Chương 2 Luật Giao dịch điện tử 2005: Thông điệp dữ liệu
Số hiệu: | 51/2005/QH11 | Loại văn bản: | Luật |
Nơi ban hành: | Quốc hội | Người ký: | Nguyễn Văn An |
Ngày ban hành: | 29/11/2005 | Ngày hiệu lực: | 01/03/2006 |
Ngày công báo: | 27/12/2005 | Số công báo: | Từ số 31 đến số 32 |
Lĩnh vực: | Thương mại | Tình trạng: | Còn hiệu lực |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Ngày 29/11/2005, Quốc hội đã thông qua Luật Giao dịch điện tử số 51/2005/QH11. Phạm vi điều chỉnh chủ yếu là giao dịch điện tử trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, trong lĩnh vực dân sự, kinh doanh, thương mại.
Nguyên tắc tiến hành giao dịch điện tử được Luật nêu rõ: lựa chọn giao dịch bằng phương tiện điện tử là tự nguyện của cơ quan, tổ chức, cá nhân, được tự thoả thuận về việc lựa chọn công nghệ để thực hiện giao dịch, không một công nghệ nào được xem là duy nhất trong giao dịch điện tử, bảo đảm sự bình đẳng và an toàn...
Luật công nhận và bảo vệ hợp đồng điện tử: giá trị của hợp đồng không thể bị phủ nhận chỉ vì hợp đồng đó được thể hiện dưới dạng thông điệp dữ liệu. Trong giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử, thông báo dưới dạng thông điệp dữ liệu có giá trị pháp lý như thông báo bằng phương pháp truyền thống... Các bên tham gia hợp đồng điện tử có quyền tự do thoả thuận sử dụng phương tiện điện tử trong giao kết hợp đồng, có quyền thoả thuận về yêu cầu kỹ thuật, chứng thực, các điều kiện bảo đảm tính toàn vẹn, bảo mật có liên quan đến hợp đồng điện tử đó...
Luật nghiêm cấm các hành vi: cản trở việc lựa chựa sử dụng giao dịch điện tử, cản trở ngăn chặn trái phép quá trình truyền gửi và nhận thông điệp dữ liệu, thay đổi, xoá, huỷ, giả mạo, sao chép, tiết lộ, hiển thị, di chuyển trái phép một phần hoặc toàn bộ thông điệp dữ liệu, tạo ra hoặc phát tán chương trình phần mềm (virus) làm rối loạn, thay đổi, phá hoại hệ thống điều hành, tạo ra thông điệp dữ liệu nhằm thực hiện hành vi trái pháp luật, gian lận, mạo nhận, chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép chữ ký điện tử của người khác... Tổ chức, cá nhân không được sử dụng, cung cấp hoặc tiết lộ thông tin về bí mật đời tư hoặc thông tin của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác mà mình tiếp cận hoặc kiểm soát được trong giao dịch điện tử nếu không được sự đồng ý của họ, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác...
Nhà nước công nhận giá trị pháp lý của chữ ký điện tử và chứng thư điện tử nước ngoài nếu chữ ký hoặc chứng thư điện tử đó có độ tin cậy tương đương với độ tin cậy của chữ ký và chứng thư điện tử theo quy định của pháp luật. Việc xác định mức độ tin cậy của chữ ký điện tử và chứng thư điện tử nước ngoài phải căn cứ vào các tiêu chuẩn quốc tế đã được thừa nhận, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và các quy định liên quan khác...
Luật này có hiệu lực từ ngày 01/3/2006.
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
Thông điệp dữ liệu được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự khác.
Thông tin trong thông điệp dữ liệu không bị phủ nhận giá trị pháp lý chỉ vì thông tin đó được thể hiện dưới dạng thông điệp dữ liệu.
Trường hợp pháp luật yêu cầu thông tin phải được thể hiện bằng văn bản thì thông điệp dữ liệu được xem là đáp ứng yêu cầu này nếu thông tin chứa trong thông điệp dữ liệu đó có thể truy cập và sử dụng được để tham chiếu khi cần thiết.
Thông điệp dữ liệu có giá trị như bản gốc khi đáp ứng được các điều kiện sau đây:
1. Nội dung của thông điệp dữ liệu được bảo đảm toàn vẹn kể từ khi được khởi tạo lần đầu tiên dưới dạng một thông điệp dữ liệu hoàn chỉnh.
Nội dung của thông điệp dữ liệu được xem là toàn vẹn khi nội dung đó chưa bị thay đổi, trừ những thay đổi về hình thức phát sinh trong quá trình gửi, lưu trữ hoặc hiển thị thông điệp dữ liệu;
2. Nội dung của thông điệp dữ liệu có thể truy cập và sử dụng được dưới dạng hoàn chỉnh khi cần thiết.
1. Thông điệp dữ liệu không bị phủ nhận giá trị dùng làm chứng cứ chỉ vì đó là một thông điệp dữ liệu.
2. Giá trị chứng cứ của thông điệp dữ liệu được xác định căn cứ vào độ tin cậy của cách thức khởi tạo, lưu trữ hoặc truyền gửi thông điệp dữ liệu; cách thức bảo đảm và duy trì tính toàn vẹn của thông điệp dữ liệu; cách thức xác định người khởi tạo và các yếu tố phù hợp khác.
1. Trường hợp pháp luật yêu cầu chứng từ, hồ sơ hoặc thông tin phải được lưu trữ thì chứng từ, hồ sơ hoặc thông tin đó có thể được lưu trữ dưới dạng thông điệp dữ liệu khi đáp ứng các điều kiện sau đây:
a) Nội dung của thông điệp dữ liệu đó có thể truy cập và sử dụng được để tham chiếu khi cần thiết;
b) Nội dung của thông điệp dữ liệu đó được lưu trong chính khuôn dạng mà nó được khởi tạo, gửi, nhận hoặc trong khuôn dạng cho phép thể hiện chính xác nội dung dữ liệu đó;
c) Thông điệp dữ liệu đó được lưu trữ theo một cách thức nhất định cho phép xác định nguồn gốc khởi tạo, nơi đến, ngày giờ gửi hoặc nhận thông điệp dữ liệu.
2. Nội dung, thời hạn lưu trữ đối với thông điệp dữ liệu được thực hiện theo quy định của pháp luật về lưu trữ.
1. Người khởi tạo thông điệp dữ liệu là cơ quan, tổ chức, cá nhân tạo hoặc gửi một thông điệp dữ liệu trước khi thông điệp dữ liệu đó được lưu giữ nhưng không bao hàm người trung gian chuyển thông điệp dữ liệu.
2. Trong trường hợp các bên tham gia giao dịch không có thỏa thuận khác thì việc xác định người khởi tạo một thông điệp dữ liệu được quy định như sau:
a) Một thông điệp dữ liệu được xem là của người khởi tạo nếu thông điệp dữ liệu đó được người khởi tạo gửi hoặc được gửi bởi một hệ thống thông tin được thiết lập để hoạt động tự động do người khởi tạo chỉ định;
b) Người nhận có thể coi thông điệp dữ liệu là của người khởi tạo nếu đã áp dụng các phương pháp xác minh được người khởi tạo chấp thuận và cho kết quả thông điệp dữ liệu đó là của người khởi tạo;
c) Kể từ thời điểm người nhận biết có lỗi kỹ thuật trong việc truyền gửi thông điệp dữ liệu hoặc đã sử dụng các phương pháp xác minh lỗi được người khởi tạo chấp thuận thì không áp dụng quy định tại điểm a và điểm b khoản này.
3. Người khởi tạo phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung thông điệp dữ liệu do mình khởi tạo.
Trong trường hợp các bên tham gia giao dịch không có thoả thuận khác thì thời điểm, địa điểm gửi thông điệp dữ liệu được quy định như sau:
1. Thời điểm gửi một thông điệp dữ liệu là thời điểm thông điệp dữ liệu này nhập vào hệ thống thông tin nằm ngoài sự kiểm soát của người khởi tạo;
2. Địa điểm gửi thông điệp dữ liệu là trụ sở của người khởi tạo nếu người khởi tạo là cơ quan, tổ chức hoặc nơi cư trú của người khởi tạo nếu người khởi tạo là cá nhân. Trường hợp người khởi tạo có nhiều trụ sở thì địa điểm gửi thông điệp dữ liệu là trụ sở có mối liên hệ mật thiết nhất với giao dịch.
1. Người nhận thông điệp dữ liệu là người được chỉ định nhận thông điệp dữ liệu từ người khởi tạo thông điệp dữ liệu nhưng không bao hàm người trung gian chuyển thông điệp dữ liệu đó.
2. Trong trường hợp các bên tham gia giao dịch không có thoả thuận khác thì việc nhận thông điệp dữ liệu được quy định như sau:
a) Người nhận được xem là đã nhận được thông điệp dữ liệu nếu thông điệp dữ liệu được nhập vào hệ thống thông tin do người đó chỉ định và có thể truy cập được;
b) Người nhận có quyền coi mỗi thông điệp dữ liệu nhận được là một thông điệp dữ liệu độc lập, trừ trường hợp thông điệp dữ liệu đó là bản sao của một thông điệp dữ liệu khác mà người nhận biết hoặc buộc phải biết thông điệp dữ liệu đó là bản sao;
c) Trường hợp trước hoặc trong khi gửi thông điệp dữ liệu, người khởi tạo có yêu cầu hoặc thoả thuận với người nhận về việc người nhận phải gửi cho mình thông báo xác nhận khi nhận được thông điệp dữ liệu thì người nhận phải thực hiện đúng yêu cầu hoặc thoả thuận này;
d) Trường hợp trước hoặc trong khi gửi thông điệp dữ liệu, người khởi tạo đã tuyên bố thông điệp dữ liệu đó chỉ có giá trị khi có thông báo xác nhận thì thông điệp dữ liệu đó được xem là chưa gửi cho đến khi người khởi tạo nhận được thông báo của người nhận xác nhận đã nhận được thông điệp dữ liệu đó;
đ) Trường hợp người khởi tạo đã gửi thông điệp dữ liệu mà không tuyên bố về việc người nhận phải gửi thông báo xác nhận và cũng chưa nhận được thông báo xác nhận thì người khởi tạo có thể thông báo cho người nhận là chưa nhận được thông báo xác nhận và ấn định khoảng thời gian hợp lý để người nhận gửi xác nhận; nếu người khởi tạo vẫn không nhận được thông báo xác nhận trong khoảng thời gian đã ấn định thì người khởi tạo có quyền xem là chưa gửi thông điệp dữ liệu đó.
Trong trường hợp các bên tham gia giao dịch không có thoả thuận khác thì thời điểm, địa điểm nhận thông điệp dữ liệu được quy định như sau:
1. Trường hợp người nhận đã chỉ định một hệ thống thông tin để nhận thông điệp dữ liệu thì thời điểm nhận là thời điểm thông điệp dữ liệu nhập vào hệ thống thông tin được chỉ định; nếu người nhận không chỉ định một hệ thống thông tin để nhận thông điệp dữ liệu thì thời điểm nhận thông điệp dữ liệu là thời điểm thông điệp dữ liệu đó nhập vào bất kỳ hệ thống thông tin nào của người nhận;
2. Địa điểm nhận thông điệp dữ liệu là trụ sở của người nhận nếu người nhận là cơ quan, tổ chức hoặc nơi cư trú thường xuyên của người nhận nếu người nhận là cá nhân. Trường hợp người nhận có nhiều trụ sở thì địa điểm nhận thông điệp dữ liệu là trụ sở có mối liên hệ mật thiết nhất với giao dịch.
Section 1. LEGAL VALIDITY OF DATA MESSAGES
Article 10. Formats of data messages
A data message may be shown in the form of electronic data interchange, electronic documents, e-mails, telegrams, telegraphs, facsimiles and other similar forms.
Article 11. Legal validity of data messages
Information in data messages cannot have its legal validity disclaimed for the sole reason that it is expressed in the form of data messages.
Article 12. Data messages being as valid as documents
Where the law requires information to be in writing, a data message shall be considered having met this condition if the information contained therein is accessible and usable for reference when necessary.
Article 13. Data messages being as valid as original copy
A data message shall be as valid as an original copy when satisfying the following conditions:
1. The contents of the data message are kept intact since its first origination in the form of a complete data message.
The contents of a data message are considered intact when they remain unchanged, except for changes in their appearance which arise in the process of sending, storing or displaying the data message.
2. The contents of the data message are accessible and usable in its integrity for reference when necessary.
Article 14. Data messages being as valid as evidence
1. A data message cannot be disclaimed in terms of its validity as evidence for the sole reason that it is a data message.
2. The validity as evidence of a data message shall be determined based on the reliability of the method by which the data message was generated, stored or communicated; the method to ensure and maintain the integrity of the data message; the method by which its originator was identified, and on other relevant factors.
Article 15. Storage of data messages
1. In cases where the law requires records, files or information to be stored, such records, files or information can be stored in the form of data messages when the following conditions are satisfied:
a) The information in the data message is accessible and usable for reference when necessary;
b) The contents of such data message are stored in the very format in which it was originated, sent or received, or in a format which can be demonstrated to represent accurately its contents;
c) Such data message is stored in a manner to enable the identification of its origin, destination, and the date and time when it was sent or received.
2. Contents and time limit for storage of data message shall comply with the provisions of law on storage.
Section 2. SENDING AND RECEIPT OF DATA MESSAGES
Article 16. Originator of a data message
1. The originator of a data message shall be an agency, organization or individual that creates or sends the data message before such message is stored, excluding any intermediary transmitting the data message.
2. Where parties to a transaction do not agree otherwise, the identification of the originator of a data message shall be as follows:
a) A data message is considered as that of the originator if it is sent by the originator or by an information system established to operate automatically which is designated by the originator;
b) The recipient may consider a data message as being that of the originator if the recipient has applied the verification methods approved by the originator and such methods give the result that such data message is of the originator;
c) As from the time the recipient becomes aware of technical errors in the transmission of a data message or has applied error-detecting methods approved by the originator, the provisions of Points a and b of this Clause shall not apply.
3. The originator shall take responsibility before law for the contents of the data message the originator has originated.
Article 17. Time and place of sending a data message
Unless otherwise agreed upon by the parties to a transaction, the time and place of sending a data message is provided for as follows:
1. The time of sending a data message is the point of time when such data message enters an information system outside the control of the originator;
2. The place of sending a data message is the headquarters of the originator if the originator is an agency or organization or the residence of the originator if the originator is an individual. If the originator has more than one headquarters, the place of sending the data message is the one which has the closest relationship with the transaction.
Article 18. Receipt of a data message
1. The recipient of a data message is the person who is designated to receive the data message from its originator but does not mean any intermediary transmitting such data message.
2. Unless otherwise agreed upon by the parties to the transaction, the receipt of a data message is provided for as follows:
a) The recipient of a data message is deemed in receipt of such message if the message is entered into an information system designated by the recipient and accessible;
b) The recipient has the right to consider each data message received an independent one unless such data message is a copy of another data message and the recipient knows or ought to know that it is a copy;
c) Where the originator has required or agreed with the recipient before or during the sending of a data message that the recipient must send an acknowledgement of the receipt of such data message, the recipient must comply with such request or agreement;
d) Where the originator, before or during the sending of a data message, has stated that such data message will be valid only when the originator receives an acknowledgement, such data message shall be considered having not been sent till the originator receives a written acknowledgement of the receipt of such data message from the recipient;
e) Where the originator has already sent a data message without stating that the recipient must send an acknowledgement and has not yet received the acknowledgement, the originator may notify the recipient that no acknowledgement has been received and set a reasonable duration for the recipient to send the acknowledgement. If the originator still fails to receive any acknowledgement within the specified duration, the originator has the right to treat the data message as though it had never been sent.
Article 19. Time and place of receiving a data message
Unless otherwise agreed upon by the parties to the transaction, the time and place of receiving a data message are provided for as follows:
1. If the recipient has designated an information system for receiving a data message, the message-receiving time shall be the time when the data message enters the designated information system; if the recipient has not designated a specific information system for receiving the data message, the message-receiving time shall be the time when the data message enters any information system of the recipient.
2. The place of receiving a data message shall be the headquarters of the recipient if the recipient is an organization or the permanent residence of the recipient if the recipient is an individual. If the recipient has more than one headquarters, the place of receiving the data message shall be the headquarters which has the closest relationship with the transaction.
Article 20. Automatic sending and receipt of data messages
If the originator or the recipient has designated one or several information systems for the purpose of automatic sending or receipt of data messages, the provisions of Articles 16, 17, 18 and 19 of this Law shall apply.
Tình trạng hiệu lực: Còn hiệu lực