Chương V Luật Bình đẳng giới 2006: Thanh tra, giám sát và xử lý vi phạm pháp luật về bình đẳng giới
Số hiệu: | 73/2006/QH11 | Loại văn bản: | Luật |
Nơi ban hành: | Quốc hội | Người ký: | Nguyễn Phú Trọng |
Ngày ban hành: | 29/11/2006 | Ngày hiệu lực: | 01/07/2007 |
Ngày công báo: | 10/06/2007 | Số công báo: | Từ số 340 đến số 341 |
Lĩnh vực: | Quyền dân sự, Văn hóa - Xã hội | Tình trạng: | Còn hiệu lực |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Luật Bình đẳng giới - Ngày 29/11/2006, Quốc hội đã thông qua Luật Bình đẳng giới số 73/2006/QH11, gồm 6 chương 44 điều, quy định: nam, nữ bình đẳng trong việc tự ứng cử và được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND, tự ứng cử và được giới thiệu ứng cử vào cơ quan lãnh đạo của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, bình đẳng về tiêu chuẩn chuyên môn, độ tuổi khi được đề bạt, bổ nhiệm vào cùng vị trí quản lý, lãnh đạo của cơ quan, tổ chức...
Doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ được ưu đãi về thuế và tài chính... Lao động nữ khu vực nông thôn được hỗ trợ tín dụng, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư... Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo: nữ cán bộ, công chức, viên chức khi tham gia đào tạo, bồi dưỡng mang theo con dưới ba mươi sáu tháng tuổi được hỗ trợ theo quy định...
Vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ ngang nhau trong sở hữu tài sản chung, bình đẳng trong sử dụng nguồn thu nhập chung của vợ chồng và quyết định các nguồn lực trong gia đình, bình đẳng với nhau trong việc bàn bạc, quyết định lựa chọn và sử dụng biện pháp kế hoạch hoá gia đình phù hợp, sử dụng thời gian nghỉ chăm sóc con ốm theo quy định của pháp luật...
Các hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động bao gồm: áp dụng các điều kiện khác nhau trong tuyển dụng lao động nam và lao động nữ đối với cùng một công việc mà nam, nữ đều có trình độ và khả năng thực hiện như nhau, Từ chối tuyển dụng hoặc tuyển dụng hạn chế lao động, sa thải hoặc cho thôi việc người lao động vì lý do giới tính hoặc do việc mang thai, sinh con, nuôi con nhỏ, Phân công công việc mang tính phân biệt đối xử giữa nam và nữ dẫn đến chênh lệch về thu nhập hoặc áp dụng mức trả lương khác nhau cho những người lao động có cùng trình độ, năng lực vì lý do giới tính...
Luật có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2007.
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
1. Cơ quan quản lý nhà nước về bình đẳng giới thực hiện chức năng thanh tra về bình đẳng giới.
2. Nhiệm vụ, quyền hạn của thanh tra về bình đẳng giới bao gồm:
a) Thanh tra việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới;
b) Thanh tra việc thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới, các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới;
c) Thực hiện nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo về bình đẳng giới theo quy định của Luật này và pháp luật về khiếu nại, tố cáo;
d) Xử lý vi phạm pháp luật về bình đẳng giới theo quy định của pháp luật xử lý vi phạm hành chính;
đ) Kiến nghị các biện pháp bảo đảm thi hành pháp luật về bình đẳng giới; đề nghị sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật về bình đẳng giới;
e) Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
1. Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm giám sát việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới.
2. Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm giám sát việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới tại địa phương.
1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khiếu nại quyết định, hành vi của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó vi phạm pháp luật về bình đẳng giới, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
2. Việc giải quyết khiếu nại về bình đẳng giới được thực hiện theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
1. Cá nhân có quyền tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới.
2. Việc tố cáo, giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới được thực hiện theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
Mọi hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới phải được phát hiện, ngăn chặn kịp thời. Việc xử lý vi phạm pháp luật về bình đẳng giới phải được tiến hành nhanh chóng, công minh, triệt để theo đúng quy định của pháp luật.
1. Các hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị bao gồm:
a) Cản trở việc nam hoặc nữ tự ứng cử, được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, vào cơ quan lãnh đạo của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp vì định kiến giới;
b) Không thực hiện hoặc cản trở việc bổ nhiệm nam, nữ vào cương vị quản lý, lãnh đạo hoặc các chức danh chuyên môn vì định kiến giới;
c) Đặt ra và thực hiện quy định có sự phân biệt đối xử về giới trong các hương ước, quy ước của cộng đồng hoặc trong quy định, quy chế của cơ quan, tổ chức.
2. Các hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế bao gồm:
a) Cản trở nam hoặc nữ thành lập doanh nghiệp, tiến hành hoạt động kinh doanh vì định kiến giới;
b) Tiến hành quảng cáo thương mại gây bất lợi cho các chủ doanh nghiệp, thương nhân của một giới nhất định.
3. Các hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động bao gồm:
a) Áp dụng các điều kiện khác nhau trong tuyển dụng lao động nam và lao động nữ đối với cùng một công việc mà nam, nữ đều có trình độ và khả năng thực hiện như nhau, trừ trường hợp áp dụng biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới;
b) Từ chối tuyển dụng hoặc tuyển dụng hạn chế lao động, sa thải hoặc cho thôi việc người lao động vì lý do giới tính hoặc do việc mang thai, sinh con, nuôi con nhỏ;
c) Phân công công việc mang tính phân biệt đối xử giữa nam và nữ dẫn đến chênh lệch về thu nhập hoặc áp dụng mức trả lương khác nhau cho những người lao động có cùng trình độ, năng lực vì lý do giới tính;
d) Không thực hiện các quy định của pháp luật lao động quy định riêng đối với lao động nữ.
4. Các hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo bao gồm:
a) Quy định tuổi đào tạo, tuổi tuyển sinh khác nhau giữa nam và nữ;
b) Vận động hoặc ép buộc người khác nghỉ học vì lý do giới tính;
c) Từ chối tuyển sinh những người có đủ điều kiện vào các khóa đào tạo, bồi dưỡng vì lý do giới tính hoặc do việc mang thai, sinh con, nuôi con nhỏ;
d) Giáo dục hướng nghiệp, biên soạn và phổ biến sách giáo khoa có định kiến giới.
5. Các hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực khoa học và công nghệ bao gồm:
a) Cản trở nam, nữ tham gia hoạt động khoa học, công nghệ;
b) Từ chối việc tham gia của một giới trong các khoá đào tạo về khoa học và công nghệ.
6. Các hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao bao gồm:
a) Cản trở nam, nữ sáng tác, phê bình văn học, nghệ thuật, biểu diễn và tham gia các hoạt động văn hóa khác vì định kiến giới;
b) Sáng tác, lưu hành, cho phép xuất bản các tác phẩm dưới bất kỳ thể loại và hình thức nào để cổ vũ, tuyên truyền bất bình đẳng giới, định kiến giới;
c) Truyền bá tư tưởng, tự mình thực hiện hoặc xúi giục người khác thực hiện phong tục tập quán lạc hậu mang tính phân biệt đối xử về giới dưới mọi hình thức.
7. Các hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế bao gồm:
a) Cản trở, xúi giục hoặc ép buộc người khác không tham gia các hoạt động giáo dục sức khỏe vì định kiến giới;
b) Lựa chọn giới tính thai nhi dưới mọi hình thức hoặc xúi giục, ép buộc người khác phá thai vì giới tính của thai nhi.
1. Cản trở thành viên trong gia đình có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật tham gia định đoạt tài sản thuộc sở hữu chung của hộ gia đình vì lý do giới tính.
2. Không cho phép hoặc cản trở thành viên trong gia đình tham gia ý kiến vào việc sử dụng tài sản chung của gia đình, thực hiện các hoạt động tạo thu nhập hoặc đáp ứng các nhu cầu khác của gia đình vì định kiến giới.
3. Đối xử bất bình đẳng với các thành viên trong gia đình vì lý do giới tính.
4. Hạn chế việc đi học hoặc ép buộc thành viên trong gia đình bỏ học vì lý do giới tính.
5. Áp đặt việc thực hiện lao động gia đình, thực hiện biện pháp tránh thai, triệt sản như là trách nhiệm của thành viên thuộc một giới nhất định.
1. Người nào có hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử lý hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới mà gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
INSPECTION, MONITORING AND HANDLING OF VIOLATIONS OF THE LAW ON GENDER EQUALITY
Article 35. To inspect the implementation of law on gender equality
1. The state management agency on gender equality exercises the inspection functions on gender equality.
2. Duties and authority of the inspection functions on gender equality include:
a) To inspect the implementation of law on gender equality;
b) To inspect the implementation of the national target programmes of gender equality, and measures to ensure gender equality;
c) To perform tasks of handling with complaints and denunciations on gender equality in accordance with this law and the law on complaint and denunciation;
d) To handle with violations of the law on gender equality under the provisions of the law on handling with administrative violations;
dd) To recommend measures to ensure implementation of the law on gender equality, and recommend adjustment, supplementations of laws and policies on gender equality;
e) To perform other tasks and functions as stipulated by laws.
Article 36. Monitoring the implementation of law on gender equality
1. The National Assembly, the National Assembly’s Standing Committee, the Council of Ethnic Minorities, the Committees of the National Assembly, provincial National Assembly delegations and National Assembly members, within their extent of duties and powers, have the responsibility to oversee the implementation of law on gender equality.
2. People’s councils and their members, within their extent of duties and powers, have the responsibility to oversee the implementation of the law on gender equality at local levels.
Article 37. Complaints and handling of complaints against violations of the law on gender equality
1. Agencies, organizations, individuals have the right to complain about decisions and acts of agencies, organizations and individuals where they have reasons to believe that these decisions or acts violate the law on gender equality and their legitimate rights and interests.
2. The complaints on gender equality shall be handled with in accordance with the law on complaint and denunciation.
Article 38. Denunciations and handling of denunciations against violations of the law on gender equality
1. Individuals have the right to denounce any violations of the law on gender equality.
2. The denunciations and handling of denunciations against violations of the law on gender equality is carried out in accordance to the law on complaint and denunciation.
Article 39. Principles of handling violations of the law on gender equality
Every violation of the law on gender equality must be timely detected and prevented. The handling of violations of the law on gender equality must be carried out in a prompt, just and thorough manner in accordance with the law.
Article 40. Violations of the law on gender equality in the fields of politics, economy, labour, education and training, science and technology, culture, information, sport, and public health
1. Violations of the law on gender equality in the fields of politics include:
a) Impeding man or woman from self-nominating as candidate and from nominating candidates to the National Assembly, people’s councils, to leading agencies of the political organizations, socio-political organizations, socio-political and professional organizations, social organizations, social and professional organizations for gender preconception reasons;
b) Not carrying out or impeding the appointment of man and woman to the post of managers, leaders or professional titles for gender preconception reasons;
c) Making and carrying out regulations that are discriminatory in terms of gender in village codes and community conventions or in the regulations of the agencies and organizations.
2. Violations against the law on gender equality in the field of economy include:
a) Impeding or preventing man and woman from setting up a business, carrying out business activities for gender preconception reasons;
b) Conducting commercial advertisements that cause adverse consequences to business owner or trader of one certain gender.
3. Violations of the law on gender equality in the field of labour include:
a) Applying different qualifications in recruiting male and female workers to the same job that both male and female workers are qualified and have the same level and ability to perform it, except for cases requiring the application of measures to promote gender equality;
b) Refusing to recruit or limit recruitment of workers, firing or dismissing workers for gender reasons or because of their pregnancy, giving birth or raising their children;
c) Implementing discriminatory allocation of job between man and woman leading to inequality in income or applying different pay levels for workers of the same qualifications and capacity for gender reasons.
d) Not carrying out specific provisions for female workers in the labour law.
4. Violations against the law on gender equality in the field of education and training include:
a) Laying down different ages for training and enrolling between man and woman;
b) Agitating or forcing other people to leave school for gender reasons:
c) Refusing to enroll those that are qualified for training and fostering courses for gender reasons or because of their pregnancy, raising newborns and children;
d) Career-oriented education, compilation and dissemination of textbooks that contains gender preconception.
5. Violations against the law on gender equality in the field of science and technology include:
a) Impeding man and woman from participating in activities of science and technology;
b) Refusing the participation of one gender in training courses on science and technology.
6. Violations against the law on gender equality in the field of culture, information and sport include:
a) Impeding man and woman from composing, literary and artistic criticism, performing and participating in other cultural activities for gender reasons;
b) Composing, circulating and authorizing the publication of works under any genre or form to encourage, propagate gender inequality and gender preconception;
c) Spreading thought, conducting by oneself or inciting other people to conduct backward manners and custom with gender discrimination nature under all forms.
7. Violations of the law on gender equality in the field of public health include:
a) Impeding, inciting or forcing other people not to participate in the activities of health education for gender preconception reasons;
b) Choosing gender for the fetus under all forms or inciting and forcing other people to abort because of the fetus’s gender.
Article 41. Violations of the law on gender equality in the family
1. Impeding members in the family who have enough qualifications under the law from participating in the determination of assets of common proprietary of a family for gender reasons.
2. Not allowing or impeding members in the family from contributing their opinion to the use of common assets of the family, from conducting income earning activities or satisfying other needs of the family for gender preconception reasons.
3. Unequally treating family members for gender reasons.
4. Constraining or forcing members in the family to leave school for gender reasons.
5. Imposing the realization of family work and the conduct of contraceptive measures as responsibilities of members of certain gender.
Article 42. Forms of handling violations of the law on gender equality
1. Those who commit any violation of the law on gender equality, depending on the nature and level of the violation, shall be subject to disciplinary measures, administration sanctions or criminal prosecutions.
2. Agencies, organizations, individuals whose violations of the law on gender equality have caused damages shall have to compensate for the damages in compliance with the law.
Tình trạng hiệu lực: Còn hiệu lực