Chương IV Luật di sản văn hóa 2001: Bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá vật thể
Số hiệu: | 28/2001/QH10 | Loại văn bản: | Luật |
Nơi ban hành: | Quốc hội | Người ký: | Nguyễn Văn An |
Ngày ban hành: | 29/06/2001 | Ngày hiệu lực: | 01/01/2002 |
Ngày công báo: | 15/09/2001 | Số công báo: | Số 34 |
Lĩnh vực: | Tài nguyên - Môi trường, Văn hóa - Xã hội | Tình trạng: | Còn hiệu lực |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
1. Di tích lịch sử - văn hoá phải có một trong các tiêu chí sau đây:
a) Công trình xây dựng, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử tiêu biểu trong quá trình dựng nước và giữ nước;
b) Công trình xây dựng, địa điểm gắn với thân thế và sự nghiệp của anh hùng dân tộc, danh nhân của đất nước;
c) Công trình xây dựng, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử tiêu biểu của các thời kỳ cách mạng, kháng chiến;
d) Địa điểm có giá trị tiêu biểu về khảo cổ;
đ) Quần thể các công trình kiến trúc hoặc công trình kiến trúc đơn lẻ có giá trị tiêu biểu về kiến trúc, nghệ thuật của một hoặc nhiều giai đoạn lịch sử.
2. Danh lam thắng cảnh phải có một trong các tiêu chí sau đây:
a) Cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với công trình kiến trúc có giá trị thẩm mỹ tiêu biểu;
b) Khu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa lý, đa dạng sinh học, hệ sinh thái đặc thù hoặc khu vực thiên nhiên chứa đựng những dấu tích vật chất về các giai đoạn phát triển của trái đất.
Căn cứ vào giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học, di tích lịch sử - văn hoá, danh lam thắng cảnh (sau đây gọi là di tích) được chia thành:
1. Di tích cấp tỉnh là di tích có giá trị tiêu biểu của địa phương;
2. Di tích quốc gia là di tích có giá trị tiêu biểu của quốc gia;
3. Di tích quốc gia đặc biệt là di tích có giá trị đặc biệt tiêu biểu của quốc gia.
1. Thẩm quyền quyết định xếp hạng di tích được quy định như sau:
a) Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định xếp hạng di tích cấp tỉnh;
b) Bộ trưởng Bộ Văn hoá - Thông tin quyết định xếp hạng di tích quốc gia;
c) Thủ tướng Chính phủ quyết định xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt; quyết định việc đề nghị Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên hợp quốc xem xét đưa di tích tiêu biểu của Việt Nam vào Danh mục di sản thế giới.
2. Trong trường hợp di tích đã được xếp hạng mà sau đó có đủ căn cứ xác định là không đủ tiêu chuẩn hoặc bị huỷ hoại không có khả năng phục hồi thì người có thẩm quyền quyết định xếp hạng di tích nào có quyền ra quyết định huỷ bỏ xếp hạng đối với di tích đó.
Thủ tục xếp hạng di tích được quy định như sau:
1. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh lập hồ sơ di tích trình Bộ trưởng Bộ Văn hoá - Thông tin quyết định xếp hạng di tích quốc gia;
2. Bộ trưởng Bộ Văn hoá - Thông tin lập hồ sơ di tích trình Thủ tướng Chính phủ quyết định xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt; lập hồ sơ di tích tiêu biểu của Việt Nam trình Thủ tướng Chính phủ quyết định việc đề nghị Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên hợp quốc xem xét đưa vào Danh mục di sản thế giới.
Hồ sơ trình Thủ tướng Chính phủ phải có ý kiến thẩm định bằng văn bản của Hội đồng di sản văn hoá quốc gia.
1. Các khu vực bảo vệ di tích bao gồm:
a) Khu vực bảo vệ I gồm di tích và vùng được xác định là yếu tố gốc cấu thành di tích, phải được bảo vệ nguyên trạng;
b) Khu vực bảo vệ II là vùng bao quanh khu vực bảo vệ I của di tích, có thể xây dựng những công trình phục vụ cho việc phát huy giá trị di tích nhưng không làm ảnh hưởng tới kiến trúc, cảnh quan thiên nhiên và môi trường - sinh thái của di tích.
Trong trường hợp không xác định được khu vực bảo vệ II thì việc xác định chỉ có khu vực bảo vệ I đối với di tích cấp tỉnh do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định, đối với di tích quốc gia do Bộ trưởng Bộ Văn hoá - Thông tin quyết định, đối với di tích quốc gia đặc biệt do Thủ tướng Chính phủ quyết định.
2. Việc xây dựng các công trình ở khu vực bảo vệ II quy định tại điểm b khoản 1 Điều này đối với di tích quốc gia và di tích quốc gia đặc biệt phải có sự đồng ý bằng văn bản của Bộ trưởng Bộ Văn hoá - Thông tin, đối với di tích cấp tỉnh phải có sự đồng ý bằng văn bản của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.
3. Các khu vực bảo vệ quy định tại khoản 1 Điều này được xác định trên bản đồ địa chính, kèm theo biên bản khoanh vùng bảo vệ và phải được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận trong hồ sơ di tích.
1. Tổ chức, cá nhân là chủ sở hữu hoặc được giao quản lý, sử dụng di tích có trách nhiệm bảo vệ di tích đó; trong trường hợp phát hiện di tích bị lấn chiếm, huỷ hoại hoặc có nguy cơ bị huỷ hoại phải kịp thời có biện pháp ngăn chặn và thông báo cho cơ quan chủ quản cấp trên trực tiếp, Uỷ ban nhân dân địa phương hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền về văn hoá - thông tin nơi gần nhất.
2. Uỷ ban nhân dân địa phương hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền về văn hoá - thông tin khi nhận được thông báo về di tích bị huỷ hoại hoặc có nguy cơ bị huỷ hoại phải kịp thời áp dụng các biện pháp ngăn chặn, bảo vệ và báo cáo ngay với cơ quan cấp trên trực tiếp.
3. Bộ Văn hoá - Thông tin khi nhận được thông báo về di tích bị huỷ hoại hoặc có nguy cơ bị huỷ hoại phải kịp thời chỉ đạo và hướng dẫn cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở địa phương, chủ sở hữu di tích áp dụng ngay các biện pháp ngăn chặn, bảo vệ; đối với di tích quốc gia đặc biệt phải báo cáo với Thủ tướng Chính phủ.
Việc bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích phải được xây dựng thành dự án trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt và phải bảo đảm giữ gìn tối đa những yếu tố nguyên gốc của di tích.
Bộ trưởng Bộ Văn hoá - Thông tin ban hành quy chế về bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích.
Thẩm quyền phê duyệt dự án bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích được thực hiện theo Luật này và các quy định của pháp luật về xây dựng.
Khi phê duyệt dự án bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích phải có ý kiến thẩm định bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về văn hoá - thông tin.
1. Khi phê duyệt dự án cải tạo, xây dựng các công trình nằm ngoài các khu vực bảo vệ di tích quy định tại Điều 32 của Luật này mà xét thấy có khả năng ảnh hưởng xấu đến cảnh quan thiên nhiên và môi trường - sinh thái của di tích thì phải có ý kiến thẩm định bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về văn hoá - thông tin.
2. Trong trường hợp chủ đầu tư dự án cải tạo, xây dựng công trình quy định tại khoản 1 Điều này có đề nghị thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền về văn hoá - thông tin có trách nhiệm cung cấp tài liệu liên quan và những yêu cầu cụ thể về bảo vệ di tích để chủ đầu tư lựa chọn các giải pháp thích hợp bảo đảm cho việc bảo vệ và phát huy giá trị di tích.
1. Chủ đầu tư dự án cải tạo, xây dựng công trình ở nơi có ảnh hưởng tới di tích có trách nhiệm phối hợp và tạo điều kiện để cơ quan nhà nước có thẩm quyền về văn hoá - thông tin giám sát quá trình cải tạo, xây dựng công trình đó.
2. Trong quá trình cải tạo, xây dựng công trình mà thấy có khả năng có di tích hoặc di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thì chủ dự án phải tạm ngừng thi công và thông báo kịp thời cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền về văn hoá - thông tin.
Khi nhận được thông báo, cơ quan nhà nước có thẩm quyền về văn hoá - thông tin phải có biện pháp xử lý kịp thời để bảo đảm tiến độ xây dựng. Trường hợp xét thấy cần đình chỉ xây dựng công trình tại địa điểm đó để bảo vệ nguyên trạng di tích thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền về văn hoá - thông tin phải báo cáo lên cơ quan cấp trên có thẩm quyền quyết định.
3. Trong trường hợp cần tổ chức thăm dò, khai quật khảo cổ thì kinh phí thăm dò, khai quật do Chính phủ quy định.
Việc thăm dò, khai quật khảo cổ chỉ được tiến hành sau khi có giấy phép của Bộ trưởng Bộ Văn hoá - Thông tin.
Trong trường hợp địa điểm khảo cổ đang bị huỷ hoại hoặc có nguy cơ bị huỷ hoại thì Bộ trưởng Bộ Văn hoá - Thông tin cấp giấy phép khai quật khẩn cấp.
1. Tổ chức có chức năng nghiên cứu khảo cổ muốn tiến hành thăm dò, khai quật khảo cổ phải gửi hồ sơ xin phép thăm dò, khai quật khảo cổ đến Bộ Văn hoá - Thông tin.
2. Bộ trưởng Bộ Văn hoá - Thông tin có trách nhiệm cấp giấy phép thăm dò, khai quật khảo cổ trong thời hạn 30 ngày, kể từ khi nhận được hồ sơ xin phép thăm dò, khai quật khảo cổ; trường hợp không cấp giấy phép phải nêu rõ lý do bằng văn bản.
3. Bộ trưởng Bộ Văn hoá - Thông tin ban hành quy chế về thăm dò, khai quật khảo cổ.
1. Người chủ trì cuộc thăm dò, khai quật khảo cổ phải có các điều kiện sau đây:
a) Có bằng cử nhân chuyên ngành khảo cổ học hoặc bằng cử nhân chuyên ngành khác có liên quan đến khảo cổ học;
b) Có ít nhất 5 năm trực tiếp làm công tác khảo cổ;
c) Được tổ chức xin phép thăm dò, khai quật khảo cổ đề nghị bằng văn bản với Bộ Văn hoá - Thông tin.
Trong trường hợp cần thay đổi người chủ trì thì phải được sự đồng ý bằng văn bản của Bộ trưởng Bộ Văn hoá - Thông tin.
2. Tổ chức có chức năng nghiên cứu khảo cổ của Việt Nam được hợp tác với tổ chức, cá nhân nước ngoài tiến hành thăm dò, khai quật khảo cổ tại Việt Nam theo quy định của pháp luật.
1. Mọi di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thu được trong quá trình thăm dò, khai quật khảo cổ và do tổ chức, cá nhân phát hiện, giao nộp phải được tạm nhập vào kho bảo quản của bảo tàng cấp tỉnh nơi phát hiện. Bảo tàng cấp tỉnh có trách nhiệm tiếp nhận, quản lý và báo cáo Bộ Văn hoá - Thông tin.
2. Căn cứ vào giá trị và yêu cầu bảo quản di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia quy định tại khoản 1 Điều này, Bộ trưởng Bộ Văn hoá - Thông tin quyết định giao di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia đó cho bảo tàng nhà nước có chức năng thích hợp.
3. Tổ chức, cá nhân phát hiện, giao nộp di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia được bồi hoàn chi phí phát hiện, bảo quản và được thưởng một khoản tiền theo quy định của pháp luật.
1. Bảo vật quốc gia được bảo vệ và bảo quản theo chế độ đặc biệt. Nhà nước dành ngân sách thích đáng để mua bảo vật quốc gia.
2. Bảo vật quốc gia phải được đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về văn hoá - thông tin. Nhà nước khuyến khích tổ chức, cá nhân đăng ký di vật, cổ vật thuộc sở hữu của mình với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về văn hoá - thông tin. Di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia đã đăng ký được Nhà nước thẩm định miễn phí, hướng dẫn nghiệp vụ bảo quản và tạo điều kiện để phát huy giá trị.
Bộ trưởng Bộ Văn hoá - Thông tin quy định cụ thể thủ tục đăng ký di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.
3. Khi thay đổi chủ sở hữu bảo vật quốc gia ở trong nước thì chủ sở hữu cũ phải thông báo cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền về văn hoá - thông tin nơi đăng ký bảo vật quốc gia về họ, tên và địa chỉ của chủ sở hữu mới của bảo vật quốc gia đó trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày thay đổi chủ sở hữu.
1. Di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc sở hữu toàn dân, sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội phải được quản lý trong các bảo tàng và không được mua bán, tặng cho; di vật, cổ vật thuộc các hình thức sở hữu khác được mua bán, trao đổi, tặng cho và để thừa kế ở trong nước và nước ngoài theo quy định của pháp luật; bảo vật quốc gia thuộc các hình thức sở hữu khác chỉ được mua bán, trao đổi, tặng cho và để thừa kế ở trong nước theo quy định của pháp luật.
Việc mang di vật, cổ vật ra nước ngoài phải có giấy phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về văn hoá - thông tin.
2. Việc mua bán di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia được thực hiện theo giá thoả thuận hoặc tổ chức đấu giá. Nhà nước được ưu tiên mua di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.
Việc đưa di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia ra nước ngoài để trưng bày, triển lãm, nghiên cứu hoặc bảo quản phải bảo đảm các điều kiện sau đây:
1. Có sự bảo hiểm từ phía tiếp nhận di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia;
2. Có quyết định của Thủ tướng Chính phủ cho phép đưa bảo vật quốc gia ra nước ngoài; quyết định của Bộ trưởng Bộ Văn hoá - Thông tin cho phép đưa di vật, cổ vật ra nước ngoài.
Cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải báo cáo Bộ Văn hoá - Thông tin về những di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia tịch thu được do tìm kiếm, mua bán, vận chuyển, xuất khẩu, nhập khẩu trái phép để Bộ trưởng Bộ Văn hoá - Thông tin quyết định việc giao di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia đó cho cơ quan có chức năng thích hợp.
Việc làm bản sao di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia phải bảo đảm các điều kiện sau:
1. Có mục đích rõ ràng;
2. Có bản gốc để đối chiếu;
3. Có dấu hiệu riêng để phân biệt với bản gốc;
4. Có sự đồng ý của chủ sở hữu di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia;
5. Có giấy phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về văn hoá - thông tin.
Bảo tàng là nơi bảo quản và trưng bày các sưu tập về lịch sử tự nhiên và xã hội (sau đây gọi là sưu tập) nhằm phục vụ nhu cầu nghiên cứu, giáo dục, tham quan và hưởng thụ văn hoá của nhân dân.
Bảo tàng Việt Nam bao gồm:
1. Bảo tàng quốc gia là nơi bảo quản và trưng bày các sưu tập có giá trị tiêu biểu trong phạm vi cả nước;
2. Bảo tàng chuyên ngành là nơi bảo quản và trưng bày các sưu tập có giá trị tiêu biểu về một chuyên ngành;
3. Bảo tàng cấp tỉnh là nơi bảo quản và trưng bày các sưu tập có giá trị tiêu biểu ở địa phương;
4. Bảo tàng tư nhân là nơi bảo quản và trưng bày các sưu tập về một hoặc nhiều chủ đề.
Bảo tàng có các nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1. Sưu tầm, kiểm kê, bảo quản và trưng bày các sưu tập;
2. Nghiên cứu khoa học về di sản văn hoá;
3. Tổ chức phát huy giá trị di sản văn hoá phục vụ lợi ích của toàn xã hội;
4. Xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên môn, nghiệp vụ;
5. Quản lý cơ sở vật chất và trang thiết bị kỹ thuật;
6. Thực hiện hợp tác quốc tế theo quy định của pháp luật;
7. Thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
Điều kiện để thành lập bảo tàng bao gồm:
1. Có sưu tập theo một hoặc nhiều chủ đề;
2. Có nơi trưng bày, kho và phương tiện bảo quản;
3. Có người am hiểu chuyên môn phù hợp với hoạt động bảo tàng.
1. Thẩm quyền quyết định thành lập bảo tàng được quy định như sau:
a) Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập bảo tàng quốc gia, bảo tàng chuyên ngành;
b) Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập bảo tàng cấp tỉnh, bảo tàng tư nhân.
2. Thủ tục thành lập bảo tàng được quy định như sau:
a) Tổ chức, cá nhân có nhu cầu thành lập bảo tàng phải gửi hồ sơ đề nghị thành lập đến người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều này. Hồ sơ đề nghị thành lập bảo tàng gồm văn bản đề nghị thành lập, giấy xác nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về các điều kiện được quy định tại Điều 49 của Luật này;
b) Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ, người có thẩm quyền quyết định thành lập bảo tàng có trách nhiệm xem xét, quyết định; trường hợp từ chối phải nêu rõ lý do bằng văn bản.
1. Việc xếp hạng bảo tàng căn cứ vào các tiêu chuẩn sau đây:
a) Số lượng và giá trị các sưu tập;
b) Chất lượng bảo quản và trưng bày sưu tập;
c) Cơ sở vật chất và trang thiết bị kỹ thuật;
d) Mức độ chuẩn hoá đội ngũ cán bộ chuyên môn, nghiệp vụ.
2. Căn cứ vào mức độ đạt được các tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều này, Chính phủ quy định cụ thể về việc xếp hạng bảo tàng.
Di sản văn hoá có trong nhà truyền thống, nhà lưu niệm phải được bảo vệ và phát huy giá trị theo quy định của Luật này.
Nhà nước khuyến khích chủ sở hữu tổ chức trưng bày, giới thiệu rộng rãi sưu tập, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc sở hữu của mình.
Khi cần thiết, cơ quan nhà nước có thẩm quyền về văn hoá - thông tin có thể thoả thuận với chủ sở hữu về việc sử dụng di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia để phục vụ cho công tác nghiên cứu hoặc trưng bày tại các bảo tàng nhà nước.
Điều kiện, nội dung và thời hạn sử dụng di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia do cơ quan nhà nước có thẩm quyền và chủ sở hữu thoả thuận bằng văn bản.
PROTECTION AND PROMOTION OF VALUES OF TANGIBLE CULTURAL HERITAGES
Section 1. HISTORICAL-CULTURAL RELICS, FAMOUS LANDSCAPES AND BEAUTY SPOTS
1. Historical-cultural relics must attain one of the following criteria:
a) Construction works and/or places associated with typical historical events in the process of national construction and defense;
b) Construction works and/or places associated with the life and activities of national heroes, heroines or celebrities;
c) Construction works and/or places associated with typical historical events in the revolutionary and resistance war periods;
d) Locations of typical archaeological values;
e) Architectural works in groups or single with typical architectural and/or artistic values for one or several historical periods.
2. Famous landscapes and beauty spots must attain one of the following criteria:
a) Natural sceneries or places where exists a combination of natural scenery and architectures with typical aesthetic value;
b) Natural zones with scientific value in geology, topography, geography, biological diversity, typical ecological system or natural zones, where exist material traces of development stages of the earth.
Article 29.- According to their respective historical, cultural and/or scientific values, historical-cultural relics, famous landscapes and beauty spots (hereinafter referred collectively to as relics) shall be classified into:
1. Provincial-level relics, which have typical value of localities;
2. National relics, which have typical value of the nation; and
3. Special national relics, which have extremely typical value of the nation.
1. The competence to decide on ranking of relics is specified as follows:
a) The presidents of the provincial-level People’s Committees shall decide on the ranking of provincial-level relics;
b) The Minister of Culture and Information shall decide on the ranking of national relics;
c) The Prime Minister shall decide on the ranking of special national relics; and decide to propose the United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization to consider and put Vietnam’s typical relics on the List of World Heritages.
2. In cases where there are enough grounds to determine that a relic, which has already been ranked, is unqualified or irreparably ruined, the person competent to decide on the ranking of such relic may issue a decision to disregard such relic’s ranking.
Article 31.- The procedures for ranking relics are prescribed as follows:
1. The presidents of the provincial-level People’s Committees shall compile dossiers on relics and submit them to the Minister of Culture and Information for decision on ranking of national relics;
2. The Minister of Culture and Information shall compile and submit dossiers on relics to the Prime Minister for decision on ranking of special national relics; compile and submit dossiers on Vietnam’s typical relics to the Prime Minister for decision on the proposal to the United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization to consider and put them on the List of World Heritages.
Dossiers to be submitted to the Prime Minister must be appraised in writing by the National Council for Cultural Heritages.
1. Relic protection zones include:
a) Protection zone I covers the relic and the area(s) determined as the relic’s original constituents, which must be protected in original state;
b) Protection zone II is the area surrounding the protection zone I of the relic, where works can be constructed in service of the promotion of the relic’s values, provided that they do not affect the architecture, natural scenery and ecological environment of the relic.
In cases where the protection zone II cannot be determined, the determination of the sole protection zone I shall be decided by the presidents of the provincial-level People’s Committees for the provincial-level relics, by the Minister of Culture and Information for the national relics, or by the Prime Minister for the special national relics.
2. The construction of works in the protection zone II as mentioned at Point b, Clause 1 of this Article for national relics and special national relics must be agreed upon in writing by the written consents of the Minister of Culture and Information, or by the presidents of the provincial-level People’s Committees for provincial-level relics.
3. Protection zones specified in Clause 1 of this Article shall be delineated on cadastral maps enclosed with records on protection zone marking-off and must be affirmed by competent State agencies in dossiers on relics.
1. Organizations and individuals that are relic owners or assigned relics for management and use shall have to protect such relics. In cases where they detect that a relic is encroached upon, ruined or in danger of being ruined, they shall have to promptly take preventive measures and report such to their immediate superior agency, the local People’s Committee or the nearest competent State agency in charge of culture and information.
2. The local People’s Committees or the competent State agencies in charge of culture and information shall, upon receiving reports on relics being ruined or in danger of being ruined, have to promptly apply preventive and/or protective measures and immediately report such to their immediate superior agencies.
3. The Ministry of Culture and Information shall, upon receiving reports on relics being ruined or in danger of being ruined, have to promptly direct and guide the local competent State agencies and/or owners of such relics to immediately apply preventive and/or protective measures; and report to the Prime Minister, for special national relics.
Article 34.- The preservation, embellishment and restoration of relics shall be devised into projects to be submitted to the competent State agencies for approval, provided that the relics original elements are preserved to the utmost.
The Minister of Culture and Information shall promulgate a Regulation on preservation, embellishment and restoration of relics.
Article 35.- The competence to approve projects on preservation, embellishment and restoration of relics shall comply with this Law and law provisions on construction.
In the course of approving projects on preservation, embellishment and restoration of relics, the written appraisal opinions of the competent State agencies in charge of culture and information are required.
1. If before being approved, projects on renovation or construction of works lying outside relics protection zones prescribed in Article 32 of this Law are deemed likely to adversely affect the natural scenery and ecological environment of such relics, there must be written appraisal opinions of the competent State agencies in charge of culture and information.
2. In cases where investors of projects on renovation or construction of works specified in Clause 1 of this Article make any request, the competent State agencies in charge of culture and information shall have to supply relevant documents and make specific proposals on protection of relics so that such investors can select appropriate solutions ensuring the protection and promotion of values of relics.
1. Investors of projects on renovation or construction of works at places affecting relics shall have to coordinate with and create conditions for the competent State agencies in charge of culture and information to supervise the process of renovation or construction of such works.
2. In the process of renovation or construction of works, if they realize that there may be relics or vestiges, antiques, national precious objects, the project investors shall have to temporarily stop the construction and promptly notify the competent State agency in charge of culture and information thereof.
Upon receiving the notification, the competent State agency in charge of culture and information shall have to take timely handling measures to ensure the construction tempo. Where it deems necessary to stop the construction of works at such places to protect relics in original state, the competent State agency in charge of culture and information shall have to report such to the competent superior agency(ies) for decision.
3. In cases where it is necessary to organize archaeological exploration and/or excavation, the exploration and excavation funding shall be stipulated by the Government.
Article 38.- The archaeological exploration and/or excavation shall be conducted only after permits therefor are obtained from the Minister of Culture and Information.
In cases where an archaeological site is ruined or in danger of being ruined, the Minister of Culture and Information shall issue an urgent excavation permit.
1. Organizations with the archaeological study function which wish to conduct archaeological exploration and/or excavation shall have to file dossiers of application for archaeological exploration and excavation permits to the Ministry of Culture and Information.
2. The Minister of Culture and Information shall have to issue archaeological exploration and/or excavation permits within 30 days after receiving the dossiers of application for archaeological exploration and excavation permits. In case of refusal to issue permits, the reasons therefor must be clearly explained in writing.
3. The Minister of Culture and Information shall promulgate a Regulation on archaeological exploration and excavation.
1. Persons who assume the prime responsibility for archaeological exploration and/or excavation must satisfy the following conditions:
a/ Possessing the bachelor degree in archaeology or bachelor degree in other specialties relating to archaeology;
b/ Having been directly engaged in archaeological activities for at least 5 years;
c/ Being recommended in writing to the Ministry of Culture and Information by the organizations which apply for archaeological exploration and excavation permits.
In cases where it is necessary to change persons who assume the prime responsibility, the written approval by the Minister of Culture and Information is required.
2. The Vietnamese organizations with the archaeological study function may cooperate with foreign organizations and individuals in conducting archaeological exploration and/or excavation in Vietnam according to the provisions of law.
Section 2. VESTIGES, ANTIQUES AND NATIONAL PRECIOUS OBJECTS
1. All vestiges, antiques and national precious objects gathered in the course of archaeological exploration and excavation, as well as those discovered and handed over by organizations and individuals must be temporarily deposited in preservative storage of museums of the provinces, where such vestiges, antiques and national precious objects are discovered. Provincial-level museums shall have to receive and manage them and make reports thereon to the Ministry of Culture and Information.
2. Basing himself on values and requirements of preserving vestiges, antiques or national precious objects prescribed in Clause 1 of this Article, the Minister of Culture and Information shall decide to hand over such vestiges, antiques or national precious objects to State museums with appropriate functions.
3. Organizations and individuals that discover and hand over vestiges, antiques and national precious objects shall have their discovery and preservation expenses refunded and be rewarded a sum of money according to the provisions of law.
1. National precious objects shall be protected and preserved according to a special regime. The State shall earmark an adequate proportion of the State budget to purchase national precious objects.
2. National precious objects shall be registered with the competent State agencies in charge of culture and information. The State encourages organizations and individuals to register vestiges and antiques under their ownership with the competent State agencies in charge of culture and information. The registered vestiges, antiques and national precious objects shall be assessed free of charge by the State, which shall also give instructions on professional preservation and create conditions for the promotion of their values.
The Minister of Culture and Information shall specify the procedures for registering vestiges, antiques and national precious objects.
3. When owners of national precious objects are changed within the country, the former owners shall notify the competent State agencies in charge of culture and information where national precious objects are registered of the full names and addresses of the new owners of such national precious objects within 15 days after the date of owner change.
Vestiges, antiques and national precious objects under the ownership of the entire population, political organizations or socio-political organizations must be managed in museums and must not be sold, purchased, donated nor presented as gifts. Vestiges and antiques under other ownership forms may be purchased, sold, exchanged, donated or bequeathed as inheritance at home and abroad according to the provisions of law. National precious objects under other ownership forms may only be purchased, sold, exchanged, donated and bequeathed as inheritance in the country under the provisions of law.
The bringing of vestiges and antiques abroad must be permitted by the competent State agencies in charge of culture and information.
2. The purchase and sale of vestiges, antiques and national precious objects shall be effected at agreed prices or in auctions. The State shall be given priority to purchase vestiges, antiques and national precious objects.
Article 44.- The bringing of vestiges, antiques, national precious objects abroad for display, exhibition, research or preservation must satisfy the following conditions:
1. Getting insured by recipients of vestiges, antiques and national precious objects;
2. Obtaining the Prime Minister’s decisions permitting the bringing of national precious objects abroad; or the Culture and Information Minister’s decisions permitting the bringing of vestiges and antiques abroad.
Article 45.- The competent State agencies shall have to report to the Ministry of Culture and Information on vestiges, antiques, national precious objects confiscated from the illegal search, purchase, sale, transportation, export and import, so that the Minister of Culture and Information shall decide on the hand-over of such vestiges, antiques and national precious objects to agencies with appropriate functions.
Article 46.- The duplication of vestiges, antiques and/or national precious objects must satisfy the following conditions:
1. For clear purposes;
2. Having the originals for comparison;
3. Putting specific marks on duplicates for distinguishing them from their originals;
4. Obtaining consents of owners of vestiges, antiques and national precious objects;
5. Obtaining permits from the competent State agencies in charge of culture and information.
Article 47.- Museums are places where collections on natural and social history (hereinafter referred to as collections) are preserved and displayed in service of the people’s needs for research, education, visit and cultural enjoyment.
Vietnamese museums include:
1. National museums, which are places where collections with national typical values are preserved and displayed;
2. Specialized museums, which are places where collections with typical values in particular specialties are preserved and displayed;
3. Provincial-level museums, which are places where collections with typical values within localities are preserved and displayed;
4. Private museums, which are places where collections on one or several themes are preserved and displayed.
Article 48.- Museums have the following tasks and powers:
1. To collect, inventory, preserve and display collections;
2. To conduct scientific researches into cultural heritages;
3. To organize the promotion of cultural heritages values for the interest of the entire society;
4. To build up the contingent of professional personnel;
5. To manage the material foundations and technical facilities and equipment;
6. To undertake international cooperation according to the provisions of law;
7. To perform other tasks and exercise other powers according to the provisions of law.
Article 49.- Conditions for the establishment of a museum include:
1. Possessing collection(s) on one or several themes;
2. Having a display area, storage and preservation means;
3. Having personnel mastering professional knowledge and techniques for museological activities.
1. The competence to decide on the establishment of museums is defined as follows:
a/ The Prime Minister shall decide on the establishment of national museums and specialized museums;
b/ The presidents of the provincial-level People’s Committees shall decide on the establishment of provincial-level museums and private museums.
2. The procedures for establishing museums are prescribed as follows:
a/ Organizations and individuals wishing to establish museums shall have to send dossiers of establishment request to the competent persons specified in Clause 1 of this Article. A dossier of museum establishment request includes a written establishment request and the competent State agency�s certification of the conditions prescribed in Article 49 of this Law;
b/ Within 30 days after receiving the dossiers, persons competent to decide on the establishment of museums shall have to consider and make decisions. In case of refusal, the reasons therefor must be clearly stated in writing.
1. The ranking of museums shall be based on the following criteria:
a/ The quality and value of collections;
b/ The quality of the preservation and display of collections;
c/ Their material foundations and technical facilities and equipment;
d/ The standardization level of the professional personnel contingent.
2. Basing itself on the extent of satisfaction of the conditions prescribed in Clause 1 of this Article, the Government shall specify the museum ranking.
Article 52.- Cultural heritages available in tradition houses and memorial houses shall be protected and have their values promoted under the provisions of this Law.
Article 53.- The State encourages owners to organize the wide display and/or introduction of their collections, vestiges, antiques, national precious objects.
When necessary, the competent State agencies in charge of culture and information may reach agreements with owners on the use of their vestiges, antiques and national precious objects to serve the study work or display at the State museums.
The conditions for, content and duration of the use of vestiges, antiques and national precious objects shall be agreed upon in writing by the competent State agencies and their owners.
Tình trạng hiệu lực: Còn hiệu lực