Chương 3 Nghị định 69/2002/NĐ-CP: Xử lý các khoản nợ phải trả tồn đọng của doanh nghiệp
Số hiệu: | 69/2002/NĐ-CP | Loại văn bản: | Nghị định |
Nơi ban hành: | Chính phủ | Người ký: | Nguyễn Tấn Dũng |
Ngày ban hành: | 12/07/2002 | Ngày hiệu lực: | 27/07/2002 |
Ngày công báo: | 15/08/2002 | Số công báo: | Nguyễn Tấn Dũng |
Lĩnh vực: | Doanh nghiệp, Tài chính nhà nước | Tình trạng: |
Hết hiệu lực
01/02/2014 |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
1. Doanh nghiệp nhà nước thực hiện dự án đầu tư đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, nhưng do thiếu vốn nên đã chiếm dụng tiền thuế và các khoản phải nộp ngân sách nhà nước từ ngày 31 tháng 12 năm 1999 trở về trước để thực hiện dự án đầu tư, đến nay vẫn không có khả năng thanh toán, nếu công trình đầu tư đã hoàn thành đưa vào sử dụng thì số thuế và các khoản phải nộp ngân sách nhà nước mà doanh nghiệp đã sử dụng vào các công trình đó được bổ sung vốn đầu tư của doanh nghiệp.
2. Doanh nghiệp nhà nước thuộc đối tượng giao, bán theo Nghị định số 103/1999/NĐ-CP ngày 10 tháng 9 năm 1999 và Nghị định số 49/2002/NĐ-CP ngày 24 tháng 4 năm 2002 của Chính phủ mà các khoản phải trả lớn hơn giá trị tài sản của doanh nghiệp hoặc lớn hơn số tiền thu từ bán doanh nghiệp thì được xem xét xoá nợ thuế và các khoản phải nộp ngân sách.
3. Doanh nghiệp nhà nước sáp nhập vào doanh nghiệp nhà nước khác theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền, sau khi áp dụng các biện pháp hỗ trợ về tài chính, tín dụng mà doanh nghiệp nhận sáp nhập vẫn không có khả năng thanh toán nợ thuế và các khoản phải nộp ngân sách nhà nước thì được xoá số nợ thuế và các khoản phải nộp ngân sách nhà nước tối đa bằng số lỗ của doanh nghiệp sáp nhập.
4. Doanh nghiệp nhà nước sản xuất kinh doanh bị lỗ, còn nợ thuế và các khoản phải nộp ngân sách nhà nước từ ngày 31 tháng 12 năm 1998 trở về trước do các nguyên nhân thay đổi cơ chế chính sách, do thiên tai gây thiệt hại, do thiếu vốn đầu tư đổi mới công nghệ, máy móc, thiết bị, do khó khăn về giải quyết sắp xếp lao động, nếu doanh nghiệp không thuộc loại phải giải thể, phá sản, sáp nhập, sau khi đã áp dụng các biện pháp miễn thuế, giảm thuế, hỗ trợ về tài chính, tín dụng và các biện pháp khác mà doanh nghiệp vẫn còn lỗ và không có khả năng thanh toán nợ thuế và các khoản phải nộp ngân sách nhà nước khác thì được xoá số nợ thuế và các khoản phải nộp ngân sách nhà nước tối đa bằng số lỗ của doanh nghiệp tính đến thời điểm xử lý xoá nợ.
5. Doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu bị truy thu tiền thuế, tiền phạt về thuế đối với hoạt động kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu do nguyên nhân khách quan thì được xem xét xoá nợ tiền thuế, tiền phạt bị truy thu cho từng trường hợp cụ thể.
6. Đối với những doanh nghiệp đã có quyết định thực hiện chuyển đổi còn nợ thuế và các khoản phải nộp ngân sách nhà nước, sau khi đã xử lý nợ phải thu mà doanh nghiệp vẫn không có khả năng thanh toán nợ thuế và các khoản phải nộp ngân sách do bị thua lỗ thì được xem xét xoá nợ cho doanh nghiệp tối đa bằng số lỗ phát sinh đến thời điểm có quyết định chuyển đổi.
7. Trường hợp doanh nghiệp ứng tiền của ngân sách để mua hàng xuất khẩu trả nợ nước ngoài, xuất khẩu lấy ngoại tệ lập quỹ dự trữ Nhà nước, hoặc để mua hàng hóa dự trữ lưu thông, nhưng do biến động giá cả, doanh nghiệp không mua đủ quỹ hàng hóa theo quy định, đến thời điểm ban hành Nghị định này mà đang ghi nợ phải trả ngân sách số nợ đó, đã kê khai và được Ban Thanh toán nợ tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoặc Bộ, ngành quản lý xác nhận thì được xóa nợ.
8. Trường hợp doanh nghiệp nợ ngân sách nhà nước tiền hàng nhập khẩu theo Nghị định thư của Chính phủ do bán hàng chưa thu được tiền, hoặc đã thu được tiền nhưng chưa nộp đủ vào ngân sách thì được xử lý như sau:
a) Trường hợp doanh nghiệp đã bán trả chậm hàng hoá cho các đơn vị theo chỉ đạo và quy định của nhà nước đến nay không thu được tiền thì xem xét cho xoá nợ.
b) Trường hợp doanh nghiệp nhập khẩu hàng hóa theo Nghị định thư không phù hợp với yêu cầu thị trường, phải giảm giá bán thấp hơn so với giá đã nhận của Nhà nước mà bị lỗ nhưng chưa được xử lý thì được xem xét xóa nợ tương đương với chênh lệch do giá bán thấp hơn so với giá đã nhận với nhà nước nhưng không vượt quá số lỗ phát sinh chưa được xử lý.
9. Đối với các khoản vay của ngân sách nhà nước, doanh nghiệp có trách nhiệm trả nợ cho ngân sách nhà nước theo quy định. Nếu không trả được nợ do nguyên nhân khách quan doanh nghiệp báo cáo cơ quan có thẩm quyền để giải quyết từng trường hợp cụ thể theo quy định của pháp luật.
1. Đối với các doanh nghiệp nhà nước đang hoạt động có nợ Ngân hàng thương mại Nhà nước đã lên lưới thanh toán nợ, có xác nhận của Ban Thanh toán nợ tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, nhưng kinh doanh thua lỗ được phân loại và xử lý như sau:
a) Đối với các doanh nghiệp thua lỗ liên tục không thể khắc phục được phải giải thể hoặc phá sản theo quy định của pháp luật.
b) Đối với các doanh nghiệp thua lỗ đã tổ chức lại sản xuất, có khả năng phát triển xử lý như sau:
Doanh nghiệp có nợ vay Ngân hàng thương mại Nhà nước đã được khoanh nợ thì được xoá nợ lãi vay và xem xét kéo dài thời hạn khoanh nợ.
Doanh nghiệp có nợ vay Ngân hàng thương mại Nhà nước đã lên lưới thanh toán nợ, nếu do nguyên nhân khách quan nhưng chưa được khoanh nợ thì được xoá nợ lãi vay và khoanh nợ gốc theo quy định của pháp luật.
2. Đối với các doanh nghiệp nhà nước có quyết định thực hiện chuyển đổi nhưng gặp khó khăn không cân đối được nguồn để thanh toán các khoản nợ quá hạn thì Tổng giám đốc Ngân hàng thương mại Nhà nước xem xét, quyết định cho doanh nghiệp được giãn, khoanh các khoản nợ quá hạn có đến thời điểm quyết định thực hiện chuyển đổi trong thời hạn từ 03 đến 05 năm. Trường hợp các doanh nghiệp này bị lỗ, không có khả năng thanh toán thì được xoá nợ lãi vay, bao gồm cả lãi đã nhập gốc với mức không vượt quá số lỗ còn lại.
Đối với doanh nghiệp đang thực hiện thủ tục cổ phần hoá, giao, bán thì ngoài biện pháp khoanh nợ, xoá nợ nói trên, doanh nghiệp phối hợp với Ngân hàng chủ nợ và các tổ chức có chức năng mua bán nợ để xử lý phần nợ gốc quá hạn còn lại theo hướng mua hoặc bán lại nợ hoặc chuyển nợ thành vốn góp của Ngân hàng vào doanh nghiệp cổ phần theo quy định của pháp luật về tỷ lệ vốn góp.
3. Khoản lãi vay ngân hàng không thu được trong các trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 và khoản 2 Điều này Ngân hàng thương mại nhà nước được hạch toán vào chi phí của ngân hàng. Khoản chênh lệch thiệt hại do bán nợ tồn đọng được xử lý theo quy định của pháp luật về xử lý nợ tồn đọng đối với các Ngân hàng thương mại.
1. Các khoản nợ do ứng tiền mua thóc, gia công gạo xuất khẩu, vay bằng thóc của Cục Dự trữ Quốc gia, trong các năm 1988 - 1990 mà doanh nghiệp đã nộp lại đủ tiền ứng trước, đã trả đủ tiền theo giá mua thóc tại thời điểm vay nhưng quy về lượng theo giá hoàn trả vẫn còn nợ thì được xóa nợ.
2. Giá thóc để xử lý thanh toán nợ Quỹ Dự trữ Quốc gia đã được kê khai xác nhận áp dụng theo giá thóc tính thuế nông nghiệp tại thời điểm vay nợ.
1. Đối với doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi, trước khi thực hiện chuyển đổi doanh nghiệp có trách nhiệm thanh toán dứt điểm khoản nợ đối với Bảo hiểm xã hội.
2. Đối với các doanh nghiệp thực hiện bán mà doanh nghiệp không kế thừa nợ: được ưu tiên sử dụng tiền thu được khi thực hiện bán doanh nghiệp để thanh toán số nợ của doanh nghiệp đối với cơ quan Bảo hiểm xã hội. Trường hợp thiếu thì được xem xét, hỗ trợ thanh toán từ Quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
Doanh nghiệp có quyết định chuyển đổi, trước khi thực hiện chuyển đổi phải thanh toán dứt điểm khoản nợ đối với chủ nợ là tổ chức, cá nhân trong và ngoài doanh nghiệp. Trường hợp doanh nghiệp có khó khăn hoặc có nhu cầu huy động thêm vốn, cơ cấu lại nợ và được chủ nợ chấp thuận thì được chuyển thành cổ phần trong doanh nghiệp chuyển đổi nhưng phải đảm bảo các quy định của pháp luật về số cổ đông tối thiểu và quyền được mua cổ phần lần đầu trong các doanh nghiệp cổ phần hoá.
1.Doanh nghiệp nhập hàng theo chỉ thị của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và phân phối theo kế hoạch Nhà nước nhưng không thu được tiền để trả nợ, phải báo cáo Bộ Tài chính tổng hợp trình Thủ tướng Chính phủ quyết định xử lý để doanh nghiệp có nguồn thanh toán nợ.
2. Doanh nghiệp nhập hàng theo chỉ thị của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng hàng bị tồn kho, ứ đọng, không tiêu thụ được thì được thanh lý và giảm vốn. Việc thanh lý thực hiện theo quy định của pháp luật.
3. Các doanh nghiệp đảm nhận việc vay vốn nước ngoài để nhập hàng theo chỉ thị của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc theo kế hoạch Nhà nước giao, nếu phát sinh chênh lệch tỷ giá ngoại tệ giữa thời điểm vay nhập hàng và thời điểm trả nợ làm cho doanh nghiệp không có khả năng trả nợ thì Bộ Tài chính kiểm tra, xem xét cấp ngân sách cho khoản chênh lệch tỷ giá để doanh nghiệp trả nợ.
4. Doanh nghiệp vay vốn nước ngoài có bảo lãnh của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc các tổ chức khác, nhưng kinh doanh thua lỗ không trả được nợ thì các cơ quan, tổ chức bảo lãnh chủ trì đàm phán với chủ nợ nước ngoài để giảm số nợ phải trả đến mức thấp nhất và bố trí nguồn từ ngân sách cùng cấp để trả nợ nước ngoài. Doanh nghiệp được ngân sách trả thay nợ nước ngoài có trách nhiệm hoàn trả ngân sách. Nếu có khó khăn thì các cơ quan, tổ chức đã bảo lãnh cho doanh nghiệp vay vốn báo cáo Bộ Tài chính để trình Thủ tướng Chính phủ quyết định.
Doanh nghiệp nhà nước đã được tổ chức lại sản xuất có số nợ phải trả lớn nhưng không có khả năng trả nợ thì phải giải thể hoặc phá sản theo quy định của pháp luật. Trường hợp cần thiết phải duy trì doanh nghiệp mà doanh nghiệp có phương án kinh doanh hiệu quả được cơ quan có thẩm quyền duyệt thì ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các Bộ quản lý ngành và Tổng công ty đề xuất các biện pháp xử lý gửi Bộ Tài chính xem xét hỗ trợ một phần vốn từ nguồn chi phí cải cách doanh nghiệp nhà nước, tạo điều kiện về tài chính để doanh nghiệp hoạt động bình thường. Trường hợp vượt thẩm quyền thì báo cáo Thủ tướng Chính phủ quyết định.
HANDLING OF OUTSTANDING PAYABLE DEBTS OF ENTERPRISES
Article 11.- Tax debt amounts and State budget remittance amounts
1. For State enterprises, which have executed investment projects already approved by competent bodies but had, due to the shortage of capital, appropriated tax money and State budget remittance amounts as from December 31, 1999 backward for the execution of the investment projects and have so far been still unable to repay them, if the investment projects have been completed and put to use, the tax and State budget remittance amounts used by the enterprises in those projects shall be added to the investment capital of the enterprises.
2. The State enterprises which are subject to assignment or sale under the Government’s Decree No.103/1999/ND-CP of September 10, 1999 and Decree No.49/2002/ND-CP of April 24, 2002 and have their payable amounts larger than the value of the enterprises assets or larger than the proceeds from the sale of the enterprises shall be considered for remission of tax debts and amounts remittable to the State budget.
3. Where State enterprises are merged with other State enterprises under decisions of competent bodies, if after the financial or credit support measures are applied the merging enterprises remain unable to repay tax debts and amounts remittable to the State budgets, they shall be entitled to the remission of tax debts and amounts payable to the State budget, which, however, must not exceed the loss amounts of the merged enterprises.
4. The State enterprises, which had suffered from losses in the production and business activities and still owed tax debts and State budget remittance amounts from December 31, 1998 backward due to changes in mechanism and policies, to natural calamities, the lack of capital for renewal of technologies, machinery and equipment and/or due to difficulties in labor rearrangement, if they are not subject to dissolution, bankruptcy or merger and after the application of tax exemption or reduction, financial or credit support and other measures the enterprises still suffer from losses and remain unable to repay the tax debts and State budget remittance amounts, shall be entitled to remission of tax debts and State budget remittance amounts, which, however, must not exceed the loss amounts of the enterprises by the time of debt handling.
5. The enterprises, which are engaged in export and/or import business activities and subject to retrospective collection of taxes and tax fines for export and/or import business activities due to objective causes shall be considered for remission of tax and fine arrears for case by case.
6. The enterprises, which are subject to transformation as decided but still owe tax debts and State budget remittance amounts and after the handling of receivable debts the enterprises remain unable to repay their tax debts and State budget remittance amounts due to losses shall be considered for remission of their debts which, however, must not exceed the loss amounts incurred by the time of issuing transformation decisions.
7. Where the enterprises use budget advances to buy export goods for repayment of foreign debts, for export to earn foreign currencies for setting up of the State reserve fund or buying reserve goods for future circulation, but due to price fluctuation the enterprises fail to buy enough goods as prescribed, have owed budget debts by the time of promulgating this Decree, have made declarations and got the certifications by provincial/municipal debt settlement boards or their managing ministries or branches, they shall be entitled to debt remission.
8. Where the enterprises have owed to the State budget the imported goods money under the Government’s protocol due to their failure to collect the goods sale money or failure to fully remit the collected money into the budget, they shall be handled as follows:
a) Where the enterprises have sold goods with deferred payment to units according to direction and regulations of the State and have so far been unable to collect the money, they shall be considered for debt remission.
b) Where the enterprises import goods under protocols, which are incompatible with the market requirements, thus having to reduce the sale prices to the level lower than the prices agreed upon with the State and having suffered from losses which have not yet been handled, they shall be considered for remission of debts equivalent to the deficit due to sale at prices lower than the prices agreed upon with the State but not exceeding the arising debt amounts not yet handled.
9. For amounts borrowed from the State budget, the enterprises shall have to repay them to the State budget as provided for. If being unable to repay them due to objective causes, the enterprises shall report such to the competent bodies for settling case by case according to the provisions of law.
Article 12.- Debts owed to State-run commercial banks by State enterprises
1. The operating State enterprises which owe debts to State-run commercial banks, have been put into debt repayment plans and certified by provincial/municipal debt settlement boards but have conducted business at a loss shall be classified and handled as follows:
a) Enterprises, which have repeatedly suffered from unredeemable losses, must be dissolved or bankrupted according to the provisions of law.
b) Enterprises, which have suffered from losses, reorganized their production and see development prospects, shall be handled as follows:
- Enterprises with debts owed to State-run commercial banks, which have been frozen, shall be entitled to remission of lending interest debts and considered for prolongation of debt-freezing duration.
- Enterprises with debts owed to State-run commercial banks, which have been put into the debt repayment plans, but, due to objective reasons, have not yet enjoyed the debt freezing, shall be entitled to the remission of lending interest debts and the freezing of principal debts as provided for by law.
2. For the State enterprises subject to transformation as already decided, but meeting with difficulties in balancing sources for repayment of overdue debts, the general directors of the concerned State-run commercial banks shall consider and decide to let the enterprises have their overdue debts owed by the time of issuing the transformation decisions rescheduled or frozen for between 3 and 5 years. Where these enterprises have suffered from losses, being unable to repay their debts, they shall be entitled to the remission of lending interest debts, including the interest amounts already principalized at the level not exceeding the remaining loss amount.
The enterprises, which are carrying out procedures for equitization, assignment or sale, in addition to the above-mentioned measures of debt freezing or debt remission, shall coordinate with the creditor banks and organizations with function to buy and sell debts in handling the remaining overdue debt principal amounts along the direction of rebuying or reselling debts or converting debts into the banks contributed capital in the equitized enterprises according to law provisions on contributed capital percentages.
3. The amounts of interest on bank loans, which cannot be collected as in cases prescribed at Point b, Clauses 1 and 2 of this Article, the concerned State-run commercial banks may account them into their expenses. The deficit amounts resulting from the sale of outstanding debts shall be handled according to law provisions on handling of outstanding debts for commercial banks.
Article 13.- Handling of debts to be paid by enterprises to the National Reserve
1. For the debt amounts due to advance of money for purchase of paddy, processing of rice for export, borrowing in paddy from the National Reserve in the 1988-1990 years, and the enterprises have repaid the full advance amounts, the full amounts of money at the paddy-buying prices at the time of borrowing, but, due to the quantitative conversion at the repaying prices, still owe debts, they shall be entitled to remission of such debts.
2. The paddy prices applicable to the repayment of debts to the National Reserve, which have been declared and certified, shall be the paddy prices used for calculation of agricultural tax at the time of borrowing.
Article 14.- Handling of social insurance debts
1. For enterprises subject to transformation, before being transformed, they shall have to definitely pay the social insurance debts.
2. For enterprises subject to sale while they do not inherit debts, they shall be given priority to use the proceeds from the sale of enterprises for repayment of their debts to the social insurance agencies. In case of deficit, they shall be considered and provided with payment support from the fund for reorganization and equitization of State enterprises.
Article 15.- Handling of debts owed to organizations, individuals
The enterprises, which are subject to transformation as already decided, shall, before being transformed, have to definitely repay all debts to their creditors being organizations and/or individuals inside and outside the enterprises. Where the enterprises meet with difficulties or have demands to mobilize more capital, restructure their debts and obtain the approval from their creditors, such debt amounts may be converted into equities in the transformed enterprises but in compliance with the law provisions on the minimum number of shareholders and the right to buy the first-time equities in the equitized enterprises.
Article 16.- Other payable debt amounts of operating enterprises
1. The enterprises which import goods under the directives of competent State bodies and distribute them according to State plans but cannot collect money to repay their debts shall have to report such to the Finance Ministry for sum-up and further report to the Prime Minister for handling decisions so that the enterprises shall have sources for repayment of their debts.
2. The enterprises which import goods under the directives of competent State bodies but the goods have been left in stock and unsaleable shall be entitled to liquidate them and to reduce their capital. The liquidation shall comply with the provisions of law.
3. For the enterprises which borrow foreign capital to import goods under the directives of competent State bodies or under the assigned State plans, if there appears the difference between the exchange rates at the time of borrowing for goods import and the exchange rates at the time of repaying debts, thus making the enterprises unable to repay their debts, the Finance Ministry shall examine the cases and consider the budget allocation equal to the exchange rate difference amount for the enterprises to repay their debts.
4. For the enterprises which borrow foreign capital with the guarantee of competent State bodies or other organizations but conduct their business at a loss, thus being unable to repay their debts, the guaranteeing agencies or organizations shall take initiative in negotiating with foreign creditors for the reduction of the payable debt amounts to the lowest level and arrange sources from the budget of the same level for repayment of foreign debts. The enterprises whose foreign debts have been repaid by the budgets shall have to refund such amounts to the budgets. If meeting with difficulties, the agencies or organizations, which have provided guarantee for the enterprises to borrow capital, shall report them to the Finance Ministry for submission to the Prime Minister for decision.
Article 17.- Handling of enterprises having large bad debts
The State enterprises, which have reorganized their production and had large amounts of payable debts but cannot repay them, must be dissolved or bankrupted according to the provisions of law. Where it is necessary to maintain the enterprises and the enterprises have efficient business plans already approved by competent bodies, the provincial/municipal People�s Committees, their managing ministries or branches and corporations shall propose handling measures to the Finance Ministry which shall consider the partial support from the sources of expense for reform of State enterprises and create financial conditions for the enterprises to resume their normal operation. Cases falling beyond its competence shall be reported to the Prime Minister for decision.
Tình trạng hiệu lực: Hết hiệu lực