Chương V Luật Bầu cử Đại biểu Quốc hội 1992: Ứng cử, đề cử và hiệp thương giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc Hội
Số hiệu: | 67-LCT/HĐNN8 | Loại văn bản: | Luật |
Nơi ban hành: | Quốc hội | Người ký: | Võ Chí Công |
Ngày ban hành: | 15/04/1992 | Ngày hiệu lực: | 18/04/1992 |
Ngày công báo: | 15/04/1992 | Số công báo: | Số 7 |
Lĩnh vực: | Bộ máy hành chính | Tình trạng: |
Hết hiệu lực
15/04/1997 |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
Công dân muốn ứng cử đại biểu Quốc hội theo quy định của Luật này, thì chậm nhất sáu mười ngày trước ngày bầu cử phải nộp tại Uỷ ban bầu cử nơi mình ứng cử đơn xin ứng cử kèm theo sơ yếu lý lịch và giấy chứng nhận của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú về quyền ứng cử theo quy định tại Điều 2 của Luật này.
Đoàn Chủ tịch Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức hội nghị gồm đại diện các tổ chức thành viên để hiệp thương thỏa thuận về cơ cấu, thành phần và phân bổ số lượng người của các đoàn thể nhân dân, tổ chức xã hội, cơ quan Nhà nước ở trung ương giới thiệu ra ứng đại biểu Quốc hội. Đại diện Hội đồng bầu cử được mời dự hội nghị này.
Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tổ chức hội nghị gồm đại diện các tổ chức thành viên để hiệp thương thỏa thuận về cơ cấu, thành phần và phân bổ số lượng người ở địa phương mình được giới thiệu ra ứng cử đại biểu Quốc hội. Đại diện Uỷ ban bầu cử được mời dự hội nghị này.
Theo cơ cấu, thành phần và số lượng người ứng cử đã được thỏa thuận, các đoàn thể nhân dân, tổ chức xã hội, cơ quan Nhà nước đề cử đại biểu của mình.
Đoàn Chủ tịch Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, trên cơ sở tiêu chuẩn và cơ cấu đã thoả thuận, bàn bạc, điều chỉnh để tập hợp danh sách sơ bộ những người được đề cử và những người tự ứng cử, gửi lấy ý kiến cử tri ở cơ sở nơi công tác và nơi cư trú.
Hội nghị cử tri ở xã, phường, thị trấn được tổ chức theo đơn vị thôn, ấp, hoặc tổ dân phố do Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc xã, phường, thị trấn phối hợp với Uỷ ban nhân dân cùng cấp triệu tập và chủ trì; Hội nghị cử tri ở cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và các đơn vị khác là Hội nghị công nhân, viên chức hoặc Hội nghị đại biểu của công nhân, viên chức do Thủ trưởng và Chủ tịch công đoàn cơ quan, tổ chức, đơn vị triệu tập và chủ trì; Hội nghị cử tri ở đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân là Hội nghị quân nhân do Thủ trưởng đơn vị triệu tập và chủ trì. Tại Hội nghị này, cử tri đối chiếu với tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội, nhận xét, bày tỏ sự tín nhiệm đối với người được đề cử, người tự ứng cử bằng cách giơ tay hoặc bỏ phiếu kín theo quyết định của Hội nghị.
Người được đề cử và người tự ứng cử, đại diện tổ chức, cơ quan, đơn vị có người đề cử và người tự ứng cử được mời tham dự hội nghị này.
Đoàn Chủ tịch Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiệp thương với đại diện các tổ chức thành viên lựa chọn trong số những người được đề cử, người tự ứng cử để lập Danh sách chính thức những người của các đoàn thể nhân dân, tổ chức xã hội, cơ quan Nhà nước ở trung ương ứng cử đại biểu Quốc hội. Đại diện Hội đồng bầu cử được mời dự hội nghị này.
Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hiệp thương với đại diện các tổ chức thành viên, lựa chọn trong số những người được đề cử, người tự ứng cử để lập Danh sách chính thức những người ở địa phương ứng cử đại biểu Quốc hội. Đại diện Uỷ ban bầu cử được mời dự hội nghị này.
Chậm nhất là bốn mươi ngày trước ngày bầu cử, biên bản hội nghị hiệp thương và Danh sách người ứng cử phải được Đoàn Chủ tịch Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương gửi đến Hội đồng bầu cử và Uỷ ban bầu cử.
Hội đồng bầu cử công bố người ứng cử theo danh sách từng đơn vị bầu cử, theo đề nghị của Đoàn Chủ tịch Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc và Uỷ ban bầu cử tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Số người trong danh sách ứng cử ở mỗi đơn vị bầu cử phải nhiều hơn số đại biểu được bầu ở đơn vị đó.
Người ứng cử chỉ được ghi tên ứng cử ở một đơn vị bầu cử.
Người ứng cử không được tham gia Ban bầu cử hoặc Tổ bầu cử thuộc đơn vị mình ra ứng cử. Nếu là thành viên của các tổ chức phụ trách bầu cử thuộc đơn vị mình ra ứng cử, thì người ứng cử phải rút khỏi danh sách thành viên của tổ chức phụ trách bầu cử kể từ ngày ghi tên vào danh sách người ứng cử.
Chậm nhất là ba mươi ngày trước ngày bầu cử, Đoàn Chủ tịch Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phải nộp tại Uỷ ban bầu cử hồ sơ những người trong danh sách ứng cử gồm:
1- Giấy giới thiệu người ứng cử;
2- Đơn ứng cử có ghi tên, tuổi, nghề nghiệp, nguyên quán, địa chỉ, nơi ra ứng cử;
3- Sơ yếu lý lịch;
4- Giấy của cơ quan Nhà nước, nơi cư trú chứng nhận người ứng cử có đủ điều kiện ứng cử nói ở Điều 2 của Luật này.
Khi nhận các giấy tờ trên, Uỷ ban bầu cử phải cấp giấy biên nhận.
Chậm nhất là hai mươi ngày trước ngày bầu cử, Ban bầu cử phải niêm yết Danh sách người ứng cử ở đơn vị mình theo quyết định của Hội đồng bầu cử.
Kể từ ngày công bố Danh sách người ứng cử, công dân có quyền khiếu nại, báo cáo với Ban bầu cử hoặc Uỷ ban bầu cử về những sai lầm, thiếu sót trong Danh sách người ứng cử. Ban bầu cử hoặc Uỷ ban bầu cử phải ghi vào sổ và giải quyết khiếu nại, báo cáo đó. Nếu người khiếu nại hoặc báo cáo không đồng ý với kết quả giải quyết của Ban bầu cử hoặc Uỷ ban bầu cử thì có quyền khiếu nại, báo cáo với Hội đồng bầu cử. Quyết định của Hội đồng bầu cử là quyết định cuối cùng.
Người ứng cử có tên trong Danh sách ứng cử đã công bố thực hiện quyền vận động bầu cử thông qua việc gặp gỡ, tiếp xúc với cử tri và báo cáo với cử tri dự kiến việc thực hiện trách nhiệm của người đại biểu nếu được bầu làm đại biểu Quốc hội.
Việc gặp gỡ, tiếp xúc cử tri do Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc việt Nam Tổ chức.
Tình trạng hiệu lực: Hết hiệu lực