Chương 2 Nghị định 206/2013/NĐ-CP: Quản lý và xử lý các khoản nợ phải thu của doanh nghiệp
Số hiệu: | 206/2013/NĐ-CP | Loại văn bản: | Nghị định |
Nơi ban hành: | Chính phủ | Người ký: | Nguyễn Tấn Dũng |
Ngày ban hành: | 09/12/2013 | Ngày hiệu lực: | 01/02/2014 |
Ngày công báo: | 21/12/2013 | Số công báo: | Từ số 915 đến số 916 |
Lĩnh vực: | Doanh nghiệp, Tài chính nhà nước | Tình trạng: | Còn hiệu lực |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
1. Ban hành và thực hiện Quy chế quản lý nợ của doanh nghiệp theo quy định tại Khoản 1 Điều 4 Nghị định này, xác định rõ trách nhiệm của tập thể, cá nhân trong việc theo dõi, thu hồi các khoản nợ phải thu.
2. Mở sổ theo dõi các khoản nợ theo từng đối tượng nợ; thường xuyên phân loại các khoản nợ (nợ chưa đến hạn thanh toán, nợ đến hạn thanh toán, nợ đã quá hạn thanh toán, nợ khó đòi, nợ không có khả năng thu hồi), đôn đốc thu hồi nợ; định kỳ đối chiếu công nợ.
3. Hội đồng thành viên, Chủ tịch Hội đồng thành viên (Chủ tịch công ty), Tổng giám đốc (Giám đốc) doanh nghiệp có trách nhiệm xử lý kịp thời các khoản nợ phải thu khó đòi, nợ không thu hồi được. Nếu không xử lý kịp thời các khoản nợ không thu hồi được theo quy định, để chủ sở hữu có văn bản nhắc trên 01 lần, căn cứ vào hậu quả của việc xử lý chậm ảnh hưởng đến tình hình tài chính, kết quả kinh doanh của doanh nghiệp thì chủ sở hữu quyết định hình thức kỷ luật theo quy định của pháp luật đối với Chủ tịch Hội đồng thành viên, Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Tổng giám đốc hoặc Giám đốc; nếu không xử lý kịp thời dẫn đến thất thoát vốn của chủ sở hữu tại doanh nghiệp thì phải đền bù thiệt hại bằng tài sản cá nhân, chịu trách nhiệm trước chủ sở hữu và trước pháp luật.
4. Khi xác định là nợ phải thu khó đòi, doanh nghiệp phải trích lập dự phòng đối với khoản nợ phải thu khó đòi theo quy định của Bộ Tài chính.
5. Nợ phải thu không có khả năng thu hồi, doanh nghiệp phải xác định rõ nguyên nhân khách quan hay chủ quan. Đối với nguyên nhân chủ quan, doanh nghiệp có trách nhiệm xử lý bồi thường của cá nhân, tập thể có liên quan. Đối với nguyên nhân khách quan, Hội đồng thành viên, Ban điều hành doanh nghiệp và các phòng ban có liên quan phải xác định rõ nguyên nhân và có biên bản xác nhận; nếu xác định các khoản nợ này có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp được bù đắp bằng khoản dự phòng nợ phải thu khó đòi; nếu còn thiếu thì hạch toán vào chi phí kinh doanh của doanh nghiệp.
6. Nợ không có khả năng thu hồi sau khi đã xử lý theo quy định tại Khoản 5 Điều này, doanh nghiệp vẫn phải theo dõi ngoài bảng cân đối kế toán và trong thuyết minh báo cáo tài chính trong thời hạn tối thiểu là 10 năm kể từ ngày thực hiện xử lý và có các biện pháp để thu hồi nợ, nếu thu hồi được nợ thì số tiền thu hồi được sau khi trừ đi các chi phí liên quan, doanh nghiệp được hạch toán vào thu nhập của doanh nghiệp.
7. Doanh nghiệp chưa ban hành Quy chế quản lý nợ theo quy định tại Khoản 1 Điều 4 nghị định này thì coi như Hội đồng thành viên, Ban điều hành doanh nghiệp chưa hoàn thành nhiệm vụ (khi thực hiện xếp loại doanh nghiệp); Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Ban điều hành doanh nghiệp không được trích Quỹ thưởng Viên chức quản lý doanh nghiệp, chỉ được hưởng 80% tiền lương hàng tháng.
Trường hợp để cơ quan có thẩm quyền đôn đốc bằng văn bản hơn 01 lần mà doanh nghiệp vẫn chưa ban hành Quy chế quản lý nợ thì Hội đồng thành viên, Chủ tịch Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Tổng giám đốc (Giám đốc) sẽ bị miễn nhiệm như trường hợp báo cáo không trung thực tình hình tài chính của doanh nghiệp.
1. Doanh nghiệp được quyền bán các khoản nợ phải thu đã quá hạn thanh toán, nợ phải thu khó đòi, nợ phải thu không đòi được để thu hồi vốn trên nguyên tắc trích lập dự phòng đầy đủ theo quy định. Doanh nghiệp chỉ được bán nợ cho các tổ chức kinh tế có chức năng kinh doanh mua bán nợ, không được bán nợ trực tiếp cho khách nợ.
2. Trên cơ sở tham khảo giá của tổ chức định giá, giá thị trường (nếu có), giá bán các khoản nợ do các bên tự thỏa thuận và tự chịu trách nhiệm về quyết định bán khoản nợ phải thu. Trường hợp bán nợ mà dẫn tới doanh nghiệp bị lỗ, mất vốn, hoặc mất khả năng thanh toán, dẫn đến tình trạng doanh nghiệp phải giải thể, phá sản thì Hội đồng thành viên, Chủ tịch Hội đồng thành viên (Chủ tịch công ty), Tổng Giám đốc (Giám đốc) và người có liên quan trực tiếp đến việc phát sinh khoản nợ khó đòi phải bồi thường và bị xử lý theo quy định của pháp luật và Điều lệ của doanh nghiệp.
3. Chủ sở hữu căn cứ quy mô, ngành nghề kinh doanh, tính chất, giá trị các khoản nợ của doanh nghiệp để phân cấp cho Hội đồng thành viên (Chủ tịch Công ty) quyết định và các trường hợp doanh nghiệp phải báo cáo Chủ sở hữu quyết định đối với các khoản nợ mà giá bán nợ thấp hơn giá trị trên sổ kế toán. Mức phân cấp này được quy định cụ thể trong Quy chế quản lý tài chính và Quy chế quản lý nợ của doanh nghiệp.
4. Doanh nghiệp phải lập phương án bán nợ (trong đó có phương án sản xuất kinh doanh đối với khoản thu được khi bán nợ), so sánh với việc không bán khoản nợ để quyết định hoặc trình chủ sở hữu xem xét, phê duyệt trước khi thực hiện bán các khoản nợ phải thu theo quy định tại Khoản 3 Điều này (chênh lệch giảm giữa giá trị khoản nợ theo sổ kế toán với giá bán được bù đắp bằng nguồn dự phòng các khoản nợ phải thu khó đòi). Doanh nghiệp có trách nhiệm tiếp tục bù đắp tổn thất (nếu có) bằng hoạt động sản xuất kinh doanh, không để thất thoát vốn của Nhà nước đã đầu tư; nếu không thực hiện, Chủ tịch Hội đồng thành viên, Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty và Ban lãnh đạo doanh nghiệp liên đới chịu trách nhiệm trước chủ sở hữu và trước pháp luật.
5. Các quyền khác của doanh nghiệp, như: Quyền khiếu nại, khởi kiện khi không thu hồi được nợ, quyền ủy quyền, thuê đòi nợ thực hiện theo quy định của pháp luật.
1. Đối với các doanh nghiệp đang hoạt động, các khoản nợ phải thu không có khả năng thu hồi quy định tại Khoản 4 Điều 3 Nghị định này được xử lý theo thứ tự sau đây:
a) Doanh nghiệp xác định rõ nguyên nhân, trách nhiệm của tập thể, cá nhân và yêu cầu tập thể, cá nhân bồi thường theo quy định của pháp luật.
b) Dùng nguồn dự phòng các khoản nợ phải thu khó đòi để bù đắp.
c) Hạch toán vào chi phí hoặc thu nhập doanh nghiệp, tùy theo trường hợp cụ thể.
Trong trường hợp thực hiện bán nợ theo quy định của pháp luật, sau khi xác định rõ nguyên nhân, trách nhiệm của tập thể, cá nhân và yêu cầu đương sự bồi thường theo quy định của pháp luật, chênh lệch giảm giữa giá trị khoản nợ với giá bán được bù đắp bằng nguồn dự phòng các khoản nợ phải thu khó đòi, nếu thiếu hạch toán vào chi phí kinh doanh của doanh nghiệp.
2. Đối với doanh nghiệp đang thực hiện chuyển đổi, các khoản nợ phải thu không có khả năng thu hồi, sau khi xử lý một lần theo quy định tại Khoản 1 Điều này mà doanh nghiệp bị lỗ thì tiếp tục xử lý theo các quy định của Nhà nước khi thực hiện chuyển đổi doanh nghiệp.
3. Các khoản nợ phải thu không có khả năng thu hồi đã được xử lý (trừ trường hợp bán nợ) nhưng khách nợ còn tồn tại thì các doanh nghiệp có trách nhiệm tiếp tục theo dõi ngoài bảng cân đối kế toán và trong thuyết minh báo cáo tài chính trong thời hạn tối thiểu là 10 năm kể từ ngày thực hiện xử lý và có các biện pháp để thu hồi nợ, nếu thu hồi được nợ thì số tiền thu hồi được sau khi trừ đi các chi phí liên quan, doanh nghiệp được hạch toán vào thu nhập của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp chuyển đổi có trách nhiệm bàn giao các khoản công nợ không tính vào giá trị doanh nghiệp theo quy định. Các cơ quan tiếp nhận bàn giao có trách nhiệm tiếp tục theo dõi và tổ chức thu hồi đối với các khoản nợ phải thu không có khả năng thu hồi tuy đã được xử lý nhưng khách nợ còn tồn tại. Trong thời gian chưa thực hiện bàn giao, doanh nghiệp vẫn có trách nhiệm tiếp tục theo dõi và tổ chức thu hồi các khoản nợ này.
4. Các doanh nghiệp được xử lý và hạch toán một lần các khoản nợ không thu hồi được vào kết quả sản xuất kinh doanh hàng năm theo các quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều này.
1. Đối với các khoản nợ phải thu tồn đọng còn có khả năng thu hồi, doanh nghiệp phải tích cực đôn đốc và áp dụng mọi biện pháp để thu hồi.
2. Đối với các khoản nợ phải thu quá hạn từ 06 tháng trở lên còn có khả năng thu hồi, doanh nghiệp phải lập dự phòng và hạch toán vào chi phí của doanh nghiệp trong năm.
1. Các khoản được ngân sách hỗ trợ hoặc cấp bù theo quy định đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt nhưng chưa được cấp thì ngân sách cấp nào nợ, ngân sách cấp đó phải có trách nhiệm bố trí để cấp đủ cho doanh nghiệp.
2. Các khoản doanh nghiệp đã nộp thừa vào ngân sách cấp nào thì ngân sách cấp đó phải hoàn trả cho doanh nghiệp (nếu doanh nghiệp có yêu cầu hoàn trả) hoặc trừ vào khoản nộp kỳ sau theo quy định của pháp luật về quản lý thuế.
3. Các khoản nợ của doanh nghiệp do chưa bố trí hoặc bố trí chưa đủ vốn để thanh toán khối lượng đầu tư xây dựng cơ bản thuộc các công trình, dự án được đầu tư bằng vốn ngân sách nhà nước, vốn trái phiếu Chính phủ hoặc vốn có nguồn gốc từ ngân sách; thanh toán tiền nhượng bán tài sản, trụ sở làm việc cho các đơn vị sự nghiệp, các cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương nằm trong kế hoạch đầu tư đã được phê duyệt thì các Bộ, ngành, địa phương, cấp quyết định đầu tư có trách nhiệm bố trí dự toán ngân sách để thanh toán đủ kịp thời cho doanh nghiệp theo đúng các quy định hiện hành của pháp luật; không yêu cầu doanh nghiệp ứng vốn thực hiện dự án khi ngân sách chưa bố trí vốn cho dự án, dẫn đến phát sinh nợ đọng xây dựng cơ bản.
4. Các khoản ngân sách địa phương nhận trả nợ thay khi điều động tài sản của doanh nghiệp cho đơn vị sự nghiệp hoặc cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương thì địa phương phải dùng ngân sách để trả nợ doanh nghiệp.
5. Các khoản tiền của doanh nghiệp bị các cơ quan nhà nước tạm giữ trong quá trình kiểm tra, thanh tra, điều tra vụ án, sau khi có kết luận doanh nghiệp không có sai phạm hoặc không phải khắc phục hậu quả thì các cơ quan quyết định tạm giữ phải hoàn trả ngay cho doanh nghiệp trong vòng 05 ngày làm việc.
MANAGEMENT AND HANDLING OF RECEIVABLES OF ENTERPRISES
Section 1. MANAGEMENT OF RECEIVABLES OF ENTERPRISES
Article 5. Responsibilities of enterprises in the management of receivables
1. To issue and implement Regulations on debt management under Clause 1, Article 4 of this Decree, specifying responsibilities of collectives and individuals for monitoring and collecting receivables.
2. To open books to monitor debts by debtor; to regularly classify debts (undue, due, overdue, bad and irrecoverable debts), urge the collection of debts and periodically compare debts.
3. The Members’ Councils, chairpersons of the Members’ Councils (company presidents) and directors general (directors) of enterprises shall promptly handle bad and irrecoverable debts. If enterprises fail to handle in time irrecoverable debts according to regulations and have been reminded more than once by the owners, depending on the consequences of the late handling on the financial status and business results of enterprises, the owners shall decide on the forms of disciplining under law the chairpersons of the Members’ Councils, Members’ Councils, company presidents and directors general or directors; if the failure to handle in time irrecoverable debts causes losses to the owners’ capital at the enterprises, they shall pay compensations with personal properties and take responsibility before the owners and law.
4. Enterprises shall make provisions according to regulations of the Ministry of Finance for bad debts upon identification.
5. Enterprises shall clearly identify objective or subjective causes of irrecoverable debts. For subjective causes, enterprises shall demand responsible individuals and collectives to pay compensations. For objective causes, the Members’ Councils, the Boards of Executives and related divisions shall clearly identify the causes and make written records thereof; if determining that these debts are related to production and business activities, enterprises may offset them with provisions for bad debts and account the remaining deficit, if any, into their business expenses.
6. After handling irrecoverable debts under Clause 5 of this Article, enterprises shall still monitor them off balance sheets and in the notes to financial statements for at least 10 years from the date of handling, and take measures to recover these debts. If recovering these debts, enterprises may account the recovered amounts minus related expenses as their incomes.
7. For enterprises that fail to issue a Regulation on debt management under Clause 1, Article 4 of this Decree, their Members’ Councils and Boards of Executives shall be regarded as failing to fulfill their tasks (when their enterprises are rated), and they may not make deductions for the bonus fund for enterprise managers and may only receive 80% of monthly salaries.
For enterprises that fail to issue a Regulation on debt management although competent agencies have urged in writing more than once, their Members’ Councils and Members’ Council chairpersons, company presidents and directors general (directors) shall be removed as in the case of untruthful reporting on the financial status of enterprises.
Article 6. Powers of enterprises in the management of receivables
1. Enterprises may sell overdue, bad and irrecoverable debts in order to recover capital on the principle of making adequate provisions according to regulations. Enterprises may sell debts only to economic entities licensed to purchase and sell debts, but not directly to debtors.
2. Parties may agree on the sale prices of receivable debts on the basis of referring to prices of valuation organizations and market prices (if any) and take responsibility for decisions on sale of these debts. If the sale of debts makes enterprises suffer losses, lose capital or become insolvent and consequently be dissolved or fall bankrupt, the Members’ Councils, chairpersons of the Members’ Councils (company presidents) and directors general (directors) and persons directly related to the occurrence of bad debts shall pay compensations and be handled in accordance with law and the enterprises’ charters.
3. The owners shall base themselves on the scale and lines of business, characteristics and value of debts of enterprises to decentralize the decision-making power to the Members’ Councils (company presidents) and determine cases in which the sale prices of debts are lower than their book value to be reported by enterprises to the owners for decision. This level of decentralization must be specified in the enterprises’ Regulation on financial management and Regulation on debt management.
4. Enterprises shall make debt sale plans (including production and business plans to be implemented with the proceeds from the debt sale) and compare with the non-sale of debts for decision or submission to the owners for consideration and approval before selling receivables under Clause 3 of this Article (the negative difference between the book value of debts and their sale price is offset with the provisions for bad debts). Enterprises shall further offset losses (if any) with revenues from production and business activities without causing loss to state-invested capital. If failing to do so, the chairpersons of the Members’ Councils, the Members’ Councils, company presidents and leaders of enterprises shall take joint responsibility therefor before the owners and law.
5. Other rights of enterprises, such as the right to lodge complaints or file lawsuits when unable to recover debts, the right to authorize or hire debt claim as prescribed by law.
Section 2. HANDLING OF OUTSTANDING RECEIVABLES OF ENTERPRISES
Article 7. Handling of irrecoverable debts
1. For operating enterprises, irrecoverable debts defined in Clause 4, Article 3 of this Decree must be handled in the following sequence:
a/ Enterprises clearly identify causes and responsibilities of collectives and individuals and request responsible collectives and individuals to pay compensations under law.
b/ Using the provisions for bad debts to offset.
c/ Accounting them into business expenses or incomes of enterprises on a case-by-case basis.
In case of selling debts in accordance with law, after clearly identifying causes and responsibilities of collectives and individuals and request responsible parties to pay compensation in accordance with law, enterprises may offset the negative difference between the value of debts and the sale price with the provisions for bad debts and further account the remaining difference, if any, into their business expenses.
2. For enterprises currently undergoing transformation, if they suffer losses after handling once irrecoverable debts under Clause 1 of this Article, they may continue handling them under state regulations applicable to transformed enterprises.
3. For irrecoverable debts which have been handled (excluding sale of debts) but debtors still exist, enterprises shall continue monitoring them off balance sheet and in the notes to financial statement for at least 10 years from the date of handling, and take measures to recover these debts. If recovering these debts, enterprises may account the recovered amounts minus related expenses into their incomes.
Transformed enterprises shall hand over debts not included in their value according to regulations. Agencies receiving these debts shall continue monitoring and collecting irrecoverable debts which have been handled but whose debtors still exist. Pending the handover, enterprises are still responsible for monitoring and collecting these debts.
4. Enterprises may handle and account once irrecoverable debts into their annual production and business results according to Point c, Clause 1 of this Article.
Article 8. Handling of recoverable outstanding debts
1. For outstanding recoverable debts, enterprises shall actively urge and apply every measure to recover them.
2. For receivables that have been overdue for 6 months or more and are still recoverable, enterprises shall set up provisions and account them into their expenses in the year.
Article 9. Handling of state budget-related receivables of enterprises
1. Amounts supported or offset by the state budget according to regulations and approved by competent agencies but not yet allocated by a budget of any level must be fully allocated to enterprises by such budget.
2. Amounts remitted in excess by enterprises into a budget of any level must be refunded by such budget to the enterprises at the latter’s request or subtracted from their payable amount of the subsequent period according to the law on tax administration.
3. For debts owed by enterprises due to non-allocation or insufficient allocation of capital for payment for capital construction investments already made under works or projects invested with state budget capital, government bond capital or capital of budget origin; or for payment for the sale of assets and working offices to non-business units and state management agencies in localities under approved investment plans, ministries, sectors and localities with investment-deciding competence shall arrange budget capital for full and timely payment to enterprises under current laws. It is not allowed to request enterprises to advance capital for implementing projects for which the State has not yet arranged capital, which may cause capital construction debts.
4. Amounts to be paid by local budgets to enterprises whose assets have been mobilized for non-business units or state management agencies in localities must be paid by the localities to these enterprises from their budgets.
5. Enterprises’ money amounts temporarily seized by state agencies in the process of examination, inspection or investigation must be returned to enterprises by the agencies that have decided on the seizure within 5 working days after there are conclusions that enterprises are not at fault or do not have to remedy the consequences.
Tình trạng hiệu lực: Còn hiệu lực