Chương 2 Nghị định 79-NgĐ/NH: Các loại cho vay
Số hiệu: | 79-NgĐ/NH | Loại văn bản: | Nghị định |
Nơi ban hành: | Ngân hàng Nhà nước | Người ký: | Lê Viết Lượng |
Ngày ban hành: | 23/04/1958 | Ngày hiệu lực: | 23/04/1958 |
Ngày công báo: | 02/07/1958 | Số công báo: | Số 24 |
Lĩnh vực: | Doanh nghiệp, Tiền tệ - Ngân hàng | Tình trạng: | Không còn phù hợp |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
Ngân hàng quốc gia cho các hợp tác xã sản xuất thủ công nghiệp vay phần vốn luân chuyển theo kế hoạch trên số vốn luân chuyển tự có của hợp tác xã thể hiện trong bảng kế hoạch thu chi đã được toàn ban quản trị lập ra và được cơ quan quản lý sản xuất thủ công nghiệp duyệt y, để giải quyết nhu cầu vốn sản xuất và lưu thông thường xuyên.
Ngân hàng cho các hợp tác xã sản xuất thủ công nghiệp vay để dự trữ vật tư trên số vốn luân chuyển tự có theo mức kế hoạch do ban Quản trị dự trù và được cơ quan Quản lý sản xuất thủ công nghiệp tỉnh hay thành phố đồng ý. Nếu sau đó đại hội xã viên điều chỉnh kế hoạch xin vay ít đi thì Ngân hàng chỉ cho vay theo kế hoạch được điều chỉnh lại.
Các hợp tác xã sản xuất thủ công nghiệp trước hết phải sử dụng hợp lý hết số vốn luân chuyển tự có, sau đó còn thiếu bao nhiêu Ngân hàng mới cho vay.
Ngân hàng cho các hợp tác xã sản xuất thủ công nghiệp vay các chi phí sản xuất trực tiếp có tính chất thường xuyên trên mức vốn luân chuyển (lưu động) tự có theo kế hoạch đã định trước.
Đối với các hợp tác xã sản xuất công nghiệp thời vụ không sản xuất ít, phải làm nghề khác để sinh sống Ngân hàng quốc gia không cho vay chi phí trực tiếp trong những thời kỳ đình chỉ sản xuất.
Khi cho vay Ngân hàng áp dụng việc tính mức cho vay theo chênh lệch thu chi tài vụ trong từng thời kỳ nhất định (qúy, tháng) xét riêng từng khoản trong mức độ đó để cho vay.
Ngân hàng đối chiếu với kế hoạch thu chi xem hợp tác xã đó dành bao nhiêu vốn tự có vào mục đích này. Hợp tác xã phải thực tế có số vốn đó và Ngân hàng cho vay phần còn thiếu để thực hiện kế hoạch.
Trong khi tính Ngân hàng sẽ loại ra những khoản dự trữ và thu chi không hợp lý như sau:
a) Dự trữ vật tư không đúng kế hoạch, nhiều qúa mức kế hoạch đã định, quy cách phẩm chất xấu.
b) Các hàng hóa đã nhận tiền bán mà chưa giao cho người mua.
c) Các chi phí về trả lương ăn cho công nhân qúa với kế hoạch dự trù đã được hợp tác xã cấp duyệt y.
Khi yêu cầu vay vốn hợp tác xã sản xuất thủ công nghiệp phải làm đầy đủ các giấy tờ sau đây nộp cho Ngân hàng trước 10 ngày:
a) 1 đơn xin vay tiền theo mẫu số 1.
b) 2 bản khế ước vay tiền theo mẫu số 2.
c) 1 bảng kê vật tư thực tế tồn kho, các vật tư mua chưa trả tiền hoặc mua đã trả tiền nhưng chưa vận chuyển đến. Ngoài ra nếu còn tiền mặt thì cũng phải ghi rõ theo mẫu số 3.
Ngân hàng sẽ căn cứ vào các giấy tờ trên đây để xem xét và nếu hợp tác xã sản xuất thủ công nghiệp vay lần đầu tiên, Ngân hàng quốc gia sẽ cử cán bộ đi về điều tra tận nơi và giúp đỡ ý kiến cho hợp tác xã (nếu cần thiết) sau đó mới quyết định việc cho vay.
Việc ấn định thời gian cho vay căn cứ vào kế hoạch sử dụng vật tư được vay và kế hoạch tiêu thụ, nghĩa là căn cứ vào thời hạn cụ thể giao hàng theo các hợp tác xã đã ký kết với người mua. Khi nhận được tiền hợp tác xã sản xuất thủ công nghiệp phải trả nợ dần cho Ngân hàng quốc gia.
Trường hợp hàng của hợp tác xã tiêu thụ thường xuyên ra thị trường không có hợp đồng thì đặt kế hoạch trả nợ dần tùy theo khả năng tiêu thụ từng tuần kỳ 15 ngày hay 30 ngày.
Trong những trường hợp hợp tác xã sản xuất thủ công nghiệp bán hàng nhưng chưa thu được tiền hoặc mua hàng phải đặt tiền trước, vốn của hợp tác xã bị thiếu hụt, Ngân hàng có thể căn cứ vào các chứng từ mua bán hàng để cho vay bù đắp số vốn luân chuyển đang nằm trong các thanh toán.
Về hình thức cho vay này sẽ áp dụng thể lệ cho vay thanh toán của Ngân hàng Quốc gian Việt Nam đối với các khu vực kinh tế quốc doanh và hợp tác xã.
Ngân hàng cho hợp tác xã sản xuất thủ công nghiệp vay về nhu cầu tạm thời để dữ trữ các nguyên nhiên vật liệu, thành phẩm và bán thành phẩm ngoài kế hoạch do những nguyên nhân khách quan, trong những trường hợp sau:
a) Do người cung cấp, giao hàng không đúng kỳ hạn hợp đồng vì chuyên chở khó khăn.
b) Do phải thay đổi chương trình sản xuất hoặc cần cải tiến chất lượng sản phẩm hay mở rộng sản xuất.
c) Do hoàn thành trước thời hạn đặt hàng, hoặc vượt kế hoạch (nếu là bán thành phẩm thì phải bảo đảm đặt mức kế hoạch về sản xuất thành phẩm).
d) Hoặc do các nguyên nhân khách quan khác chứ không phải do công tác xấu của hợp tác xã.
Tình trạng hiệu lực: Không còn phù hợp