Chương II Thông tư 37/2014/TT-BTNMT: Quy định chi tiết một số nội dung về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất
Số hiệu: | 37/2014/TT-BTNMT | Loại văn bản: | Thông tư |
Nơi ban hành: | Bộ Tài nguyên và Môi trường | Người ký: | Nguyễn Mạnh Hiển |
Ngày ban hành: | 30/06/2014 | Ngày hiệu lực: | 13/08/2014 |
Ngày công báo: | 19/08/2014 | Số công báo: | Từ số 773 đến số 774 |
Lĩnh vực: | Bộ máy hành chính, Bất động sản | Tình trạng: |
Hết hiệu lực
01/08/2024 |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Đã có Thông tư hướng dẫn bồi thường, hỗ trợ thu hồi đất
Từ ngày 13/08/2014, việc bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất sẽ được áp dụng theo quy định chi tiết tại Thông tư 37/2014/TT-BTNMT.
Theo đó, Thông tư hướng dẫn một số nội dung quan trọng như:
- Việc xác định diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi để tính hỗ trợ ổn định đời sống phải dựa trên từng quyết định thu hồi đất, không được cộng dồn diện tích đất bị thu hồi của các quyết định thu hồi trước đó.
- Phần diện tích đất nông nghiệp còn lại sau khi phần đất có nhà ở bị thu hồi có thể được chuyển mục đích sử dụng sang đất ở để tái định cư nếu đủ điều kiện để tách thửa; Trường hợp không tách thửa được thì Nhà nước thu hồi hoặc người sử dụng tiếp tục sử dụng theo quy hoạch, kế hoạch.
- Người không là cán bộ, công chức, viên chức trong hộ gia đình có người là cán bộ, công chức, viên chức đang sử dụng đất nông nghiệp để sản xuất nông nghiệp khi bị thu hồi đất được hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất, hỗ trợ đào tạo, thay đổi nghề nghiệp hoặc tìm việc làm mới.
Thông tư 37/2014/TT-BTNMT hướng dẫn cho Nghị định 47/2014/NĐ-CP .
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
Việc xác định chi phí đầu tư vào đất còn lại quy định tại Điều 3 của Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất (sau đây gọi là Nghị định số 47/2014/NĐ-CP) thực hiện theo quy định sau:
1. Hồ sơ, chứng từ chứng minh đã đầu tư vào đất chỉ làm căn cứ để chứng minh về việc người sử dụng đất đã đầu tư vào đất.
2. Hồ sơ, chứng từ chứng minh đã đầu tư vào đất gồm các giấy tờ sau đây:
a) Văn bản, hợp đồng thuê, khoán san lấp mặt bằng, tôn tạo đất đối với đất được Nhà nước giao hoặc cho thuê, cải tạo đất, chống xói mòn, chống xâm thực, xây dựng, gia cố nền đất làm mặt bằng sản xuất kinh doanh;
b) Văn bản, thanh lý hợp đồng; hóa đơn, chứng từ thanh toán đối với từng khoản chi phí đã đầu tư vào đất quy định tại Điểm a Khoản này;
c) Văn bản, hợp đồng khác có liên quan đến việc đầu tư vào đất được xác lập tại thời điểm đầu tư.
3. Người có đất thu hồi không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Khoản 2 Điều này nhưng thực tế đã có đầu tư vào đất thì Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) căn cứ tình hình cụ thể tại địa phương quyết định việc xác định chi phí đầu tư vào đất còn lại.
4. Công thức tính chi phí đầu tư vào đất còn lại quy định tại Khoản 4 Điều 3 của Nghị định số 47/2014/NĐ-CP thực hiện như sau:
a) Việc xác định giá trị các khoản chi phí đầu tư vào đất còn lại phải căn cứ vào đơn giá, định mức kinh tế kỹ thuật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định;
b) Đối với khoản chi phí đầu tư vào đất mà việc đầu tư thực hiện trong nhiều lần, nhiều năm thì khi xác định chi phí đầu tư vào đất còn lại được cộng dồn chi phí của tất cả các lần, các năm đó.
Việc chuyển mục đích sử dụng từ đất nông nghiệp sang đất ở để tái định cư trong trường hợp thửa đất có nhà ở bị thu hồi còn diện tích đất nông nghiệp không được công nhận là đất ở quy định tại Khoản 5 Điều 6 của Nghị định số 47/2014/NĐ-CP được thực hiện theo quy định sau đây:
1. Việc chuyển mục đích sử dụng từ đất nông nghiệp sang đất ở để tái định cư trong trường hợp thửa đất có nhà ở bị thu hồi còn diện tích đất nông nghiệp không được công nhận là đất ở chỉ được thực hiện khi phần diện tích còn lại của thửa đất thu hồi đủ điều kiện được tách thửa theo quy định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi có đất thu hồi.
2. Trường hợp phần diện tích còn lại của thửa đất có nhà ở bị thu hồi không đủ điều kiện được tách thửa theo quy định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi có đất thu hồi thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định thu hồi hoặc người sử dụng đất được tiếp tục sử dụng phần diện tích đất còn lại theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
3. Kinh phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đối với phần diện tích đất còn lại trong thửa đất có nhà ở không đủ điều kiện được phép tách thửa khi Nhà nước thu hồi đất phải được thể hiện trong phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
1. Diện tích đất nông nghiệp thu hồi để tính hỗ trợ ổn định đời sống quy định tại Điểm b Khoản 3 Điều 19 của Nghị định số 47/2014/NĐ-CP được xác định theo từng quyết định thu hồi đất của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền, không cộng dồn diện tích đất nông nghiệp đã thu hồi của các quyết định thu hồi đất trước đó.
2. Diện tích đất nông nghiệp được hỗ trợ ổn định đời sống quy định tại Điểm a Khoản 3 Điều 19 của Nghị định số 47/2014/NĐ-CP là diện tích đất nông nghiệp do hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng trong phạm vi xã, phường, thị trấn nơi có đất thu hồi tại thời điểm có quyết định thu hồi đất, bao gồm:
a) Đất nông nghiệp có nguồn gốc được Nhà nước giao cho hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi thực hiện Nghị định số 64/CP ngày 27 tháng 9 năm 1993 của Chính phủ ban hành Bản quy định về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp; Nghị định số 85/1999/NĐ-CP ngày 28 tháng 8 năm 1999 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Bản quy định về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp và bổ sung việc giao đất làm muối cho hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài; giao đất lâm nghiệp khi thực hiện Nghị định số 02/CP ngày 15 tháng 01 năm 1994 của Chính phủ ban hành Bản quy định về việc giao đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích lâm nghiệp; Nghị định số 163/1999/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 1999 của Chính phủ về việc giao đất, cho thuê đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích lâm nghiệp; Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai;
b) Đất nông nghiệp do hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng mà hộ gia đình, cá nhân đó thuộc đối tượng đủ điều kiện được giao đất nông nghiệp theo quy định của pháp luật về đất đai nhưng chưa được giao đất nông nghiệp và đang sử dụng đất nông nghiệp do nhận chuyển nhượng, nhận thừa kế, được tặng cho, khai hoang theo quy định của pháp luật, được Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp xã) nơi có đất thu hồi xác nhận là đang trực tiếp sản xuất trên đất nông nghiệp đó;
c) Đất nông nghiệp do hộ gia đình, cá nhân nhận giao khoán đất của nông, lâm trường quốc doanh để sử dụng vào mục đích nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản (không bao gồm đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ), khi Nhà nước thu hồi mà thuộc đối tượng đang trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và có nguồn thu nhập ổn định từ sản xuất nông nghiệp trên đất đó.
3. Trường hợp hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất quy định tại Khoản 2 Điều này bị thu hồi dưới 30% diện tích đất nông nghiệp đang sử dụng mà việc thu hồi đất ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất của người thu hồi đất thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ tình hình thực tế tại địa phương quyết định biện pháp hỗ trợ khác quy định tại Điều 25 của Nghị định số 47/2014/NĐ-CP cho phù hợp.
1. Cán bộ, công chức, viên chức (đang làm việc hoặc đã nghỉ hưu, nghỉ mất sức lao động, thôi việc được hưởng trợ cấp) không thuộc đối tượng quy định tại Điểm d Khoản 1 Điều 19 của Nghị định số 47/2014/NĐ-CP nhưng đang sử dụng đất nông nghiệp do nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp theo quy định của pháp luật, khi Nhà nước thu hồi đất thì được bồi thường về đất nhưng không được hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất, không được hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm.
2. Hộ gia đình vừa có nhân khẩu là cán bộ, công chức, viên chức (đang làm việc hoặc đã nghỉ hưu, nghỉ mất sức lao động, thôi việc được hưởng trợ cấp) vừa có nhân khẩu không phải là cán bộ, công chức, viên chức nhưng đang sử dụng đất nông nghiệp vào mục đích sản xuất nông nghiệp, khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình đó thì nhân khẩu không phải là cán bộ, công chức, viên chức được hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất; được hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ điều kiện cụ thể tại địa phương quy định mức hỗ trợ cho phù hợp.
1. Việc xác định đã nộp tiền cho cơ quan, tổ chức để được sử dụng đất đối với trường hợp đất được giao không đúng thẩm quyền trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 quy định tại Điều 11 của Nghị định số 47/2014/NĐ-CP phải căn cứ vào một trong các loại giấy tờ sau đây:
a) Biên lai, phiếu thu, hóa đơn thu tiền để được sử dụng đất, thu tiền đền bù theo Quyết định số 186/HĐBT ngày 31 tháng 5 năm 1990 của Hội đồng Bộ trưởng về đền bù thiệt hại đất nông nghiệp, đất có rừng khi chuyển sang sử dụng vào mục đích khác;
b) Biên lai, phiếu thu, hóa đơn thu tiền theo quy định của Bộ Tài chính tại thời điểm thu tiền;
c) Biên lai, phiếu thu, hóa đơn hoặc các loại giấy tờ khác do Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức giao đất không đúng thẩm quyền xác lập tại thời điểm thu tiền;
d) Giấy tờ biên nhận thu tiền của Ủy ban nhân dân cấp xã, hợp tác xã hoặc của cơ quan, tổ chức giao đất không đúng thẩm quyền đã được các cơ quan, tổ chức (hoặc người đại diện) cấp cho hộ gia đình, cá nhân tại thời điểm thu tiền.
2. Trường hợp đất được giao không đúng thẩm quyền và người được giao đất đã nộp tiền để được sử dụng đất mà giấy tờ chỉ còn lưu tại cơ quan, tổ chức đã thu tiền hoặc cơ quan, tổ chức khác có liên quan thì cơ quan, tổ chức đang lưu giữ giấy tờ đó có trách nhiệm cung cấp giấy tờ đang lưu giữ cho tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng hoặc cho người sử dụng đất để tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng hoàn thiện phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
Việc tách nội dung bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thành tiểu dự án riêng và tổ chức thực hiện độc lập được thực hiện theo quy định tại Khoản 1 Điều 29 của Nghị định số 47/2014/NĐ-CP và được quy định cụ thể như sau:
1. Thời điểm tách nội dung bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thành tiểu dự án riêng là thời điểm xét duyệt hoặc chấp thuận dự án đầu tư.
2. Tiểu dự án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư sau khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt được thực hiện độc lập nhưng phải đảm bảo yêu cầu về tiến độ thực hiện dự án đầu tư.
Việc thẩm tra Khung chính sách về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư (sau đây gọi là Khung chính sách) quy định tại Khoản 2 Điều 17 của Nghị định số 47/2014/NĐ-CP được thực hiện theo quy định sau đây:
1. Trước khi trình Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định Khung chính sách, Bộ, ngành có dự án đầu tư có trách nhiệm gửi hồ sơ Khung chính sách đến Bộ Tài nguyên và Môi trường để thẩm tra. Hồ sơ gồm các tài liệu chủ yếu sau đây:
a) Văn bản đề nghị thẩm tra Khung chính sách;
b) Dự thảo Tờ trình Thủ tướng Chính phủ;
c) Dự thảo Khung chính sách;
d) Quyết định, chấp thuận chủ trương đầu tư của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
2. Trong thời hạn không quá 30 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ theo quy định, Bộ Tài nguyên và Môi trường có ý kiến thẩm tra bằng văn bản gửi cho Bộ, ngành có dự án đầu tư.
Phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư do Bộ, ngành có dự án đầu tư lập, thẩm định và phê duyệt quy định tại Khoản 3 Điều 17 của Nghị định số 47/2014/NĐ-CP gồm các nội dung chủ yếu sau đây:
1. Diện tích từng loại đất dự kiến thu hồi.
2. Dự kiến số tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất trong khu vực thu hồi đất.
3. Dự kiến số tiền bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
4. Dự kiến địa điểm, diện tích đất khu vực tái định cư hoặc nhà ở tái định cư, phương thức tái định cư.
5. Dự toán kinh phí và nguồn kinh phí thực hiện phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
6. Dự kiến tiến độ thực hiện phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
7. Dự kiến thời gian và kế hoạch di chuyển, bàn giao mặt bằng cho dự án.
Phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư phải thể hiện các nội dung nêu trên cho toàn bộ dự án và chi tiết đến từng địa phương (nếu có). Trường hợp thu hồi đất thực hiện dự án đầu tư mà phải xây dựng khu tái định cư tập trung thì trong các nội dung quy định tại Điều này phải bao gồm cả khu vực thu hồi đất để xây dựng khu tái định cư tập trung đó.
Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền thu hồi đất tại nơi có đất thu hồi có trách nhiệm thông báo thời gian, tiến độ thu hồi đất cho tổ chức, cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo đang quản lý sử dụng công trình biết để di chuyển đến địa điểm khác; thời điểm thông báo di chuyển công trình đồng thời với thời điểm thông báo thu hồi đất. Người đang quản lý sử dụng công trình có trách nhiệm di chuyển công trình, bàn giao mặt bằng đúng tiến độ.
1. Khi Nhà nước thu hồi đất của tổ chức mà bị thiệt hại về tài sản do Nhà nước giao quản lý sử dụng; phải di dời đến cơ sở mới thì được sử dụng tiền bồi thường tài sản để đầu tư tại cơ sở mới theo dự án đầu tư được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
2. Tổ chức được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, thuê đất trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê mà tiền sử dụng đất, tiền thuê đất đã nộp có nguồn sốc từ ngân sách nhà nước; tổ chức được Nhà nước giao đất không thu tiền tiền sử dụng đất, cho thuê đất trả tiền thuê đất hàng năm khi Nhà nước thu hồi đất không được bồi thường về đất. Trường hợp tổ chức phải di dời đến cơ sở mới thì được hỗ trợ bằng tiền theo dự án đầu tư được cấp có thẩm quyền phê duyệt; mức hỗ trợ tối đa không quá mức bồi thường về đất đối với đất thu hồi và do tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất chi trả.
DETAILED REGULATIONS ON COMPENSATION, SUPPORT AND RESETTLEMENT UPON LAND EXPROPRIATION
Article 3. Determination of the remaining land-related investment expense
The remaining land-related investment expense as defined in Article 3 of the Decree 47/2014/NĐ-CP dated May 15, 2014 of the Government regulating in detail compensation, support, and resettlement upon land expropriation (hereinafter referred to as the Decree No. 47/2014/NĐ-CP) shall be determined according to the following requirements:
1. Documentary evidences to show land users’ investment
2. Such documentary evidences shall include the followings:
a) Lease or lump-sum agreements, records on leveling and restoration of the land allocated or leased out by the State, land reclamation, inundation, erosion control, ground construction and reinforcement to create space for manufacturing and business premises;
b) Written contract discharge; invoices or payment vouchers for land-related investment expenses as defined in Point a of this Clause;
c) Other documents and contracts relating to funds invested in the land made at the date of investment.
3. Holders of the title to expropriated land plots do not have any of the papers as defined in Clause 2 of this Article, but have actually made investment in the land, the People’s Committees of central-affiliated cities and provinces (hereinafter referred to as the province-level People’s committee) shall determine the remaining land-related investment expense in reliance on specific circumstances of the locality under their management.
4. The remaining land-related investment expense as defined in Clause 4, Article 3 of the Decree 47/2014/NĐ-CP shall be calculated according to the following formula:
a) Determination of the remaining land-related investment expense should be based on unit prices, economic and technical norms stipulated by competent agencies;
b) In case investment in the land has been made a number of times or years, determination of the remaining land-related investment expense shall be done by accumulation of all the expenses paid in such periods or years.
Article 4. Relocation on the remaining inhabited parcel subject to expropriation by the State
Conversion of use purpose from agricultural land into inhabited land for relocation, in case the inhabited parcel is expropriated and the piece of agricultural land is not recognized as inhabited land as defined in Clause 5, Article 6 of the 47/2014/NĐ-CP, shall conform to the following regulations:
1. Such conversion shall be permitted only if/ on conditions that Remaining area of the expropriated parcel satisfies regulatory requirements for partition according to the regulations prescribed by the People’s committee of the province where that expropriated land plot is located.
2. In case the remaining inhabited parcel does not meet requirements for plot partitioning according to the regulations prescribed by the People’s committee of a province where the expropriated land is located, competent agencies shall have authority to expropriate such parcel or land users may be entitled to continue to use the remaining area according to the land-use planning.
3. Expenditures on compensation, support and resettlement with respect to the remaining inhabited parcel which does not meet the requirement for plot partitioning upon expropriation by the State must be specified in the plan for compensation, support and resettlement.
Article 5. Determination of agricultural land acreage for the purpose of calculating life stabilization support upon expropriation
1. Determination of agricultural land acreage for the purpose of calculating support in living stabilization as defined in Point b, Clause 3, Article 19 of the Decree 47/2014/NĐ-CP shall be done according to expropriation decision made by the People’s committee within their delegated authority without accumulation of land areas previously expropriated.
2. Area of agricultural land approved for support in living stabilization as defined in Point a, Clause 3, Article 19 of the Decree 47/2014/NĐ-CP means the area of land used by households and individuals within a commune, ward and town where expropriation takes place, including:
a) Agricultural land originally allocated by the State to households and individuals for agricultural production under the Decree No. 64/CP dated September 27, 1993 of the Government regulating allocation of agricultural land to households and individuals for long-term and stable agricultural production; The Decree No. 85/1999/NĐ-CP dated August 28, 1999 of the Government amending and supplementing the Decree No. 64/CP and allocation of agricultural land to households for long-term salt production; allocation of forestland under the Decree No. 02/CP dated January 15, 1994 of the Government regulating allocation of forestland to organizations, households and individuals for long-term forest production; The Decree No. 163/1999/NĐ-CP dated November 16, 1999 of the Government on allocation and lease of forestland to organizations, households and individuals for long-term forest production; The Decree No. 181/2004/NĐ-CP dated October 29, 2004 of the Government on enforcement of the Law on Land;
b) Agricultural land used by households and individuals who are eligible to be allocated a piece of agricultural land under the Law on Land but have not been allocated yet and currently use such agricultural land as receivers of transferred, disposed, gifted and reclaimed land according to the law and the confirmation by the People’s committee of communes, wards and towns where such agricultural land is currently used for production activities by the holders of these to-be-expropriated pieces;
c) Agricultural land transferred from state-run farm and plantation to households and individuals for agricultural, forest and aquaculture production (excluding specialized forestland, protective forestland) who earn stable incomes from agricultural and forest production developed on such land at the date of expropriation.
3. In case households and individuals as defined in Clause 2 of this Article who have their agricultural land being expropriated below 30% and such expropriation has created certain impacts on their living and production, the province-level People’s committee shall rely on actual circumstances in the locality to decide other specific supporting measures according to the provisions set out in Article 25 of the Decree No. 47/2014/NĐ-CP.
Article 6. Compensation and support for expropriation of agricultural land currently used by officials and civil servants (who are entitled to allowance working or retired on a pension, retired as a result of loss of capacity for work, retired on redundancy payments)
1. Officials and civil servants (who are still working or retired, retired as a result of loss of capacity for work, retired on redundancy allowance) that are not the entities defined in Point d, Clause 1, Article 19 of the Decree 47/2014/NĐ-CP but currently use the land after transfer of land use right under the law upon expropriation shall receive compensation in the form of land but receive no support in living and production stabilization, training, occupational change and job seeking.
2. In case households population of which include with and without officials and civil servants (still working or retired on a pension, retired as a result of a loss of capacity for work, retired on redundancy payments) and currently use the land for agricultural production, upon expropriation, members who are not officials and civil servants shall get support in living and production stabilization, training, occupational change and job seeking. The province-level People’s committee shall rely on particular conditions in the locality to decide appropriate support.
Article 7. Documents determining payment of land levies before July 01, 2004 with respect to allocation of land ultra vires
1. Determination of payment of land levies to agencies, organizations before July 01, 2004 with respect to allocation of land beyond ultra vires according to the provisions set out in Article 11 of the Decree No. 47/2014/NĐ-CP shall be based on one of the following papers:
a) Invoices, receipts of land levies, compensation for expropriation under the Decision No. 186/NĐBT dated May 31, 1990 of the Council of Ministers regulating compensation for losses caused to agricultural land and forestland upon conversion into other purposes.
b) Invoices and receipts made at the time of collection of money as stipulated by the Ministry of Finance;
c) Invoices and receipts and other papers issued at the time of collection of money and confirmed by the People’s committee of the commune or agencies, organizations that allocate land ultra vires;
d) Receipts issued to households and individuals by the People's committee of the commune, the cooperative, or the organization that allocates land ultra vires.
2. In case land is allocated ultra vires and papers concerning payment of land levies are kept in the organization that collects money or other relevant organizations, such organization shall be responsible for providing such papers to organizations charged with the implementation of compensation, site clearance or to land users for the preparation of compensation and site clearance and completion of plan for compensation, support and resettlement.
Article 8. Division of compensation, support and resettlement into sub-projects
Division of compensation, support and resettlement into sub-projects is done according to the provisions set out in Clause 1, Article 29 of the Decree No.47/2014/NĐ-CP and stipulated as follows:
1. The date for division of compensation, support and resettlement into sub-projects means the date of review or approval of the investment project.
2. Sub-projects upon approval shall be done independently and ensure progress of the investment project.
Article 9. Appraisal of policy framework for compensation, support and resettlement
Appraisal of the policy framework for compensation, support and resettlement (hereinafter referred to as the policy framework) as defined in Clause 2, Article 17 of the Decree No.47/2014/NĐ-CP shall be done as follows:
1. Before making submission to the Prime Minister for consideration and decision about the policy framework, related ministries and departments shall be responsible for making submission of the policy framework to the Ministry of Natural Resources and Environment for appraisal. The documents shall comprise:
a) Written request for appraisal of the policy framework;
b) Draft statement to be submitted to the Prime Minister;
c) Draft policy framework;
d) Decision and approval of investment policy by competent agencies.
2. Within 30 days since receipt of adequate documents as stipulated, the Ministry of Natural Resources and Environment shall issue appraising comments in writing to the related Ministries and Departments.
Article 10. Content of the plan for compensation, support and resettlement to be established, appraised and approved by related Ministries and Departments
Plan for compensation, support and resettlement to be established by the Ministries and Departments as stipulated in Clause 3, Article 17 of the Decree No.47/2014/NĐ-CP comprise the following issues:
1. Area of individual types of land to be expropriated
2. Planned number of organizations, households and individuals that use the land in the area subject to expropriation.
3. Planned amount of compensation, support and resettlement.
4. Planned location and area of resettlement area, resettlement houses and manner of settlement
5. Budget estimates and sources of expenditures for the implementation of the plan for compensation, support and resettlement.
6. Planned progress of the plan for compensation, support and resettlement
7. Planned time, movement, transfer of premises
Plan for compensation, support, and resettlement should show all the aforesaid issues and detail individual localities (if any). In case the expropriation is for the construction of a concentrated resettlement area, the issues defined in this Article shall include the area expropriated for the construction of the concentrated resettlement area.
Article 11. Movement of land linked properties used by organizations, residential community and religious establishments upon expropriation
The People’s Committee of competent authorities that executes land expropriation in the area subject to expropriation shall be responsible for making notification to organizations, residential community and religious establishments that currently use the properties for movement to other places; notification of movement of properties shall coincide with the notification of expropriation. Persons that are using the properties shall be responsible for moving the properties and transferring the premises as scheduled.
Article 12. Organizations whose land is expropriated without compensation
1. Upon expropriation, any organization that suffers losses caused to their properties assigned for management by the State and is forced to move to new premises shall be permitted to use the compensation for re-investment in the new premises according to the investment project approved by competent authorities.
2. Upon expropriation, any organization that uses land allocated with land levies or land leased out with land rent paid once for the entire period of lease and such land levies and land rent originate from the state budget, or any organization that uses land allocated without land levies or leased out with annual land rent shall not be compensated in the form of land. Any organization that moves to new premises shall get pecuniary support according to the investment project approved by competent authorities; maximum support shall not exceed the compensation in the form of land with respect to the land subject to expropriation and paid by organizations, individuals allocated to or leased out to by the State.
Article 13. Appraisal of the plan for compensation, support and resettlement
The Services of Natural Resources and Environment shall be responsible for presiding over and collaborating with relevant agencies on appraising the plan for compensation, support, and resettlement before making submission to the People’s committee of the same level for approval.