Chương III Luật Bầu cử Đại biểu Quốc hội 1992: Các tổ chức phụ trách bầu cử Quốc Hội
Số hiệu: | 67-LCT/HĐNN8 | Loại văn bản: | Luật |
Nơi ban hành: | Quốc hội | Người ký: | Võ Chí Công |
Ngày ban hành: | 15/04/1992 | Ngày hiệu lực: | 18/04/1992 |
Ngày công báo: | 15/04/1992 | Số công báo: | Số 7 |
Lĩnh vực: | Bộ máy hành chính | Tình trạng: |
Hết hiệu lực
15/04/1997 |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
Phụ trách tổ chức việc bầu cử đại biểu Quốc hội có:
- Hội đồng bầu cử ở trung ương;
- Uỷ ban bầu cử ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
- Ban bầu cử ở đơn vị bầu cử;
- Tổ bầu cử ở khu vực bỏ phiếu.
Chậm nhất là chín mươi ngày trước ngày bầu cử, Uỷ ban thường vụ Quốc hội thành lập Hội đồng bầu cử từ mười lăm đến hai mươi mốt người, gồm đại diện Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đại diện Uỷ ban thường vụ Quốc hội, đại diện Chính phủ.
Hội đồng bầu cử bầu ra Chủ tịch, một hoặc hai Phó Chủ tịch và Tổng thư ký.
Hội đồng bầu cử có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1- Lãnh đạo việc tổ chức bầu cử trong cả nước, kiểm tra đôn đốc việc thi hành các quy định của pháp luật về bầu cử đại biểu Quốc hội;
2- Công bố danh sách những người ứng cử đại biểu Quốc hội theo từng đơn vị bầu cử trong cả nước;
3- Xét và giải quyết khiếu nại về công tác của các Uỷ ban bầu cử, Ban bầu cử và Tổ bầu cử; xét và giải quyết khiếu nại về công tác bầu cử do Uỷ ban bầu cử hoặc Ban bầu cử chuyển đến;
4- Tiếp nhận và kiểm tra biên bản do Uỷ ban bầu cử hoặc Ban bầu cử gửi đến, làm biên bản tổng kết cuộc bầu cử trong cả nước;
5- Xét và quyết định việc bầu lại, bầu thêm hoặc huỷ bỏ kết quả bầu cử ở các đơn vị bầu cử;
6- Tuyên bố kết quả bầu cử trong cả nước;
7- Cấp giấy chứng nhận cho đại biểu trúng cử;
8- Trình Quốc hội biên bản tổng kết bầu cử và những hồ sơ tài liệu về bầu cử.
Chậm nhất là bẩy mươi ngày trước ngày bầu cử, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Uỷ ban nhân dân phối hợp với Thường trực Hội đồng nhân dân cùng cấp thành lập Uỷ ban bầu cử từ bẩy đến chín người, trong đó có đại diện Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đại diện chính quyền cùng cấp.
Uỷ ban bầu cử bầu ra Chủ tịch, Phó Chủ tịch và Thư ký.
Uỷ ban bầu cử có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1- Chỉ đạo việc chuẩn bị và tổ chức bầu cử ở các đơn vị bầu cử; in thẻ cử tri và phiếu bầu theo mẫu của Hội đồng bầu cử;
2- Kiểm tra, đôn đốc việc chấp hành những quy định của pháp luật về bầu cử đại biểu Quốc hội của các Ban bầu cử, Tổ bầu cử;
3- Nhận đơn và hồ sơ của những người ứng cử;
4- Lập danh sách những người ứng cử theo đơn vị bầu cử và báo cáo Hội đồng bầu cử quyết định.
5- Xét và giải quyết khiếu nại về bầu cử, về hoạt động của Ban bầu cử hoặc do Ban bầu cử chuyển đến;
6- Nhận và kiểm tra biên bản bầu cử;
7- Thông báo kết quả bầu cử chung ở địa phương;
8- Báo cáo tình hình tổ chức và tiến hành bầu cử theo quy định của Hội đồng bầu cử;
9- Chuyển hồ sơ, biên bản bầu cử lên Hội đồng bầu cử;
10- Tổ chức việc bầu lại, bầu thêm theo quyết định của Hội đồng bầu cử.
Chậm nhất là sáu mươi ngày trước ngày bầu cử, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phối hợp với Thường trực Hội đồng nhân dân cùng cấp thành lập ở mỗi đơn vị bầu cử một Ban bầu cử từ chín đến mười lăm người, trong đó có đại diện Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đại diện chính quyền địa phương.
Ban bầu cử bầu ra Trưởng ban, một hoặc hai Phó Trưởng ban và các Thư ký.
Ban bầu cử có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1- Kiểm tra, đôn đốc việc thi hành các quy định của pháp luật về bầu cử đại biểu Quốc hội của các Tổ bầu cử;
2- Kiểm tra, đôn đốc việc bố trí các phòng bỏ phiếu;
3- Xét và giải quyết khiếu nại về công tác của các tổ bầu cử;
4- Phân phối phiếu bầu cử cho các tổ bầu cử, chậm nhất là năm ngày trước ngày bầu cử;
5- Kiểm tra việc lập và niêm yết danh sách cử tri;
6- Niêm yết danh sách những người ứng cử trong đơn vị bầu cử;
7- Xét và giải quyết khiếu nại về người ứng cử;
8- Kiểm tra công việc bầu cử tại các phòng bỏ phiếu;
9- Tiếp nhận, kiểm tra biên bản kiểm phiếu do các tổ bầu cử gửi đến; làm biên bản xác định kết quả bầu cử trong đơn vị để gửi lên Hội đồng bầu cử và tuyên bố kết quả đó;
10- Báo cáo tình hình tổ chức và tiến hành bầu cử theo quy định của Hội đồng bầu cử và Uỷ ban bầu cử;
11- Giao hồ sơ, tài liệu về bầu cử cho Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
12- Tổ chức việc bầu lại, bầu thêm theo quy định của Luật này.
Uỷ địa phương chỉ có một đơn vị bầu cử thì Uỷ ban bầu cử thực hiện những quyền hạn và nhiệm vụ của Ban bầu cử và không thành lập Ban bầu cử.
Chậm nhất là hai mươi ngày trước ngày bầu cử, Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn thành lập ở mỗi khu vực bỏ phiếu một Tổ bầu cử gồm từ năm đến mười một người trong đó có đại diện Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đại diện chính quyền địa phương.
Các đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân thành lập ở mỗi khu vực bỏ phiếu của mình một Tổ bầu cử từ năm đến chín người đại diện đơn vị.
Tổ bầu cử bầu bầu ra Tổ trưởng, một Phó Tổ trưởng và các thư ký.
Tổ bầu cử có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1- Tổ chức việc bầu cử trong khu vực bỏ phiếu;
2- Bố trí phòng bỏ phiếu và chuẩn bị hòm phiếu;
3- Phát phiếu bầu cử có đóng dấu của Tổ bầu cử cho các cử tri;
4- Bảo đảm trật tự trong phòng bỏ phiếu;
5- Kiểm phiếu và làm biên bản kiểm phiếu để gửi lên Ban bầu cử;
6- Giao biên bản kiểm phiếu và tất cả những phiếu bầu cho Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn;
7- Báo cáo tình hình tổ chức và tiến hành bầu cử theo quy định của cấp trên.
Hội đồng bầu cử, Uỷ ban bầu cử, Ban bầu cử và Tổ bầu cử không được vận động bầu cử cho những người ứng cử.
Các tổ chức phụ trách bầu cử làm việc theo chế độ tập thể, các cuộc họp được tiến hành khi có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên tham dự. Các quyết định được thông qua khi có đa số biểu quyết tán thành.
Các tổ chức phụ trách bầu cử có thể trưng tập cán bộ, nhân viên của các cơ quan Nhà nước, đoàn thể nhân dân, tổ chức xã hội giúp việc theo quyết định của Chủ tịch Hội đồng bầu cử, Chủ tịch Uỷ ban bầu cử hoặc của Trưởng ban bầu cử.
Các cơ quan và nhân viên Nhà nước, các đoàn thể nhân dân, tổ chức xã hội trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình phải tạo điều kiện thuận lợi giúp Hội đồng bầu cử, Uỷ ban bầu cử, Ban bầu cử và Tổ bầu cử thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của mình.
Hội đồng bầu cử hết nhiệm vụ sau khi đã trình Quốc hội biên bản tổng kết bầu cử và những hồ sơ, tài liệu về bầu cử. Các Uỷ ban bầu cử, Ban bầu cử, Tổ bầu cử hết nhiệm vụ sau khi Hội đồng bầu cử tuyên bố kết quả bầu cử trong cả nước.
Tình trạng hiệu lực: Hết hiệu lực