Chương 7:Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân 1989: KẾT QUẢ BẦU CỬ
Số hiệu: | 1989 19-LCT/HĐNN8 | Loại văn bản: | Luật |
Nơi ban hành: | Quốc hội | Người ký: | Võ Chí Công |
Ngày ban hành: | 30/06/1989 | Ngày hiệu lực: | 11/07/1989 |
Ngày công báo: | 15/02/1990 | Số công báo: | Số 3 |
Lĩnh vực: | Bộ máy hành chính | Tình trạng: |
Hết hiệu lực
05/07/1994 |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
Việc kiểm phiếu phải được tiến hành tại phòng bỏ phiếu ngay sau khi cuộc bỏ phiếu kết thúc, Tổ bầu cử phải mời hai cử tri không phải là người ứng cử có mặt tại đó chứng kiến việc kiểm phiếu.
Người ứng cử và các phóng viên báo chí, điện ảnh, nhiếp ảnh, đài truyền hình, đài phát thanh được xem kiểm phiếu.
Những phiếu sau đây là không hợp lệ:
1- Không phải là phiếu theo mẫu quy định do Tổ bầu cử phát ra;
2- Không có dấu của Tổ bầu cử;
3- Ghi tên người ứng cử quá số đại biểu được bầu.
Phiếu trắng là phiếu xoá hết tên những người ứng cử đã ghi trên phiếu bầu.
Khi nghi ngờ phiếu nào là phiếu không hợp lệ hoặc là phiếu trắng thì Tổ trưởng Tổ bầu cử phải đưa ra toàn tổ giải quyết.
Những phiếu có ghi tên những người ứng cử cùng với tên những người không ứng cử vẫn được coi là phiếu hợp lệ, song không kể tên những người không ứng cử.
Tổ bầu cử không được xoá hoặc chữa các tên ghi trên phiếu bầu
Những khiếu nại tại chỗ về việc kiểm phiếu do Tổ bầu cử tiếp nhận, giải quyết và ghi cách giải quyết vào biên bản. Nếu Tổ bầu cử không giải quyết được thì phải đưa lên Ban bầu cử để giải quyết.
Kiểm phiếu xong, Tổ bầu cử phải lập biên bản ghi rõ:
- Tổng số cử tri của khu vực bỏ phiếu;
- Số phiếu phát ra; số phiếu thu vào;
- Số cử tri đã đi bầu;
- Số phiếu hợp lệ;
- Số phiếu không hợp lệ;
- Số phiếu trắng;
- Số phiếu bầu cho mỗi người ứng cử;
- Những khiếu nại đã nhận được và cách giải quyết, những khiếu nại chưa giải quyết được.
Biên bản làm thành ba bản có chữ ký của Tổ trưởng, Thư ký và hai cử tri được mời chứng kiến việc kiểm phiếu; một bản gửi Ban bầu cử, một bản gửi Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn, một bản gửi Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp.
Sau khi nhận được biên bản của các Tổ bầu cử, Ban bầu cử kiểm tra các biên bản đó và lập biên bản xác định kết quả bầu cử ở đơn vị bầu cử của mình.
Biên bản phải ghi rõ:
- Số đại biểu Hội đồng nhân dân ấn định cho đơn vị bầu cử;
- Số người ứng cử;
- Tổng số cử tri trong đơn vị bầu cử;
- Số phiếu phát ra; số phiếu thu vào;
- Số cử tri đã đi bầu, số cử tri không đi bầu, tỷ lệ số cử tri đã đi bầu so với tổng số cử tri;
- Số phiếu hợp lệ;
- Số phiếu không hợp lệ;
- Số phiếu trắng;
- Số phiếu bầu cho mỗi người ứng cử;
- Danh sách những người trúng cử;
- Những khiếu nại do Tổ bầu cử đã giải quyết;
- Những khiếu nại do Ban bầu cử đã giải quyết; những khiếu nại chuyển lên Hội đồng bầu cử giải quyết.
Biên bản làm thành bốn bản, có chữ ký của Trưởng ban, Phó Trưởng ban và Thư ký; một bản gửi Hội đồng bầu cử, một bản gửi Thường trực Hội đồng nhân dân, một bản gửi Uỷ ban nhân dân, một bản gửi Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp với Ban bầu cử. Đối với cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn, thì biên bản làm thành ba bản.
Những người ứng cử được quá nửa số phiếu hợp lệ và được nhiều phiếu hơn thì trúng cử. Nếu có nhiều người được số phiếu ngang nhau thì Hội đồng bầu cử xét, quyết định người trúng cử theo đề nghị của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp và của Ban bầu cử ở đơn vị bầu cử ấy.
Trong cuộc bầu cử đầu tiên, nếu số người trúng cử chưa đủ hai phần ba số đại biểu đã quy định cho đơn vị bầu cử, thì Ban bầu cử phải ghi rõ điểm đó vào biên bản và báo cáo ngay cho Hội đồng bầu cử để quyết định ngày bầu thêm số đại biểu còn thiếu, chậm nhất là mười lăm ngày sau cuộc bầu cử đầu tiên. Trong cuộc bầu thêm, cử tri chỉ chọn bầu trong danh sách những người ứng cử nhưng không trúng cử kỳ đầu. Nếu bầu thêm mà chưa đủ số đại biểu, thì không tổ chức bầu thêm lần thứ hai.
ở đơn vị bầu cử nào, nếu số cử tri đi bầu chưa được quá nửa số cử tri ghi trong danh sách, thì Ban bầu cử phải ghi rõ điều đó vào biên bản và báo cáo ngay cho Hội đồng bầu cử để quyết định ngày bầu lại, chậm nhất là mười lăm ngày sau ngày bầu cử đầu tiên. Trong cuộc bầu lại, cử tri chỉ chọn bầu trong danh sách những người ứng cử kỳ đầu.
Việc bầu thêm hoặc bầu lại vẫn căn cứ vào danh sách cử tri đã lập trong cuộc bầu cử đầu tiên và theo những điều đã quy định trong Luật này.
Sau khi nhận được biên bản của các Ban bầu cử và giải quyết những khiếu nại, nếu có, Hội đồng bầu cử làm biên bản tổng kết cuộc bầu cử.
Hội đồng bầu cử tuyên bố công khai kết quả cuộc bầu cử theo nội dung biên bản tổng kết quy định tại Điều 54 của Luật này chậm nhất là:
- Năm ngày, sau ngày bầu cử đối với Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn;
- Bảy ngày, sau ngày bầu cử đối với Hội đồng nhân dân huyện miền xuôi, quận, thị xã và thành phố thuộc tỉnh;
- Mười ngày, sau ngày bầu cử đối với Hội đồng nhân dân huyện miền núi, hải đảo, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương đương;
- Mười năm ngày, sau ngày bầu cử đối với Hội đồng nhân dân tỉnh miền núi.
Biên bản tổng kết phải ghi rõ:
- Tổng số đại biểu ấn định cho Hội đồng nhân dân cấp đó;
- Tổng số người ứng cử;
- Tổng số cử tri;
- Số phiếu phát ra; số phiếu thu vào;
- Số cử tri đi bầu, số cử tri không đi bầu, tỷ lệ số cử tri đã đi bầu so với tổng số cử tri;
- Số phiếu hợp lệ;
- Số phiếu không hợp lệ;
- Số phiếu trắng;
- Số phiếu bầu cho mỗi người ứng cử;
- Danh sách những người trúng cử;
- Các việc quan trọng đã xảy ra và cách giải quyết.
Biên bản làm thành sáu bản, có chữ ký của Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và Thư ký Hội đồng bầu cử; một bản gửi Thường trực Hội đồng nhân dân, một bản gửi Uỷ ban nhân dân, một bản gửi Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cấp bầu Hội đồng nhân dân; một bản gửi Thường trực Hội đồng nhân dân, một bản gửi Uỷ ban nhân dân, một bản gửi Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cấp trên trực tiếp; nếu là cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương đương thì một bản gửi Thường trực Hội đồng nhân dân, Một bản gửi Uỷ ban nhân dân, một bản gửi Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp, Một bản gửi Hội đồng Nhà nước, một bản gửi Hội đồng bộ trưởng, một bản gửi Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đối với cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn, thì biên bản làm thành năm bản.
Hội đồng Nhà nước quyết định huỷ bỏ cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở đơn vị nào có những vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Hội đồng Nhà nước ấn định ngày bầu cử lại ở đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân ấy.
Trong thời gian từ ngày công bố kết quả bầu cử đến kỳ họp đầu tiên của Hội đồng nhân dân khoá mới, nếu khuyết đại biểu, thì Hội đồng bầu cử cùng cấp với Hội đồng nhân dân lấy người có số phiếu cao nhất trong số những người được quá nửa số phiếu hợp lệ nhưng không trúng cử ở đơn vị bầu cử đại biểu bị khuyết, để bổ sung.
Tình trạng hiệu lực: Hết hiệu lực