Chương VII Luật Bầu cử Đại biểu Quốc hội 1992: Kết quả bầu cử
Số hiệu: | 67-LCT/HĐNN8 | Loại văn bản: | Luật |
Nơi ban hành: | Quốc hội | Người ký: | Võ Chí Công |
Ngày ban hành: | 15/04/1992 | Ngày hiệu lực: | 18/04/1992 |
Ngày công báo: | 15/04/1992 | Số công báo: | Số 7 |
Lĩnh vực: | Bộ máy hành chính | Tình trạng: |
Hết hiệu lực
15/04/1997 |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
Việc kiểm phiếu phải được tiến hành tại phòng bỏ phiếu ngay sau khi cuộc bỏ phiếu kết thúc.
Trước khi mở hòm phiếu, Tổ bầu cử phải thống kê và niêm phong lại số phiếu bầu không sử dụng đến và phải mời hai cử tri không phải là người ứng cử có mặt tại đó chứng kiến việc kiểm phiếu.
Người ứng cử, đại diện đoàn thể, tổ chức đề cử hoặc người được ủy nhiệm có quyền chứng kiến việc kiểm phiếu và khiếu nại về việc kiểm phiếu. Các phóng viên báo chí, điện ảnh, nhiếp ảnh, truyền hình, phát thanh được chứng kiến việc kiểm phiếu.
Những phiếu sau đây là không hợp lệ:
1- Phiếu không phải là phiếu theo mẫu quy định do Tổ bầu cử phát;
2- Phiếu không có dấu của Tổ bầu cử;
3- Phiếu để số người được bầu quá số đại biểu mà đơn vị bầu cử được bầu;
4- Phiếu gạch xoá hết tên những người ứng cử;
Nếu có phiếu nào nghi là không hợp lệ, thì Tổ trưởng Tổ bầu cử đưa vấn đề này ra toàn tổ giải quyết.
Những khiếu nại tại chỗ về việc kiểm phiếu do Tổ bầu cử tiếp nhận, giải quyết và ghi cách giải quyết vào biên bản.
Nếu Tổ bầu cử không giải quyết được, thì phải chuyển đến Ban bầu cử để giải quyết.
Tổ bầu cử phải ghi vào biên bản kết quả kiểm phiếu:
- Tổng số cử tri của khu vực bỏ phiếu;
- Số cử tri tham gia bỏ phiếu;
- Số phiếu hợp lệ;
- Số phiếu không hợp lệ;
- Số phiếu bầu cho mỗi người ứng cử;
- Những khiếu nại nhận được, những khiếu nại đã giải quyết và cách giải quyết, những khiếu nại chưa giải quyết.
Biên bản làm thành hai bản, có chữ ký của tổ trưởng, thư ký và hai cử tri được mời chứng kiến việc kiểm phiếu: một bản gửi đến ban bầu cử; một bản gửi đến Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn chậm nhất là ba ngày sau ngày bầu cử.
Khi nhận được biên bản của Tổ bầu cử, Ban bầu cử kiểm tra các biên bản đó và lập biên bản xác định kết quả bầu cử ở đơn vị bầu cử của mình.
Biên bản phải ghi rõ:
- Số đại biểu Quốc hội được ấn định cho đơn vị bầu cử;
- Số người ứng cử;
- Tổng số cử tri trong đơn vị bầu cử;
- Số cử tri tham gia bỏ phiếu, tỷ lệ so với tổng số cử tri;
- Số phiếu hợp lệ;
- Số phiếu không hợp lệ;
- Số phiếu bầu cho mỗi người ứng cử;
- Danh sách những người trúng cử;
- Những khiếu nại do các Tổ bầu cử đã giải quyết, những khiếu nại do Ban bầu cử giải quyết, những khiếu nại chuyển đến Uỷ ban bầu cử, Hội đồng bầu cử giải quyết.
- Biên bản làm thành ba bản, có chữ ký của Trưởng ban, Phó Trưởng ban và các thư ký: một bản gửi Hội đồng bầu cử; một bản gửi Uỷ ban bầu cử; một bản gửi về Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, chậm nhất là năm ngày sau ngày bầu cử.
Trong số đại biểu mà đơn vị bầu cử được bầu, người ứng cử được quá nửa số phiếu hợp lệ và được nhiều phiếu hơn là người trúng cử. Trong trường hợp nhiều người được số phiếu bằng nhau, thì dựa vào thứ tự tuổi mà sắp xếp, người nhiều tuổi hơn được trúng cử.
Nếu trong cuộc bầu cử đầu tiên, số người trúng cử chưa đủ số đại biểu do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định cho đơn vị bầu cử thì Ban bầu cử phải ghi rõ điểm đó vào biên bản và báo cáo lên Uỷ ban bầu cử; Uỷ ban bầu cử báo cáo với Hội đồng bầu cử để xem xét và quyết định. Trong trường hợp có bầu thêm, thì phải được tiến hành chậm nhất là ba mươi ngày sau cuộc bầu cử đầu tiên. Trong cuộc bầu thêm cử tri chỉ chọn bầu trong danh sách những người đã ứng cử kỳ đầu nhưng không trúng cử.
Uỷ mỗi đơn vị bầu cử, nếu số cử tri đi bỏ phiếu chưa được quá nửa số cử tri ghi trong danh sách, thì Ban bầu cử ghi rõ điều đó vào biên bản và báo cáo ngay cho Uỷ ban bầu cử; Uỷ ban bầu cử phải quyết định ngày bầu lại chậm nhất là mười lăm ngày sau cuộc bầu cử đầu tiên. Trong cuộc bầu lại chỉ chọn bầu trong danh sách những người đã ứng cử kỳ đầu.
Sau khi nhận và kiểm tra biên bản xác định kết quả của các Ban bầu cử và giải quyết những khiếu nại nếu có, Uỷ ban bầu cử lập biên bản xác định kết quả bầu cử ở địa phương.
Biên bản tổng kết phải ghi rõ:
- Số lượng đơn vị bầu cử;
- Số lượng người ứng cử của địa phương;
- Tổng số cử tri ở địa phương;
- Số lượng cử tri tham gia bỏ phiếu và tỷ lệ so với số lượng cử tri ghi trong danh sách của các đơn vị bầu cử ở địa phương;
- Số phiếu hợp lệ;
- Số phiếu không hợp lệ;
- Số phiếu bầu cho mỗi người ứng cử;
- Danh sách những người trúng cử;
- Những khiếu nại Ban bầu cử đã giải quyết;
- Những khiếu nại Uỷ ban bầu cử đã giải quyết;
- Những việc quan trọng đã xảy ra và cách giải quyết;
- Những kiến nghị lên Hội đồng bầu cử.
Biên bản ghi thành bốn bản có chữ ký của Chủ tịch, Thư ký Uỷ ban bầu cử: một bản gửi lên Hội đồng bầu cử; một bản gửi cho Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cấp tương đương; hai bản gửi cho Thường trực Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cùng cấp chậm nhất là bảy ngày sau ngày bầu cử.
Sau khi nhận và kiểm tra biên bản của tất cả các ban bầu cử, Uỷ ban bầu cử và giải quyết các khiếu nại nếu có, Hội đồng bầu cử lập biên bản tổng kết cuộc bầu cử trong cả nước.
Biên bản tổng kết phải ghi rõ:
- Tổng số đại biểu Quốc hội được bầu;
- Tổng số người ứng cử;
- Tổng số cử tri;
- Tổng số cử tri đã đi bầu, tỷ lệ so với tổng số cử tri;
- Số phiếu hợp lệ;
- Số phiếu không hợp lệ;
- Danh sách những người trúng cử và số phiếu bầu cho mỗi người;
- Những việc quan trọng đã xảy ra và cách giải quyết.
Biên bản làm thành bốn bản có chữ ký của Chủ tịch, Tổng thư ký Hội đồng bầu cử: một bản gửi Uỷ ban thường vụ Quốc hội; một bản gửi Chính phủ; một bản trình Quốc hội và một bản lưu trữ.
Tình trạng hiệu lực: Hết hiệu lực