Chương III Luật phá sản doanh nghiệp 1993: Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp
Số hiệu: | 30-L/CTN | Loại văn bản: | Luật |
Nơi ban hành: | Quốc hội | Người ký: | Nông Đức Mạnh |
Ngày ban hành: | 30/12/1993 | Ngày hiệu lực: | 01/07/1994 |
Ngày công báo: | 28/02/1994 | Số công báo: | Số 4 |
Lĩnh vực: | Doanh nghiệp, Thủ tục Tố tụng | Tình trạng: |
Hết hiệu lực
15/10/2004 |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày thụ lý đơn hoặc sau bảy ngày, kể từ ngày Chánh án Toà án ra quyết định theo khoản 2 Điều 13 của Luật này, nếu xét thấy đủ căn cứ, Chánh toà Toà kinh tế cấp tỉnh ra quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Trong quyết định này phải nêu rõ lý do mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, ấn định thời điểm ngừng thanh toán nợ của doanh nghiệp; họ, tên của Thẩm phán phụ trách việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp và các nhân viên Tổ quản lý tài sản được chỉ định.
Tuỳ tính chất của từng việc cụ thể, Chánh toà Toà kinh tế cấp tỉnh chỉ định một Thẩm phán hoặc một tập thể gồm ba Thẩm phán (sau đây gọi chung là Thẩm phán) và Tổ quản lý tài sản để giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Trong trường hợp chỉ định ba Thẩm phán thì một Thẩm phán được giao nhiệm vụ phụ trách.
Thành phần Tổ quản lý tài sản gồm có : cán bộ của Toà kinh tế cấp tỉnh, Chấp hành viên của Phòng thi hành án thuộc Sở Tư pháp, đại diện chủ nợ, đại diện doanh nghiệp mắc nợ, đại diện công đoàn hoặc đại diện người lao động nơi chưa có tổ chức công đoàn, chuyên viên các cơ quan tài chính, ngân hàng cấp tỉnh và các ngành chuyên môn khác. Tổ quản lý tài sản do một cán bộ của Toà kinh tế tỉnh làm tổ trưởng.
Quy chế làm việc của tập thể Thẩm phán do Chánh án Toà án nhân dân tối cao quy định; quy chế tổ chức và hoạt động của Tổ quản lý tài sản do Chính phủ quy định sau khi thống nhất ý kiến với Toà án nhân dân tối cao.
Quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp phải được đăng báo địa phương nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính và báo hàng ngày của Trung ương trong ba số liên tiếp.
1- Thẩm phán có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
a) Thu thập tài liệu, chứng cứ để lập hồ sơ giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp;
b) Giám sát và kiểm tra hoạt động của các nhân viên Tổ quản lý tài sản;
c) Ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong trường hợp cần thiết theo quy định của pháp luật để bảo toàn tài sản của doanh nghiệp mắc nợ;
d) Tổ chức và chủ trì hội nghị chủ nợ;
đ) Ra quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp;
e) Tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
2- Trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, nếu phát hiện có dấu hiệu phạm tội thì Thẩm phán cung cấp tài liệu cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp xem xét để khởi tổ về hình sự.
3- Thẩm phán chịu trách nhiệm trước Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Tổ quản lý tài sản có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
1- Lập bảng kê toàn bộ tài sản của doanh nghiệp;
2- Giám sát, kiểm tra việc quản lý tài sản của doanh nghiệp. Trong trường hợp cần thiết, có quyền đề nghị Thẩm phán quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo toàn tài sản còn lại của doanh nghiệp;
3- Tập hợp danh sách các chủ nợ và số nợ phải trả cho từng chủ nợ.
Tổ quản lý tài sản chịu trách nhiệm trước Thẩm phán về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
1- Trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, giám đốc, các thành viên Hội đồng quản trị doanh nghiệp vẫn phải chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp vẫn được tiến hành bình thường nhưng phải chịu sự giám sát, kiểm tra của Thẩm phán và Tổ quản lý tài sản.
2- Kể từ ngày nhận được quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, nghiêm cấm doanh nghiệp mắc nợ tiến hành các việc sau đây :
a) Cất giấu, tẩu tán tài sản của doanh nghiệp;
b) Cầm cố, thế chấp, chuyển nhượng, bán tài sản của doanh nghiệp hoặc thanh toán nợ có bảo đảm từ tài sản của doanh nghiệp mà không có sự đồng ý bằng văn bản của Thẩm phán.
c) Thanh toán bất kỳ khoản nợ không có bảo đảm nào cho bất kỳ chủ nợ nào.
Các khoản nợ mới phát sinh từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sau khi có quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp được giải quyết theo quy định tại Điều 23 của Luật này;
d) Từ bỏ hoặc giảm bớt quyền đòi nợ của mình;
đ) Tạo ra nguồn bảo đảm cho các khoản nợ trước đây không có bảo đảm;
e) Bán, chuyển đổi cổ phần hoặc chuyển quyền sở hữu tài sản của doanh nghiệp.
Tài sản của doanh nghiệp bao gồm toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp hoặc thuộc quyền quản lý của doanh nghiệp (đối với doanh nghiệp Nhà nước), trong đó gồm :
1- Tài sản cố định và tài sản lưu động của doanh nghiệp đang có ở doanh nghiệp;
2- Tiền hoặc tài sản góp vốn, liên doanh, liên kết với cá nhân, doanh nghiệp hoặc tổ chức khác;
3- Tiền hoặc tài sản của doanh nghiệp mà cá nhân, tổ chức doanh nghiệp khác đang nợ hoặc chiếm đoạt;
4- Tài sản mà doanh nghiệp đang cho thuê hoặc cho mượn;
5- Các quyền về tài sản.
Tài sản của doanh nghiệp tư nhân còn bao gồm cả tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân không trực tiếp dùng vào hoạt động kinh doanh.
Ngay sau khi ra quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, Thẩm phán phải yêu cầu chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp xây dựng phương án hoà giải và các giải pháp tổ chức lại kinh doanh. Thời hạn tổ chức lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp do hội nghị chủ nợ quyết định, nhưng không quá hai năm, kể từ ngày hội nghị chủ nợ thông qua phương án hoà giải.
Phương án hoà giải và các giải pháp tổ chức lại kinh doanh phải có biện pháp, kế hoạch cụ thể và lịch thời gian trả nợ cho các chủ nợ, trả lương cho người lao động.
Phương án hoà giải và các giải pháp tổ chức lại kinh doanh của doanh nghiệp phải gửi đến Thẩm phán trong thời hạn sáu mươi ngày, kể từ ngày Thẩm phán yêu cầu. Hết thời hạn này, nếu không có phương án hoà giải thì Thẩm phán ra quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp và tổ chức hội nghị chủ nợ bàn phương án phân chia giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp.
Trong thời hạn sáu mươi ngày, kể từ ngày đầu tiên đăng báo địa phương và báo hàng ngày của Trung ương về quyết định của Toà án mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, các chủ nợ phải gửi giấy đòi nợ doanh nghiệp đến Toà án. Đơn của chủ nợ phải ghi rõ số nợ doanh nghiệp phải trả, trong đó phân định số nợ đến hạn và số nợ chưa đến hạn, số nợ có bảo đảm và số nợ không có bảo đảm cùng những tài liệu và chứng cứ chứng minh về số nợ đó.
Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày hết hạn gửi giấy đòi nợ, Tổ quản lý tài sản phải lập xong danh sách các chủ nợ và số nợ (sau đây gọi là danh sách chủ nợ). Danh sách này phải ghi rõ số nợ của mỗi chủ nợ, trong đó phân định nợ có bảo đảm, nợ không có bảo đảm, nợ đến hạn, nợ chưa đến hạn và phải được niêm yết công khai tại Toà án cấp tỉnh, trụ sở chính và các chi nhánh của doanh nghiệp trong thời hạn mười ngày. Trong thời hạn này, các chủ nợ và doanh nghiệp mắc nợ có quyền khiếu nại với Thẩm phán về danh sách chủ nợ. Thẩm phán xem xét khiếu nại, nếu thấy có căn cứ, thì sửa đổi, bổ sung vào danh sách chủ nợ. Hết thời hạn này, Tổ quản lý tài sản khoá sổ danh sách chủ nợ, những chủ nợ không gửi giấy đòi nợ thì mất quyền tham gia hội nghị chủ nợ.
Kể từ thời điểm ngừng thanh toán nợ, doanh nghiệp không phải trả lãi các khoản nợ; các khoản nợ chưa đến hạn được coi là đến hạn, nhưng không được tính lãi đối với thời gian chưa đến hạn.
Trong thời gian giải quyết việc tuyên bố phá sản doanh nghiệp, các khoản nợ mới phát sinh từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và trả lương cho người lao động trong doanh nghiệp được thanh toán dưới sự giám sát của Thẩm phán.
Hội nghị chủ nợ có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây :
1- Xem xét, thông qua phương án hoà giải tổ chức lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp;
2- Thảo luận và kiến nghị với Thẩm phán về việc phân chia giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp, nếu không có phương án hoà giải hoặc phương án hoà giải không được thông qua.
Cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức có tên trong danh sách chủ nợ đều là thành viên của hội nghị chủ nợ.
Chủ nợ có thể uỷ quyền bằng văn bản cho người khác tham gia hội nghị chủ nợ; người được uỷ quyền có quyền và nghĩa vụ như chủ nợ.
Chỉ những chủ nợ không có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần mới có quyền biểu quyết tại hội nghị chủ nợ.
Đại diện công đoàn hoặc đại diện người lao động nơi chưa có tổ chức công đoàn được quyền tham dự hội nghị chủ nợ, nhưng không có quyền biểu quyết, trừ trường hợp quy định tại Điều 8 của Luật này.
Người bảo lãnh sau khi đã trả nợ thay cho doanh nghiệp mắc nợ thì trở thành chủ nợ không có bảo đảm, có quyền và nghĩa vụ như các chủ nợ không có bảo đảm khác, được tham gia hội nghị chủ nợ và được phân chia giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản theo tỷ lệ tương ứng với số nợ đã trả cho chủ nợ.
Các chủ nợ được người bảo lãnh thanh toán một phần nợ được tham gia vào việc phân chia giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp bị mắc nợ theo tỉ lệ tương ứng với số nợ chưa được trả.
Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày khoá sổ danh sách chủ nợ, Thẩm phán triệu tập và chủ trì hội nghị chủ nợ. Giấy triệu tập hội nghị chủ nợ phải được gửi cho các thành viên và những người tham dự hội nghị chậm nhất mười lăm ngày trước ngày khai mạc hội nghị; kèm theo giấy triệu tập hội nghị này, phải có bản sao phương án hoà giải và các giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp phải có mặt ở hội nghị chủ nợ để trình bày phương án hoà giải và các giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, trả lời các vấn đề nêu ra tại hội nghị chủ nợ. Trong trường hợp chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp vì lý do chính đáng không đến được hội nghị chủ nợ, thì phải uỷ quyền bằng văn bản cho người khác tham gia hội nghị. Người được uỷ quyền có quyền và nghĩa vụ như chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp ở hội nghị chủ nợ. Trong trường hợp chủ doanh nghiệp tư nhân bị chết thì người thừa kế hợp pháp thay chủ doanh nghiệp đó đến dự hội nghị chủ nợ.
Hội nghị chủ nợ chỉ hợp lệ khi có sự tham gia của quá nửa số chủ nợ đại diện cho ít nhất hai phần ba tổng số nợ không có bảo đảm.
Biên bản hoà giải thành về giải pháp tổ chức lại kinh doanh của doanh nghiệp chỉ có giá trị pháp lý khi được quá nửa số chủ nợ đại diện cho ít nhất hai phần ba tổng số nợ không có bảo đảm thông qua. Biên bản hoà giải thành phải ghi rõ những vấn đề đã được thoả thuận, phải có chữ ký của Thẩm phán và các chủ nợ tham gia hội nghị. Căn cứ vào biên bản hoà giải thành, Thẩm phán ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Các thoả thuận trong biên bản hoà giải thành có hiệu lực bắt buộc đối với tất cả các chủ nợ và doanh nghiệp mắc nợ.
Hội nghị chủ nợ có thể được hoãn một lần, nếu :
1- Không đủ quá nửa số chủ nợ đại diện cho ít nhất hai phần ba tổng số nợ không có bảo đảm tham gia;
2- Đa số chủ nợ có mặt ở hội nghị biểu quyết hoãn hội nghị.
1- Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày hoãn hội nghị chủ nợ, Thẩm phán phải triệu tập lại hội nghị chủ nợ và chủ trì hội nghị. Giấy triệu tập hội nghị phải được đăng báo địa phương và báo hàng ngày của Trung ương một lần và phải được gửi cho các thành viên và những người tham dự chậm nhất mười lăm ngày trước ngày khai mạc hội nghị. Hội nghị này chỉ hợp lệ khi có sự tham gia của số chủ nợ đủ đại diện cho ít nhất hai phần ba tổng số nợ không có bảo đảm.
Quyết định thông qua phương án hoà giải và giải pháp tổ chức lại kinh doanh của doanh nghiệp ở hội nghị này có giá trị pháp lý khi được sự chấp thuận của một chủ nợ đại diện cho ít nhất hai phần ba số nợ không có bảo đảm của các chủ nợ có mặt.
Các thoả thuận trong biên bản hoà giải thành của hội nghị có hiệu lực bắt buộc đối với tất cả các chủ nợ và doanh nghiệp mắc nợ.
2- Nếu hội nghị chủ nợ không thành do không đủ số chủ nợ theo quy định tại khoản 1 Điều này, thì Thẩm phán ra quyết định đình chỉ việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp và phải được đăng báo địa phương, báo hàng ngày của Trung ương trong ba số liên tiếp.
Nội dung của hội nghị chủ nợ phải được ghi chép đầy đủ vào biên bản hội nghị. Biên bản hội nghị phải có chữ ký của Thẩm phán, thư ký, chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp và các chủ nợ có mặt tại hội nghị.
Thẩm phán ra quyết định công nhận biên bản hoà giải thành về phương án hoà giải và giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp của hội nghị chủ nợ và tạm đình chỉ giải quyết việc phá sản doanh nghiệp. Thẩm phán phải đăng báo địa phương và báo hàng ngày của Trung ương về quyết định này trong ba số liên tiếp.
Chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp chịu trách nhiệm thực hiện các giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh theo kế hoạch và thời hạn đã được hội nghị chủ nợ thông qua.
Các chủ nợ có nghĩa vụ thực hiện những thoả thuận tại hội nghị chủ nợ và theo dõi doanh nghiệp thực hiện các thoả thuận đó.
Trong thời hạn tổ chức lại kinh doanh, nếu doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, thực hiện được các nghĩa vụ của mình theo kế hoạch đã được hội nghị chủ nợ thông qua và không có khiếu nại của các chủ nợ đến Toà án, thì chủ doanh nghiệp có quyền đề nghị Thẩm phán đình chỉ việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Thẩm phán ra quyết định đình chỉ việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp và phải đăng báo địa phương và báo hàng ngày của Trung ương trong ba số liên tiếp về quyết định này.
Thẩm phán ra quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp trong các trường hợp sau đây :
1- Chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp không có phương án hoà giải và các giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp theo quy định tại Điều 20 của Luật này;
2- Chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp không thực hiện các quy định tại Điều 28 của Luật này;
3- Hội nghị chủ nợ không thông qua phương án hoà giải và các giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp;
4- Hết thời hạn tổ chức lại hoạt động kinh doanh mà doanh nghiệp vẫn kinh doanh không có hiệu quả và các chủ nợ yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp;
5- Trong thời hạn tổ chức kinh doanh, doanh nghiệp vi phạm nghiêm trọng những thoả thuận tại hội nghị chủ nợ và các chủ nợ yêu cầu tuyên bố phá sản;
6- Trong quá trình giải quyết việc phá sản doanh nghiệp mà chủ doanh nghiệp tư nhân bỏ trốn hoặc bị chết và người thừa kế từ chối thừa kế hoặc không có người thừa kế.
Quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp phải có những nội dung sau đây :
1- Tên của Toà án, họ và tên của Thẩm phán giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp;
2- Ngày và số thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp;
3- Tên và địa chỉ của doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản;
4- Ngày tuyên bố phá sản doanh nghiệp;
5- Lý do tuyên bố phá sản doanh nghiệp;
6- Phương án phân chia giá trị tài sản của doanh nghiệp.
Quyết định này phải được gửi cho các chủ nợ, doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản và Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp.
Trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, Thẩm phán ra quyết định bảo toàn tài sản thế chấp hoặc cầm cố, tổ chức việc xác định giá trị của những tài sản đó. Nếu giá trị tài sản thế chấp hoặc cầm cố không đủ thanh toán số nợ của chủ nợ có bảo đảm, thì chủ nợ đó được tham gia vào việc phân chia giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp như các chủ nợ không có bảo đảm khác. Nếu giá trị của tài sản cầm cố hoặc thế chấp đó lớn hơn số nợ, thì phần chênh lệch được nhập vào giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp phá sản.
Việc phân chia giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp theo thứ tự ưu tiên sau đây:
1- Các khoản lệ phí, các chi phí theo quy định của pháp luật cho việc giải quyết phá sản của doanh nghiệp;
2- Các khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật và các quyền lợi khác theo thoả ước lao động tập thể và hợp đồng lao động đã ký kết;
3- Các khoản nợ thuế;
4- Các khoản nợ cho các chủ nợ trong danh sách chủ nợ:
a) Nếu giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp đủ thanh toán các khoản nợ của các chủ nợ, thì mỗi chủ nợ đều được thanh toán đủ số nợ của mình;
b) Nếu giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp không đủ thanh toán các khoản nợ của các chủ nợ, thì mỗi chủ nợ chỉ được thanh toán một phần khoản nợ của mình theo tỷ lệ tương ứng.
5- Nếu giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp sau khi đã thanh toán đủ số nợ của các chủ nợ mà vẫn còn thừa, thì phần thừa này thuộc về:
a) Chủ doanh nghiệp, nếu là doanh nghiệp tư nhân;
b) Các thành viên của công ty, nếu là công ty;
c) Ngân sách Nhà nước, nếu là doanh nghiệp Nhà nước.
1- Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày có quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp, các chủ nợ và doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản có quyền gửi đơn khiếu nại, Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp có quyền kháng nghị quyết định này. Hết thời hạn đó, nếu không có khiếu nại, kháng nghị, thì quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp có hiệu lực thi hành.
Trường hợp có khiếu nại, kháng nghị, thì trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại, kháng nghị, Thẩm phán đã ra quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp phải gửi hồ sơ phá sản doanh nghiệp lên Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao.
2- Trong thời hạn sáu mươi ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ phá sản doanh nghiệp, một tập thể gồm ba Thẩm phán do Chánh toà Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao chỉ định phải giải quyết xong khiếu nại, kháng nghị. Quyết định của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao là quyết định cuối cùng.
Chậm nhất là mười ngày, kể từ ngày ra quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp có hiệu lực, Thẩm phán phải đăng báo địa phương và báo hàng ngày của Trung ương trong ba số liên tiếp về quyết định này.
Bản sao quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp phải gửi cho :
a) Phòng thi hành án dân sự thuộc Sở Tư pháp;
b) Các chủ nợ, doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản;
c) Viện Kiểm sát nhân dân, cơ quan tài chính, lao động cùng cấp;
d) Cơ quan cấp giấy phép thành lập doanh nghiệp.
Đối với Phòng thi hành án, phải gửi kèm theo bản sao quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp, những tài liệu cần thiết cho việc thi hành quyết định đó.
Thẩm phán Toà án kinh tế cấp tỉnh phải giám sát việc bàn giao tài sản và các giấy tờ, tài liệu có liên quan giữa Tổ quản lý tài sản và Tổ thanh toán tài sản.
PROCEDURE FOR SETTLING A REQUEST FOR AN ENTERPRISE�S BANKRUPTCY DECLARATION
Section I. DECISION ON BEGINNING THE SETTLING PROCEDURE OF THE REQUEST FOR AN ENTERPRISE'S BANKRUPTCY DECLARATION
During the 30 days from the day of receiving and considering applications or after 7 days from the day the president of court makes decision in accordance with point 2, Article 13 of this Law, if there appears sufficient basis, the president of the Economic court of Provincial level decides to begin the settling procedure of the request for an enterprise's bankruptcy declaration. The decision must specify the reason for beginning the settling procedure of the request for the enterprise's bankruptcy declaration, appoint the time of ceasing the debt payments of the enterprise, the name and surname of the judge in charge of settling the request for the enterprise's bankruptcy declaration and the members of the committee appointed to manage property.
Depending on the character of each specific matter, the president of the Economic court of Provincial level appoints a judge or a group of 3 judges (hereafter generally called the judge) and a Property Management Committee to settle the request for the enterprise's bankruptcy declaration. In the event of appointment of three judges one of them is assigned to be in charge.
The membership of the Property Management Committee is composed of: the cadres of the Economic court of Provincial level, the executive members of the Office for enforcement of judgement under the Department of Justice, representatives of the creditors, representatives of the indebted enterprises, representatives of the trade unions or labourers in a place having no trade union organizations, specialists of the financial bodies, provincial banks and other specialized branches. The Property Management Committee is headed by a cadre of the Economic court of Provincial level.
The work plan of the group of judges is determined by the president of the Supreme People's Court, the organizational and operational order of the Property Management Committee is determined by the Government after agreement with the Supreme People's Court.
The decision to begin the settling procedure of the request for an enterprise's bankruptcy declaration must be published in a local newspaper where the head office of the enterprise is located and in a central newspaper in three consecutive issues.
1. The judge has the following obligations and rights:
a. To gather materials and evidences to create a file for settling the request for the enterprise's bankruptcy declaration;
b. To supervise and control the activities of the members of the Property Management Committee;
c. To make decisions to apply temporary urgent measures in case of necessity in accordance with the provisions of law in order to preserve the property of the indebted enterprise;
d. To organize and chair conferences of the creditors;
e. To make the decision to cease temporarily or cease the settlement of the request for the enterprise's bankruptcy declaration;
g. To declare the enterprise bankrupt;
2. During the settling of the request for the enterprise's bankruptcy declaration, if indications of crime are revealed, the judge supplies the information to the Office of People's Prosecutor of similar level for prosecution of criminal liability.
3. The judge is responsible to the president of the People's court of Provincial level for implementing his or her obligations and rights.
The Property Management Committee has the following rights and obligations:
1. Compile the list of all assets of the enterprise;
2. Supervise and control the management of the enterprise's property. In case of necessity, it has the right to require the judge to decide to apply temporary urgent measures to preserve the remaining assets of the enterprise;
3. To gather a list of creditors and the amount of debt to be paid to each creditor;
The Property Management Committee is responsible to the judge for the implementation of its obligations and rights.
1. During the settling of the request for the enterprise's bankruptcy declaration, the director and members of the management board are still responsible for the results of the production and business activities of the enterprise. All activities of the enterprise are still carried out in an ordinary manner but are subject to the supervision and control of the judge and the Property Management Committee.
2. From the day of receiving the decision to begin the settling procedure for the request for the enterprise's bankruptcy declaration, the indebted enterprise is strictly prohibited from carrying out the following matters:
a. To hide or disperse assets of the enterprise;
b. To give as security, to mortage, to cede or to sell assets of the enterprise or to pay secured debts by means of assets of the enterprise without the consent in writing of the judge;
c. To pay any unsecured debt to any creditor.
Newly arising debts from the business activity of the enterprise after the decision to begin the settling procedure of the request for an enterprise's bankruptcy declaration are resolve as stipulated in Article 23 of this Law.
d. To refuse or reduce the right to demand debts.
e. To become a source of security for previous unsecured debts.
g. To sell, or exchange the shares or to transfer the right to ownership of the assets of the enterprise.
The property of an enterprise includes all property subject to ownership of the enterprise or subject to management of the enterprise (in regard to state enterprises) which is composed of:
1. Immovable and movable property of the enterprise at the current time;
2. Money or invested property, joint ventures, associations with other persons, enterprises or other organization;
3. Money or property of the enterprise that is borrowed or appropriated by other individuals or business enterprises.
4. Property which the enterprise is renting or lending.
5. Rights to property.
Property of a private business enterprises includes also the property of the owner of the private business enterprise which is not used in business.
Immediately after the decision to begin the settling procedure of a request for an enterprise's bankruptcy declaration has been issued, the judge must request the owner of the enterprise or its legal representative to work out the conciliation measures and solutions for reorganization of the business. The term of the business reorganization is decided by the meeting of the creditors but does not exceed two years from the day of the passing of the conciliation measures by the meeting of the creditors.
Conciliation measures and for business reorganization must contain concrete methods and implementations steps: they must also have a debt paying schedule for creditors and wages for employees.
Conciliation measures and solutions for the business reorganization of the enterprise must be submitted to the judge during the 60 days from the day of his request. By the end of this term, if no conciliation measure is found, the judge declares the enterprise bankrupt and organizes the meeting of the creditors to discuss measures for dividing remaining property value of the enterprise.
During the 60 days from the first day of publishing in the local newspaper or daily central newspaper the court's decision to begin the settling procedure of the request for an enterprise's bankruptcy declaration, the creditors must submit the court the demand bills of the enterprise. A creditor's application must specify the debts that must be paid by the enterprise pointing out the mature and immature debts, secured and unsecured debts along with documents and evidences concerning these debts.
During the 15 days from the end of the term for sending the demand bill, the Property Management Committee must complete the list of the creditors and the debts (hereafter called list of the creditors). This list must specify the debts of each creditor among which are the secured debts and the unsecured debts, mature debts and immature debts, and must be posted up publicly at the provincial court, at the head-office and branches of the enterprise for 10 days. In this term the creditors and the indebted enterprise have the right to petition the judge about the list of the creditors. The judge considers the petition, and if there are reasons, makes amendments and supplements to the list of the creditors. By the end of this term the Property Management Committee closes of the creditors. The creditors who did not send demand bills are deprived of the right to participate in the meeting of the creditors.
From the time of ceasing debt payments, the enterprise must not pay debts interest; immature debts are considered as mature ones, however interest is not counted toward for the time before the appointed moment.
During the settling of an enterprise's bankruptcy declaration, newly arising debts from the business operations of the enterprise and wage payments to the workers of the enterprise are paid under the supervision of the judge.
Section II. MEETING OF THE CREDITORS
The meeting of the creditors has the following rights and obligations:
1. To examine and approve the conciliation measures to reorganization the business activity of the enterprise;
2. To discuss with and propose to the judge the division of the remaining property value of the enterprise if a conciliation measures has not been achieved or approved.
All individuals, enterprises, and organizations in the list of creditors are members of the meeting of the creditors.
A creditor may empower in writing the another person to participate in the meeting of the creditors; an empowered person has the same rights and obligations as a creditor.
Only the unsecured or partly secured creditors have the voting right at the meeting of the creditors.
Representatives of trade unions or of labourers at places having no trade union organizations have the rights to participate in the meeting of the creditors, but do not have the voting right, except as otherwise provided as in Article 8 of this Law.
A guarantor after paying debts for the indebted enterprise becomes an unsecured creditor and has the same rights and obligations as the other unsecured creditors and may participate in the meeting of the creditors and share in the remaining property value of the enterprise declared bankrupt in proportion to the debt payments to the creditors.
The creditors whose part of debt is covered by the guarantor are allowed to participate in the division of the remaining property value of the indebted enterprise in proportion to amounts of the unpaid debt.
During the 30 days from the day of closing the list of the creditors, the judge convenes and chairs the meeting of the creditors. Invitation to the meeting of the creditors must be sent to the members and participants of the meeting at least 15 days before its opening.
The invitations must be accompanied by copies of the conciliation measures and the solutions for the business reorganization of the enterprise.
The owner of the enterprise or the legal representative of the enterprise must be at the meeting of the creditors to present the conciliation measures and solutions for the business reorganization of the enterprise and to answer questions put forward at the meeting. The owner of the enterprise or the representative of the enterprise who cannot participate in the meeting for acceptable reason must empower in writing another person to participate in the meeting. The empowered person has the same rights and obligations as the owner of the enterprise or the representative of the enterprise at the meeting of the creditors. In the case of the death of the private enterprise's owner, his legal successor participates in the meeting in place of him.
The meeting of the creditors is only valid with the participation of more than half of the creditors representing of at least 2/3 of the total of the unguaranteed debts.
The report of a successful conciliation for the solution of the business reorganization of the enterprise will be valid legally only when it is approved by more than half of the creditors representing of at least 2/3 of the total of the unguaranteed debts. The report of the successful conciliation must specify the agreed issues and contain and the signatures of the judge and the creditors participating in the meeting. Based on the report of the successful conciliation, the judge makes a decision to suspend temporarily the settlement of the request for the enterprise's bankruptcy declaration. The agreements in the report the successful conciliation are compulsory for all creditors and indebted enterprises.
The meeting of the creditors may be postponed one time in cases of:
1. Absence of more than half of the creditors representing of at least 2/3 of the total of the unsecured debts;
2. Vote of the majority of the creditors at the meeting for postponed the meeting.
1. During the 30 days from the day of postponing the meeting of the creditors, the judge must recall and chair the meeting. The invitation must be published in the local and central daily newspaper one time and must be sent to the members and the participants at least 15 days before the opening of the meeting. The meeting is valid with the participation of a number of creditors sufficient to represent at least 2/3 of the total of the unsecured debts.
The decision to approve the conciliation measure and solution for the business reorganization of the enterprise at this meeting will be valid legally with the consent of creditors representing of at least 2/3 of the total of the unguaranteed debts of the creditors present.
The agreements in the report of the successful conciliation of the meeting are compulsory for all creditors and indebted enterprises.
2. If the meeting of the creditors fails owing to the absence of the creditors as stipulated in point 1 of this Article, the judge makes a decision to cease the settlement of the request for an enterprise's bankruptcy declaration and the decision must be published in a local and central daily newspaper in three consecutive issues.
The contents of the meeting of the creditors must be recorded fully in its report. The report must be signed by the judge, the secretary, the owner or the representative of the enterprise and the creditors who attended the meeting.
The Judge makes the decision to accept the report on a successful conciliation and solution for the enterprise's business reorganization of the meeting of the creditors and to suspend temporarily the settlement of the enterprise's bankruptcy. The judge must publish this decision in a local and a central daily newspaper in three consecutive issues.
The owner or the representative of the enterprise is responsible for the implementation of the solution for business reorganization in accordance with the plan and schedule approved by the meeting of the creditors.
The crediators are obliged to carry out the agreements of the meeting of the creditors and to supervise the implementation of these agreements by the enterprises.
During the reorganization of the business, if the enterprise carries on business effectively, fulfils its obligations in keeping with the plan approved by the meeting of the creditors and there are no petitions of the creditors to the court, the owner of the enterprise has the right to ask the judge to cease the settlement of the request for the enterprise's bankruptcy declaration. The Judge makes a decision on ceasing the settlement of the request for the enterprise's bankruptcy declaration and must publish the decision in a local and a central daily newspaper in three consecutive issues.
Section III. DECLARATION OF AN ENTERPRISE'S BANKRUPTCY
The Judge makes the decision to declare an enterprise bankrupt in the following cases:
1. The owner or the legal representative of the enterprise have not found conciliation measure and the solutions for the business reorganization of the enterprise as stipulated in Article 20 of this Law.
2. The owner or the legal representative of the enterprise does not implement the regulations in Article 28 of this Law;
3. The meeting of the creditors does not approve the conciliation measure and the solution for the business reorganization of the enterprise;
4. The term for the business reorganization of the enterprise ends but the enterprise still fails to carry on business effectively and the creditors require the enterprise to be declared bankrupt.
5. During the reorganization of the business the enterprise violates seriously the agreements of the meeting of the creditors and the creditors request the bankruptcy declaration;
6. During the settling of the enterprise's bankruptcy the owner of a private enterprise runs away or dies and the successor refuse to succeed or there is no the successor.
The decision on an enterprise's bankruptcy declaration must contain the following contents:
1. Name of the court, name, surname of the Judge dealing with the settlement of the request for the enterprise's bankruptcy declaration.
2. Date and reception number of the application for the enterprise's bankruptcy declaration.
3. Name and address of the enterprise to be declared bankrupt.
4. Date of the enterprise's bankruptcy declarations.
5. Reason for the enterprise's bankruptcy declaration.
6. Measures for dividing the property value of the enterprise.
This Decision must be sent to the creditors, the enterprise declared bankrupt and the Office of People's Prosecutor at the same level.
During the settling of the request for the enterprise's bankruptcy declaration, the Judge makes a decision to preserve the mortaged assets or assets given as security, and organizes the appraisal of these assets. If the value of the mortaged assets or assets given as security is not sufficient to cover the debts of the secured creditors, these creditors have the right to participate in the division of the remaining property value of the enterprise as the other unsecured creditors. If the value of these mortaged assets or assets given as a security is bigger than the debts, the difference will be included in the remaining property value of the bankrupt enterprise.
The division of the remaining property value of the enterprise is carried out in the following preferential order:
1. Fees, expenses as stipulated by law for the settlement of enterprise's bankruptcy;
2. Wage, debts, work leave allowances, social insurance as stipulated by law and other interests as agreed upon in the collective labour agreement and signed labour contracts.
3. Tax debts;
4. Debts to the creditors in the list of the creditors:
a. If the remaining property value of the enterprise is sufficient to cover the debts of the creditors, each creditor is paid fully for their debts;
b. If the remaining property value of the enterprise is not sufficient to cover the debts of the creditors, each creditors is paid only partly for their debts in corresponding proportion.
5. If there will be a surplus from the remaining property value used to cover fully the debts of the creditors, this surplus will belong to:
a. The owner of the enterprise if it is a private enterprise;
b. Members of the company if it is a company;
c. The State Budget if it is a State enterprise.
1. During the 30 days from the day of the decision on the enterprise's bankruptcy declaration, the creditors and the enterprise declared bankrupt have the right to submit a complaint and the Office of People's Prosecutor of the same level has the right to protest this decision. By the end of this term if there no complaint or appeal, the decision on the enterprise's bankruptcy declaration is effective for implementation.
In case of complaint or appeal, during the 5 days from the day of receiving the complaints or appeals, the Judge having made the decision on the enterprise's bankruptcy declaration must send the file on the enterprise's bankruptcy to the court of appeal under the Supreme People's Court.
2. During the 60 days from the day of receiving the file on the enterprise's bankruptcy, a group composed of 3 judges and appointed by the president of the Court of Appeal under the Supreme People's Court settles completely the complaints or appeals. The Decision of the Court of Appeal under the Supreme People's Court is final.
At the least 10 days from the day the decision on the enterprise's bankruptcy declaration comes into effect, the judge must publish the decision in a local, and a central daily newspaper in three consecutive issues.
A copy of the decision on the enterprise bankruptcy declaration must be sent to:
a. The office for enforcing civil judgements under the Department of Justice;
b. The creditors and the enterprise declared bankrupt;
c. The Office of People's Prosecutor and financial labour organs at the same level;
d. The organ issuing licence on enterprise's establishment.
As for office for enforcement of judgements, the decision on the enterprise's bankruptcy declaration sent to it must be accompanied by copies of the decision on the enterprise's bankruptcy declaration and documents necessary for the implementation of this Decision.
The Judge of the Economic Court must supervise the transfer of the assets, documents and, materials concerned between the Property Management Committee and the Property Liquidation Committee.
Tình trạng hiệu lực: Hết hiệu lực