations that clearly state the bases for determination and calculation of the level of damage.
1. Losses in property are determined in accordance with the level of decrease in or loss of the in-cash value of the protected intellectual property right subject matters.
2. The in-cash value of an intellectual property right subject matter referred to in Clause 1 of this Article is determined in accordance with the following bases:
a/ The price of transfer of the ownership right or the price of assignment of the use right of the intellectual property right subject matter;
b/ The value of the business capital contributed in the form of intellectual property rights;
c/ The ratio of the value of intellectual property rights to the total assets of an enterprise;
d/ The value of investment in the creation and development of the intellectual property right subject matter, including marketing, research, advertising and labor costs, taxes and other expenses.
Article 18.- Decrease in income, profits
1. The income, profits referred to at Point a, Clause 1 of Article 204 of the Law on Intellectual Property include the following:
a/ The income, profits gained from directly using and exploiting the intellectual property right subject matter;
b/ The income, profits gained from leasing the intellectual property right subject matter;
c/ The income, profits gained from assigning the right to use the intellectual property right subject matter.
2. The level of decrease in income, profits is determined on the following bases:
a/ Direct comparison between the levels of actual income, profits before and after the acts of infringement are committed, applicable to each type of income specified in Clause 1 of this Article;
b/ Comparison between the yields or volumes of products, goods or services actually consumed or supplied before and after the acts of infringement are committed;
c/ Comparison between actual sales price of the products, goods or services on the market before and after the acts of infringement are committed.
Article 19.- Losses in business opportunities
1. Business opportunities specified at Point a, Clause 1 of Article 204 of the Law on Intellectual Property include the following:
a/ Actual possibility of directly using or exploiting the intellectual property right subject matter in the business course;
b/ Actual possibility of leasing the intellectual property right subject matter to other persons;
c/ Actual possibility of assigning the use right of or transferring the intellectual property right subject matter to other persons;
d/ Loss of other business opportunities directly caused by the acts of infringement.
2. A loss in business opportunities means loss of the in-cash value of the income that the aggrieved person would have achieved in any of the cases referred to in Clause 1 of this Article but fails to do so due to the acts of infringement.
Article 20.- Reasonable expenses for prevention and remedy of damage
Reasonable expenses for prevention and remedy of damage referred to at Point a, Clause 1, Article 204 of the Law on Intellectual Property include expenses for temporary custody, maintenance, storage of infringing goods, costs of implementation of provisional urgent measures, reasonable expenses for hire of the assessment service, prevention and remedy of consequences of acts of infringement, and cost of notification and correction in the mass media relating to acts of infringement.
Tình trạng hiệu lực: Còn hiệu lực