Câu hỏi:
21/07/2024 219
“Tuyết Giang phu tử yêu và trọng nhân cách. Về với thiên nhiên, sống hòa thuận theo tự nhiên là thoát ra ngoài vòng ganh đua của thói tục, là không bị cuốn hút bởi tiền tài, địa vị, để tâm hồn an nhiên khoáng đạt.” (Lã Nhâm Thìn, Phân tích tác phẩm văn học trung đại Việt Nam từ góc nhìn thể loại, Nxb Giáo dục, 2009, tr. 71)
Anh (chị) hãy phân tích bài thơ Nhàn để làm sáng tỏ nhận định trên.
“Tuyết Giang phu tử yêu và trọng nhân cách. Về với thiên nhiên, sống hòa thuận theo tự nhiên là thoát ra ngoài vòng ganh đua của thói tục, là không bị cuốn hút bởi tiền tài, địa vị, để tâm hồn an nhiên khoáng đạt.” (Lã Nhâm Thìn, Phân tích tác phẩm văn học trung đại Việt Nam từ góc nhìn thể loại, Nxb Giáo dục, 2009, tr. 71)
Anh (chị) hãy phân tích bài thơ Nhàn để làm sáng tỏ nhận định trên.
Trả lời:
1. Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là sống thuận theo tự nhiên: “Dẫu nhẫn chê khen dầu miệng thế – Cơ cầu tạo hóa mặc tự nhiên”. Nhàn là đốì lập với danh lợi: “Để rẻ công danh đổi lấy nhàn”, giữ cốt cách thanh cao. Nhàn là triết lí, là thái độ sống, là tâm trạng.
– Tuyết Giang Phu Tử yêu và trọng nhân cách, về với thiên nhiên, sống thuận theo tự nhiên là thoát ra ngoài vòng ganh đua của thói tục, là không bị cuốn hút bởi tiền tài, địa vị, để tâm hồn an nhiên, khoáng đạt. Nhân cách ấy rất thuần hậu và thanh cao. Cụ Trạng về sống giữa thôn quê như môt lão nông với bữa cơm đạm bạc, với những sinh hoạt dân dã. Nhưng đạm bạc chứ không khắc khổ. Đạm bạc đi với thanh cao.
– Nhân cách Nguyễn Bỉnh Khiêm đối lập với danh lợi như nước với lửa: “Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ – Người khôn, người đến chôn lao xao”. Ta tìm nơi vắng vẻ là nơi không người cầu cạnh, nơi tĩnh lại của thiên nhiên và nơi thảnh thơi của tâm hồn. Người đến chôn lao xao là đến chôn cửa quyền sang trọng, tấp nập nhưng cũng là chốn hoạn lộ nhiều thủ đoạn bon chen, sát phạt.
– Tìm đến sự thanh cao, tìm thấy sự thư thái của tâm hồn, nhà thơ vui, niềm vui thốt lên thành lời: “Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”. Niềm vui như hiện lên trong bước đi ung dung, niềm vui chi phối cả âm điệu bài thơ, cứ nhẹ nhàng, lâng lâng, cứ “thanh thản, thoải mái một cách kì lạ. Đau khổ ư? Lo toan ư? Mệt mỏi ư? Trút sạch sành sanh” (Lê Trí Viễn, Đến với tha hay, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1997, tr.78).
2. – Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm có sự kết hợp giữa trữ tình và triết lí. Trạng Trình đã đem đến cho văn học Việt Nam một phong cách triết gia. Bài thơ Nhàn là cảm hứng nhàn mà cũng là triết lí nhàn.
– Triết lí nhàn thể hiện qua quan niệm của tác giả về dại và khôn. Đó là triết lí sâu sắc mà hóm hỉnh trong cách nói đùa vui ngược nghĩa, dại mà thực chất là khôn còn khôn mà hóa dại. Ớ một bài thơ khác, Nguyễn Bỉnh Khiêm viết: “Khôn mà hiểm độc là khôn dại – Dại vốn hiền lành ấy dại khôn” (Thơ Nôm – bài 94). Như vậy thì dại, khôn ở Nguyễn Bỉnh Khiêm là xuất phát từ trí tuệ, triết lí dân gian “Ớ hiền gặp lành, ở ác gặp ác”.
– Triết lí nhàn của nhà thơ là trở về sống hòa hợp với tự nhiên, phủ nhận danh lợi. “Rượu đến cội cây ta sẽ uống – Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”. Bậc đại ẩn sống Tuyết này tìm đến say chỉ là để tỉnh. Tỉnh để nhận ra công danh, của cải, quyền quý chỉ là giấc chiêm bao. Nguyễn Bỉnh Khiêm triết lí với mục đích tự cảnh tỉnh mình nhưng lại có tác dụng cảnh tỉnh người đời.
1. Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là sống thuận theo tự nhiên: “Dẫu nhẫn chê khen dầu miệng thế – Cơ cầu tạo hóa mặc tự nhiên”. Nhàn là đốì lập với danh lợi: “Để rẻ công danh đổi lấy nhàn”, giữ cốt cách thanh cao. Nhàn là triết lí, là thái độ sống, là tâm trạng.
– Tuyết Giang Phu Tử yêu và trọng nhân cách, về với thiên nhiên, sống thuận theo tự nhiên là thoát ra ngoài vòng ganh đua của thói tục, là không bị cuốn hút bởi tiền tài, địa vị, để tâm hồn an nhiên, khoáng đạt. Nhân cách ấy rất thuần hậu và thanh cao. Cụ Trạng về sống giữa thôn quê như môt lão nông với bữa cơm đạm bạc, với những sinh hoạt dân dã. Nhưng đạm bạc chứ không khắc khổ. Đạm bạc đi với thanh cao.
– Nhân cách Nguyễn Bỉnh Khiêm đối lập với danh lợi như nước với lửa: “Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ – Người khôn, người đến chôn lao xao”. Ta tìm nơi vắng vẻ là nơi không người cầu cạnh, nơi tĩnh lại của thiên nhiên và nơi thảnh thơi của tâm hồn. Người đến chôn lao xao là đến chôn cửa quyền sang trọng, tấp nập nhưng cũng là chốn hoạn lộ nhiều thủ đoạn bon chen, sát phạt.
– Tìm đến sự thanh cao, tìm thấy sự thư thái của tâm hồn, nhà thơ vui, niềm vui thốt lên thành lời: “Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”. Niềm vui như hiện lên trong bước đi ung dung, niềm vui chi phối cả âm điệu bài thơ, cứ nhẹ nhàng, lâng lâng, cứ “thanh thản, thoải mái một cách kì lạ. Đau khổ ư? Lo toan ư? Mệt mỏi ư? Trút sạch sành sanh” (Lê Trí Viễn, Đến với tha hay, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1997, tr.78).
2. – Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm có sự kết hợp giữa trữ tình và triết lí. Trạng Trình đã đem đến cho văn học Việt Nam một phong cách triết gia. Bài thơ Nhàn là cảm hứng nhàn mà cũng là triết lí nhàn.
– Triết lí nhàn thể hiện qua quan niệm của tác giả về dại và khôn. Đó là triết lí sâu sắc mà hóm hỉnh trong cách nói đùa vui ngược nghĩa, dại mà thực chất là khôn còn khôn mà hóa dại. Ớ một bài thơ khác, Nguyễn Bỉnh Khiêm viết: “Khôn mà hiểm độc là khôn dại – Dại vốn hiền lành ấy dại khôn” (Thơ Nôm – bài 94). Như vậy thì dại, khôn ở Nguyễn Bỉnh Khiêm là xuất phát từ trí tuệ, triết lí dân gian “Ớ hiền gặp lành, ở ác gặp ác”.
– Triết lí nhàn của nhà thơ là trở về sống hòa hợp với tự nhiên, phủ nhận danh lợi. “Rượu đến cội cây ta sẽ uống – Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”. Bậc đại ẩn sống Tuyết này tìm đến say chỉ là để tỉnh. Tỉnh để nhận ra công danh, của cải, quyền quý chỉ là giấc chiêm bao. Nguyễn Bỉnh Khiêm triết lí với mục đích tự cảnh tỉnh mình nhưng lại có tác dụng cảnh tỉnh người đời.
CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ
Câu 1:
Vì sao tác giả cho rằng : " Hạnh phúc mà bạn nhận được khi cho đi chỉ thật sự đến khi bạn cho đi mà không nghĩ đến lợi ích của chính bản thân mình " ?
Vì sao tác giả cho rằng : " Hạnh phúc mà bạn nhận được khi cho đi chỉ thật sự đến khi bạn cho đi mà không nghĩ đến lợi ích của chính bản thân mình " ?
Câu 2:
Đọc văn bản cho dưới đây và thực hiện các yêu cầu nêu ở bên dưới:
“Cho” và “nhận” là hai khái niệm tưởng chừng như đơn giản nhưng số người có thể cân bằng được nó lại chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Ai cũng có thể nói “Những ai biết yêu thương sẽ sống tốt đẹp hơn” hay “Đúng thế, cho đi là hạnh phúc hơn nhận về”. Nhưng tự bản thân mình, ta đã làm được những gì ngoài lời nói?Cho nên, giữa nói và làm lại là hai chuyện hoàn toàn khác nhau. Hạnh phúc mà bạn nhận được khi cho đi chỉ thật sự đến khi bạn cho đi mà không nghĩ ngợi đến lợi ích của chính bản thân mình. Đâu phải ai cũng quên mình vì người khác. Nhưng xin đừng quá chú trọng đến cái tôi của chính bản thân mình. Xin hãy sống vì mọi người để cuộc sống không đơn điệu và để trái tim có những nhịp đập yêu thương. Cuộc sống này có quá nhiều điều bất ngờ nhưng cái quan trọng nhất thực sự tồn tại là tình yêu thương. Sống không chỉ là nhận mà còn phải biết cho đi. Chính lúc ta cho đi nhiều nhất lại là lúc ta được nhận lại nhiều nhất.
Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản trên.
Đọc văn bản cho dưới đây và thực hiện các yêu cầu nêu ở bên dưới:
“Cho” và “nhận” là hai khái niệm tưởng chừng như đơn giản nhưng số người có thể cân bằng được nó lại chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Ai cũng có thể nói “Những ai biết yêu thương sẽ sống tốt đẹp hơn” hay “Đúng thế, cho đi là hạnh phúc hơn nhận về”. Nhưng tự bản thân mình, ta đã làm được những gì ngoài lời nói?Cho nên, giữa nói và làm lại là hai chuyện hoàn toàn khác nhau. Hạnh phúc mà bạn nhận được khi cho đi chỉ thật sự đến khi bạn cho đi mà không nghĩ ngợi đến lợi ích của chính bản thân mình. Đâu phải ai cũng quên mình vì người khác. Nhưng xin đừng quá chú trọng đến cái tôi của chính bản thân mình. Xin hãy sống vì mọi người để cuộc sống không đơn điệu và để trái tim có những nhịp đập yêu thương. Cuộc sống này có quá nhiều điều bất ngờ nhưng cái quan trọng nhất thực sự tồn tại là tình yêu thương. Sống không chỉ là nhận mà còn phải biết cho đi. Chính lúc ta cho đi nhiều nhất lại là lúc ta được nhận lại nhiều nhất.