Nghị định 67-VNVNT năm 1958 về thể lể cho vay ngắn hạn đối với các nông trường quốc doanh, lâm khẩn quốc doanh và biện pháp cho vay ngắn hạn đối với hợp tác xã sản xuất nông nghiệp do Tổng giám đồc Ngân hàng Quốc gia ban hành.
Số hiệu: | 67-VNVNT | Loại văn bản: | Nghị định |
Nơi ban hành: | Ngân hàng Nhà nước | Người ký: | Lê Viết Lượng |
Ngày ban hành: | 30/01/1958 | Ngày hiệu lực: | 30/01/1958 |
Ngày công báo: | 05/03/1958 | Số công báo: | Số 7 |
Lĩnh vực: | Doanh nghiệp, Tiền tệ - Ngân hàng | Tình trạng: | Không còn phù hợp |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
NGÂN HÀNG QUỐC GIA VIỆT NAM Số: 67-VNVNT |
VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA Hà Nội, ngày 30 tháng 01 năm 1958 |
BAN HÀNH THỂ LỂ CHO VAY NGẮN HẠN ĐỐI VỚI CÁC NÔNG TRƯỜNG QUỐC DOANH, LÂM KHẨN QUỐC DOANH VÀ BIỆN PHÁP CHO VAY NGẮN HẠN ĐỐI VỚI HỢP TÁC XÃ SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
TỔNG GIÁM ĐỐC NGÂN HÀNG QUỐC GIA VIỆT NAM
Để thi hành Nghị định số 114-TTg ngày 09-04-1957 của Thủ tướng Chính phủ về việc thanh toán giữa các cơ quan và xí nghiệp Nhà nước với nhau và thi hành Quyết định số 130-TTg ngày 04-04-1957 của Thủ tướng Chính phủ về thi hành từng bước chế độ hạch toán kinh tế để tăng cường việc quản lý kinh doanh của xí nghiệp quốc doanh;
Căn cứ vào công văn số 433-TN ngày 28-01-1958 của Thủ tướng Chính phủ đồng ý về nội dụng các bản thể lệ cho vay ngắn hạn đối với nông trường quốc doanh, lâm khẩn quốc doanh và bản biện pháp cho vay ngắn hạn đối với hợp tác xã sản xuất nông nghiệp,
NGHỊ ĐỊNH:
Điều 1. – Nay ban hành bản thể lệ cho vay ngắn hạn đối với các nông trường quốc doanh, lâm khẩn quốc doanh và biện pháp cho vay ngắn hạn đối với Hợp tác xã sản xuất nông nghiệp của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam kèm theo nghị định này.
Điều 2. – Thể lệ và biện pháp này được áp dụng từ ngày ban hành.
Điều 3. – Các ông Chánh văn phòng, Giám đốc Vụ, ở Sở Ngân hàng trung ương và các ông Trưởng chi nhánh Ngân hàng toàn quốc chịu trách nhiệm thi hành nghị định này.
|
TỔNG GIÁM ĐỐC |
CHO VAY NGẮN HẠN ĐỐI VỚI CÁC NÔNG TRƯỜNG QUỐC DOANH
VÀ CÁC XÍ NGHIỆP NÔNG NGHIỆP KHÁC
– Ngân hàng quốc gia Việt Nam cho vay ngắn hạn các nông trường quốc doanh nhằm mục đích giải quyết nhu cầu vốn luân chuyển cho các nông trường hoàn thành tốt kế hoạch Nhà nước về mọi mặt. Đồng thời thông qua việc cho vay ngắn hạn, Ngân hàng làm nhiệm vụ kiểm soát bằng đồng tiền, theo dõi, đôn đốc, kiểm tra giúp đỡ các nông trường sử dụng hợp lý và tiết kiệm vốn, cải tiến kỹ thuật, hạ giá thành sản xuất, tích lũy vốn cho Nhà nước, củng cố và mở rộng chế độ hạch toán kinh tế.
– Ngân hàng quốc gia Việt Nam cho vay ngắn hạn các nông trường quốc doanh theo những nguyên tắc sau đây:
1) Các nông trường chỉ được dùng vốn vay của Ngân hàng vào những mục đích nhất định, cố định trước trong kế hoạch và chỉ được nhận vốn vay theo mức thực hiện kế hoạch.
2) Các nông trường vay vốn của Ngân hàng phải hoàn trả lại số tiền vay theo thời hạn nhất định, tối đa không quá 12 tháng.
3) Các nông trường vay vốn của Ngân hàng phải có vật tư tương đương đảm bảo số tiền vay.
– Các nông trường vay vốn của Ngân hàng phải là một đơn vị đã thi hành hạch toán kinh tế nghĩa là:
1) Phải có kế hoạch sản xuất, kỹ thuật tài vụ.
2) Phải có kế toán độc lập, bảng cân đối tài sản.
3) Phải có tài khoản thanh toán ở Ngân hàng.
4) Phải được cấp trên (Bộ, Sở chủ quản) cho quyền trực tiếp vay vốn của Ngân hàng.
5) Phải được Chính phủ cấp vốn luân chuyển riêng (gọi là vốn lưu động tự có tức là mức tiêu chuẩn vốn luân chuyển).
– Ngân hàng cho vay dự trữ vật tư theo mùa trên mức tiêu chuẩn trong kế hoạch, nghĩa là dựa theo kế hoạch dự trữ của nông trường đã được Chính phủ phê chuẩn mà Ngân hàng cho các nông trường vay vốn để giải quyết những nhu cầu về dự trữ có tính chất thời vụ khi mà số dư vật tư vượt trên mức tiêu chuẩn trong phạm vi kế hoạch.
– Để tính số vốn xin vay, các nông trường căn cứ vào số dư dự trữ đầu quý kế hoạch và kế hoạch mua vào chi ra trong quý để tính số dư dự trữ cuối quý. Sau khi trừ đi các khoản vốn định mức và vốn coi như tự có để lập kế hoạch vay vốn trong quý đó, (xem mẫu số 5 thể lệ cho vay công nghiệp quốc doanh).
– Khi vay vốn của Ngân hàng, nông trường phải trình xuất những số liệu về dự trữ vật tư cho từng đối tượng, nêu rõ số hàng tồn kho, số hàng trên đường đi và cả những chứng từ về số vật tư thuộc phần chưa trả tiền.
Trường hợp xí nghiệp cần tiền trước để mua vật tư thì phải trình xuất hợp đồng, Ngân hàng sẽ căn cứ vào hợp đồng mà cho vay và sẽ kiểm tra về tồn kho sau khi thực hiện.
– Khi cho vay Ngân hàng tính số vốn thuộc mức tiêu chuẩn của xí nghiệp và đối chiếu với số dư vật tư trong bảng chứng từ đã trình xuất, Ngân hàng sẽ cho vay số dư vật tư trên mức tiêu chuẩn trong phạm vi mức quy định ghi trước trong kế hoạch cho vay của Ngân hàng về đối tượng đó.
Khi xét các số liệu vật tư trình xuất, Ngân hàng loại ra khỏi đảm bảo các vật tư sau đây:
- Vật tư đã hỏng, không dùng được.
- Vật tư thừa đã lâu không dùng đến.
- Vật tư đã thu tiền mà chưa giao cho người mua.
- Vật tư mất phẩm chất.
- Vật tư dự trữ trái với các quy định của Chính phủ.
Khi tính các vật tư dự trữ làm đảm bảo nợ vay của Ngân hàng, Ngân hàng tính theo giá trị thực sự (nghĩa là theo giá mua các vật tư cộng thêm các chi phí phụ thuộc theo kế hoạch) nếu giá trị thực sự dưới giá trị kế hoạch, và tính theo giá trị kế hoạch nếu giá trị thực sự cao hơn giá trị kế hoạch. Khi giá trị thực tế cao hơn giá trị kế hoạch, nông trường xin điều chỉnh đã được cấp trên xét duyệt thì Ngân hàng sẽ tín theo giá trị đã điều chỉnh.
– Thời hạn cho vay dự trữ vật tư trên múc tiêu chuẩn quy định dựa theo tình hình thực tế của sự tăng giảm vật tư theo kế hoạch. Khi mà số dư vật tư đảm bảo rút xuống bao nhiêu (nghĩa là đã đem dùng) thì Ngân hàng sẽ thu hồi nó về bấy nhiêu. Thời hạn cho vay như vậy không được quá một kỳ luân chuyển của vật tư, và không được ngoài niên độ kế hoạch. Trường hợp cần dự trữ vật tư cho năm tới, kế hoạch đã được cấp trên xét duyệt thì áp dụng theo điều 29 khoản 4.
– Muốn vay vốn của Ngân hàng về dự trữ vật tư trên mức tiêu chuẩn, nông trường phải làm đầy đủ các giấy tờ sau đây và nộp cho Ngân hàng trước 7 ngày (tính ngày Ngân hàng nhận được).
- 1 bảng kế hoạch xin vay vốn trong quý (mẫu số 5).
- 2 bản đơn xin vay (mẫu số 1).
- 1 bản kê dự trữ vật tư theo từng đối tượng tính thành tiền (mẫu số 3).
- 2 bản giấy nhận nợ có kỳ hạn trả (mẫu số 2).
(Ba bản mẫu biểu trên (trừ bảng kế hoạch vay vốn) xem mẫu biểu thể lệ cho vay công nghiệp quốc doanh, mẫu số 1, 3, 2).
– Khi đã ấn định mức cho vay Ngân hàng sẽ quyết định việc sử dụng số tiền vay. Nếu nông trường không nợ nần thì toàn bộ số tiền vay sẽ chuyển qua tài khoản thanh toán của nông trường. Nếu nông trường có nợ chưa trả thì Ngân hàng sẽ dùng một phần tiền vay đó để trả nợ theo giấy đời nợ của đối tượng đã cho vay, phần còn lại sẽ chuyển qua tài khoản thanh toán.
– Ngân hàng cho các nông trường vay chi phí về trồng trọt bao gồm các công tác: cấy, giao, chăm bón, sản xuất phân bón, bảo vệ hoa mầu non, gặt hái, chế biến, các chi phí chăm sóc súc vật lao động, các chi phí sửa chữa thường xuyên, các chi phí quản lý xí nghiệp và chi phí chung.
Trong điều kiện hiện nay của nông trường, Ngân hàng tạm thời cho vay các chi phí về chế biến các sản phẩm (như chế biến cà phê, xay lúa làm gạo v.v...) cũng trong loại cho vay chi phí trồng trọt. Khi nông trường đã có điều kiện tổ chức hạch toán riêng biệt Ngân hàng sẽ cho vay riêng thành một loại cho vay chế biến.
– Để tính số vốn xin vay chi phí về trồng trọt và chế biến, các nông trường căn cứ vào số dư đầu quý và những chi phí cho các công tác trồng trọt, chế biến phải chi dùng trong kế hoạch của quý xin vay, trừ đi các sản phẩm bán ra trong quý theo giá thành sản xuất, trừ đi mức tiêu chuẩn về thành phẩm và bán thành phẩm và các nguồn vốn coi như tự có của nông trường.
Ngân hàng cho vay những chi phí sản xuất cho những sản phẩm thu hoạch trong niên độ. Những nông trường sản xuất có tính chất thời vụ, những vụ sản xuất năm nay nối tiếp qua năm sau, cuối năm chưa kịp thu hoạch để trả nợ. Trường hợp trên Ngân hàng có thể cho vay nhưng cuối năm phải kết toán và chuyển các món nợ còn lại qua năm sau. (mẫu số 6, 8).
Kế hoạch xin vay vốn phải ghi rõ riêng những chi phí về vật tư dự trữ sẽ dùng trong quý.
– Muốn vay vốn của Ngân hàng, nông trường phải trình xuất những số liệu sau đây:
- Bảng chi phí về trồng trọt và chế biến trong quý riêng cho từng công tác nói rõ sản phẩm đang sản xuất, đang chế biến, sản phẩm sẽ sản xuất trong quý.
- Bảng tiêu thụ sản phẩm nói rõ sản phẩm đã thu hoạch trong kho tàng, sản phẩm sẽ thu hoạch trong quý và kế hoạch bán ra trong quý về các sản phẩm đó.
- Bảng kế hoạch sử dụng các vật tư dự trữ vào trong quý.
– Ngân hàng sẽ tính đảm bảo số tiền nợ vay, căn cứ vào giá trị của các loại sản phẩm đang sản xuất trên mức tiêu chuẩn. Nếu giá trị đó vượt quá giá thành sản xuất kế hoạch, Ngân hàng sẽ dựa vào giá thành sản xuất ghi trong kế hoạch để tính. Ngân hàng sẽ tính số vốn thuộc mức tiêu chuẩn của nông trường đối chiếu với số dư theo sự tính toán đảm bảo nói trên mà cho vay chi phí trồng trọt trên mức tiêu chuẩn trong kế hoạch và trong mức quy định kế hoạch cho vay của Ngân hàng về đối tượng đó.
Như vậy khi tính để cho vay, Ngân hàng tính bao gồm cả chi phí về trực tiếp và gián tiếp, nếu gián tiếp phí đã được phân bổ cho giá thành các loại sản phẩm.
Về chi phí đợi phân bổ Ngân hàng không cho vay mà chỉ cho vay sau khi đã phân bổ.
– Sau khi đã ấn định mức cho vay Ngân hàng sẽ thu nợ các khoản đã cho vay về dự trù vật tư căn cứ vào số dự trù vật tư của nông trường đem chi dùng trong quý. Số tiền còn lại Ngân hàng sẽ chuyển vào tài khoản thanh toán của nông trường.
Việc trả nợ các khoản đã cho vay về dự trữ vật tư bằng cách điều chỉnh giữa hai loại cho vay chi phí sản xuất và dự trữ vật tư sẽ nói rõ trong điều 29 ở sau.
– Các nông trường muốn vay vốn của Ngân hàng cần phải làm các giấy tờ sau đây gửi đến Ngân hàng trước 7 ngày (kể từ ngày Ngân hàng nhận được:
1) Một bản kế hoạch vay vốn chi phí trồng trọt (mẫu số 6).
2) Hai bản đơn xin vay vốn về chi phí trồng trọt và chế biến (theo mẫu số 1 ở điều 10).
3) Một bản kê các phí cho các loại trồng trọt và chế biến (mẫu số 8).
4) Giấy nhận nợ có kỳ hạn trả nợ (mẫu số 2 điều 10).
– Trường hợp sản phẩm sản xuất ra cần phải để dự trù theo kế hoạch đã được duyệt (thức ăn cho súc vật, phân bón). Ngân hàng sẽ căn cứ vào số dư vật tư dự trữ tăng lên mà cho vay về dự trữ vật tư nếu số dư đó trên mức tiêu chuẩn dự trữ, còn nói về cho vay chi phí trồng trọt Ngân hàng sẽ thu hồi về bằng cách điều chỉnh tài khoản cho vay chi phí trồng trọt qua cho vay về dự trữ vật tư.
– Ngân hàng cho vay chi phí về chăn nuôi trên mức tiêu chuẩn trong kế hoạch dưới hình thức cho vay về chênh lệch giá trị của đàn súc vật nuôi cho lớn và cho béo, khi giá trị vượt trên mức tiêu chuẩn. Sự chênh lệch giá trị đó tạo nên bởi:
- Sự tăng gia về khối lượng do sản phẩm của đàn súc vật sinh sản tăng lên chuyển sang đàn súc vật nuôi cho béo và cho lớn hoặc do nông trường mua thêm ở ngoài vào theo kế hoạch đã định.
- Sự tăng gia về trọng lượng do nuôi lợn thêm lên.
Như vậy tức là đối với chi phí chăn nuôi các đàn súc vật sinh sản mà sản phẩm không bù đắp lại trong năm phải do Bộ Tài chính cấp Ngân hàng không cho vay, trừ trường hợp lúc nào Bộ Nông lâm có công văn chính thức đảm bảo bù lỗ thì Ngân hàng có thể cho vay trong thời gian Bộ Tài chính chưa kịp bù lại.
– Để tính mức vốn xin vay chi phí về chăn nuôi, các nông trường phải căn cứ vào số dư đàn súc vật chăn nuôi cho lớn và cho béo đầu quý kế hoạch, chênh lệch tăng giảm giá trị đàn súc vật đó (số lượng đàn súc vật có bản chuyển sang cộng mua thêm ngoài cộng sự lớn thêm của đàn súc vật nuôi cho lớn và cho béo) trừ đi số bán ra trong quý theo giá thành sản xuất, trừ đi mưc tiêu chuẩn về bán thành phẩm sức vật còn nhỏ nuôi cho lớn và cho béo (theo mẫu số 7).
– Nông trường quốc doanh muốn vay vốn cho Ngân hàng phải trình xuất những số liệu sau đây:
- Bản chi phí về chăn nuôi trong quý, nói rõ chi phí cho súc vật đẻ, súc vật lấy sữa, súc vật nuôi cho béo và nuôi cho lớn.
- Bản tăng gia giá trị trọng lượng, khối lượng và kể cả giá trị súc vật mua ở ngoài của súc vật nuôi cho lớn và cho béo theo giá thành kế hoạch.
- Bản tiêu thụ sản phẩm trong quý nói rõ sản phẩm bán ra, sản phẩm để lại chi dùng và sản phẩm chuyển qua vốn cơ bản (bò, trâu, ngựa).
- Bản kế hoạch sử dụng vật tư dự trữ trong suốt quý.
– Để tính làm đảm bảo nợ vay của Ngân hàng sẽ căn cứ vào giá trị của các loại sản phẩm đang sản xuất trên mức tiêu chuẩn như các súc vật nuôi cho lớn và cho béo, súc vật mua ở ngoài, các sản phẩm thịt, sữa (nếu giá trị đó vượt trên giá thành sản xuất trong kế hoạch thì chỉ tính theo giá thành sản xuất ghi trong kế hoạch). Đối với súc vật mua ở ngoài nuôi cho béo tính theo giá trị kế hoạch cộng thêm chi phí chuyên chở không tính theo giá mua thực sự ngoài thị trường. Trừ trường hợp cấp trên điều chỉnh lại giá kế hoạch thì Ngân hàng sẽ căn cứ vào giá kế hoạch mới để tính.
Khi cho vay Ngân hàng sẽ tính số vốn thuộc mức tiêu chuẩn của nông trường đối chiếu với số dư đảm bảo theo sự tính toán trên mà cho vay chi phí chăn nuôi trên mức tiêu chuẩn trong phạm vi kế hoạch và trong mức quy định kế hoạch cho vay của Ngân hàng về đối tượng đó.
– Sau khi ấn định mức cho vay Ngân hàng sẽ thu hồi nợ khoản cho vay dự trữ vật tư căn cứ vào vật tư dự trữ mà nông trường đã đem dùng trong quỹ bằng cách điều chỉnh từ tài khoản cho vay dự trữ qua tài khoản cho vay chi phí chăn nuôi (cách điều chỉnh xem điều 30) Ngân hàng sẽ chuyển phần còn lại của số tiền vay đó qua tài khoản thanh toán của nông trường.
– Thời hạn cho vay chi phí chăn nuôi căn cứ vào kế hoạch bán ra các loại sản phẩm và kế hoạch chuyển súc vật còn nhỏ nuôi cho lớn sang vốn cơ bản mà ấn định nhưng không được quá 12 tháng. Nếu trong quý xảy ra tình trạng giảm giá trị do toi dịch gây ra thì Ngân hàng thu hồi vốn đó về trước kỳ hạn theo mức độ giảm sút. Trừ trường hợp bộ Tài chính có công văn chính thức đảm bảo bù lỗ thì Ngân hàng có thể đình thu hồi số vốn giảm sút đó.
– Khi xin vay nông trường phải làm những giấy tờ cần thiết sau đây gửi đến Ngân hàng trước 7 ngày khi bắt đầu vay.
- Một bản tính kế hoạch vay vốn chi phí chăn nuôi (mẫu số 7).
- Hai bản đơn xin vay vốn về chi phí chăn nuôi (theo mẫu số 1 nói trên).
- Một bản kê các chi phí chăn nuôi các loại súc vật và chế biến (mẫu số 3).
- Một bản nhận nợ có ký hạn trả (theo mẫu số 2 nói trên).
– Thể theo trình độ hạch toán kinh tế của nông trường, Ngân hàng tạm thời căn cứ vào bản kế hoạch do nông trường trình xuất để tính toán cho vay các chi phí trồng trọt và chăn nuôi. Sau khi nhận tiền vay nông trường phải trình xuất các chứng từ chi phí về các đối tượng cho vay mỗi tháng một lần để Ngân hàng có thể kiểm tra đảm bảo. Nếu sau khi kiểm tra, thấy số tiền đã vay không đủ vật tư đảm bảo, Ngân hàng sẽ thu hồi vốn về bằng cách trích từ tài khoản thanh toán để trả nợ Ngân hàng. Nếu tài khoản thanh toán không có tiền Ngân hàng sẽ ghi vào tài khoản nợ quá hạn.
– Việc điều chỉnh giữa hai loại cho vay "chi phí sản xuất và dự trữ vật tư" làm như sau:
1) Các nông trường căn cứ vào số dư vật tư trên mức tiêu chuẩn làm đảm bảo cho số tiền vay và tình hình sử dụng vật tư. Ngân hàng sẽ căn cứ số liệu, báo cáo về tình hình sử dụng và thay đổi vật tư (mẫu số 11) của nông trường gửi đến xét và điều chỉnh. Sau khi điều chỉnh Ngân hàng sẽ báo cho nông trường được vay biết để điều chỉnh sổ sách kế toán (từ tài khoản "Nợ" cho vay dự trữ qua "Nợ" chi phí trồng trọt hoặc chăn nuôi hay ngược lại.
2) Khi nhận được bản báo cáo về sự thay đổi, dự trữ vật tư Ngân hàng sẽ làm bảng tính toán, nếu vật tư dự trữ trên mức tiêu chuẩn được dùng hoàn toàn vào chi phí sản xuất tiến hành điều chỉnh toàn bộ nếu vật tư dùng một phần vào chi phí sản xuất thì điều chỉnh một phần, nếu không sử dụng vật tư vào chi phí sản xuất thì không điều chỉnh.
3) Mỗi nông trường phải mở ở nơi Ngân hàng cho vay tiền khoản về "Tình hình thay đổi dự trữ vật tư" trong tài khoản dự trữ vật tư.
4) Việc điều chỉnh giữa hai loại cho vay "Chi phí dự trự và chi phí sản xuất" chỉ làm trong phạm vi niên độ kế hoạch, nghĩa là không được điều chỉnh số nợ cho vay năm trước sang nợ năm sau. Trong trường hợp cuối năm, nông trường chưa trả hết khoản nợ nếu có lý do chính đáng, mà cần dự trữ vật tư cho năm tới và kế hoạch đã được cấp trên duyệt, thì một mặt Ngân hàng cho vay những chi phí dự trữ cho năm tới, mặt khác nông trường phải trả nợ vay cũ cho Ngân hàng.
– Ngân hàng cho vay tạm thời là để giải quyết những nhu cầu vốn có tính chất tạm thời trong quá trình sản xuất, những chi phí cần thiếu vượt mức tiêu chuẩn ngoài kế hoạch, nhưng không phải do chính công tác xấu của nông trường gây ra.
Ngân hàng cho vay nhu cầu tạm thời trong những trường hợp sau đây:
1) Các chi phí công tác về gặt hái do nông trường làm tốt tăng sản lượng thu hoạch ngoài kế hoạch, hoặc do thời tiết thay đổi cần phải tranh thủ thu hoạch kịp thời mà các sản phẩm đó chưa kịp bán ra để bù đắp.
2) Những thành phẩm ở trong kho tàng chưa bán ra được do những khó khăn về giao thông vận tải, hoặc thiếu kho tàng của cơ quan thu mua gây ra làm cho nông trường thiếu vốn tiếp tục sản xuất.
3) Các chi phí cho những công tác đề phòng hay cứu chữa các tai nạn hạn hán, lụt bão, sâu dịch xảy ra có quy định tiêu chuẩn cấp phát của Bộ Tài chính, nhưng nông trường không thể biết trước, nên không có kế hoạch dự trữ. Ngân hàng chỉ cho vay để giải quyết những công tác cấp thiết trong khi chờ đợi nông trường đó mà quyết toán trình lên Bộ, Sở xét duyệt để cấp phát bù lỗ ngoài kế hoạch để trả nợ Ngân hàng.
Các đối tượng cho vay nhu cầu tạm thời bao gồm:
- Vật liệu chính: phân bón, thức ăn súc vật.
- Nhiên liệu: xăng, dầu, mỡ, mazout v.v...
- Vật liệu phụ: thuốc trừ sâu, thuốc thú y v.v...
- Trả nhân công.
- Thành phẩm.
– Khi xin vay nông trường phải giao nộp Ngân hàng:
1) Bản báo cáo nói rõ nguyên nhân gây ra nhu cầu tạm thời, mục đích sử dụng vốn và nhu cầu vốn.
2) Bản kê tạm thời dự trữ thành phần trong kho tàng, các chi phí cần thiết cho việc sản xuất.
3) Hai bản đơn xin vay vốn nhu cầu tạm thời (theo mẫu số 1 trước) gửi đến Ngân hàng trước 3 ngày (kể từ ngày Ngân hàng nhận được).
Ngân hàng căn cứ vào giấy tờ báo cáo để xét và mức định cho vay. Mức cho vay đối với những công tác làm tốt vượt kế hoạch không hạn chế, ngân hàng chỉ căn cứ vào giá trị sản phẩm thực sự phải thu hoạch. Đối với những chi phí do thiên tai gây ra, hoặc do điều kiện khách quan đưa đến, mức cho vay căn cứ nhu cầu hiện tại của mỗi loại công tác. Riêng dự trữ thành phẩm mức cho vay tính theo giá trị kế hoạch của số dư các loại thành phẩm thực sử ở trong kho tàng.
– Ngân hàng cho các nông trường vay vốn về chi phí sửa chữa lớn trong những trường hợp số tiền khấu hao về tài sản cố định dành cho sửa chữa lớn trong những quý không đủ để làm việc ấy.
Muốn được vay vốn các nông trường phải có tài khoản tiền gửi "sửa chữa lớn" ở Ngân hàng để hàng tháng gửi tiền khấu hao về sửa chữa lớn.
– Khi làm đơn gửi đến Ngân hàng xin vay vốn sửa chữa lớn nông trường phải gửi kèm theo bản kế hoạch khấu hao về sửa chữa lớn cả năm, bản kế hoạch các đối tượng phải sửa chữa, thời gian sửa chữa, giá trị sửa chữa (theo mẫu số 6 thể lệ cho vay công nghiệp quốc doanh) và các chứng từ về các đối tượng đã sửa chữa.
Ngân hàng sẽ căn cứ vào các tài liệu trên do nông trường trình xuất để xét và định mức cho vay. Mức cho vay cao nhất không được vượt quá con số kế hoạch khấu hao về sửa chữa lớn của niên độ đó.
– Ngân hàng căn cứ vào kế hoạch khấu hao của từng quý khi số dự khấu hao trong quý vượt quá mức kế hoạch sửa chữa để ấn định thời hạn cho vay, nhưng nói chung thời hạn cho vay để sửa chữa lớn không được vượt quá phạm vi niên độ kế hoạch.
Khi đến hạn, Ngân hàng chủ động thu hồi nó về bằng cách trích từ tài khoản khấu hao sửa chữa lớn để trả nợ Ngân hàng.
– Ngân hàng cho các nông trường quốc doanh vay thanh toán tùy theo các hình thức thanh toán để giải quyết nhu cầu vốn trong thanh toán không được Nhà nước cấp vốn luân chuyển riêng. Loại cho vay này theo thể lệ chung của Ngân hàng quốc gia Việt Nam về các hình thức thanh toán và cho vay thanh toán đối với khu vực quốc doanh và Hợp tác xã.
– Nông trường quốc doanh căn cứ các kế hoạch trong năm có liên quan đến kế hoạch xin vay vốn để lập kế hoạch vay vốn hàng năm. Sau đó nông trường căn cứ kế hoạch hàng năm để lập kế hoạch vay từng quý. Các nông trường không lập kế hoạch hàng tháng. Ngân hàng sẽ căn cứ vào nhu cầu vốn chung của từng quý để định các lần cho vay cụ thể.
Sau lập xong kế hoạch vay vốn, nông trường phải gửi đến Chi nhánh Ngân hàng nơi giữ tài khoản thanh toán của mình một bản. Đồng thời gửi một bản lên Sở chủ quản, Nông trường phải gửi kế hoạch này 30 ngày trước khi vay, kèm theo:
1) Kế hoạch sản xuất.
2) Kế hoạch cung cấp vật tư.
3) Kế hoạch giá thành.
4) Kế hoạch thu chi tài vụ.
Các Chi nhánh Ngân hàng khi nhận được các kế hoạch vay vốn cần trực tiếp điều tra nghiên cứu để nhận xét về các loại cho vay, điều chỉnh kế hoạch xin vay vốn của các nông trường và làm báo cáo tổng hợp có kèm theo bản giải thích gửi lên Ngân hàng trung ương (Vụ Nghiệp vụ nông thôn).
– Sở chủ quản nhận được kế hoạch vay vốn của các nông trường gửi đến, sẽ căn cứ vào nhu cầu của toàn bộ nông trường lập kế hoạch vay vốn tổng hợp của các nông trường. Sở sẽ gửi các kế hoạch tổng hợp (kế hoạch sản xuất, kế hoạch cung cấp vật tư, kế hoạch giá thành, kế hoạch thu chi tài vụ) đó đến Bộ Nông Lâm và Ngân hàng trung ương trước 20 ngày khi bất đầu vay (tính từ ngày Ngân hàng nhận được) Ngân hàng trung ương sẽ xét các kế hoạch đó và cùng với Bộ, Sở chủ quản định ra mức vốn cần cho vay của từng nông trường đối với từng loại. Sau đó Bộ, Sở chủ quản báo cáo kế hoạch cho vay đã xét duyệt cho từng nông trường biết, đồng thời Ngân hàng trung ương cũng báo cho các Chi nhánh Ngân hàng địa phương biết các kế hoạch định cho vay của từng nông trường.
– Ngân hàng kiểm tra sử dụng vốn cho vay tiến hành dưới hai hình thức:
1) Kiểm tra qua các báo cáo, chứng từ, bản cân đối.
2) Kiểm tra trực tiếp tận nơi sản xuất.
Để Ngân hàng có thể kiểm tra việc sử dụng vốn vay được tốt, Bộ, Sở chủ quản và các xí nghiệp hàng tháng, hàng quý và cuối năm phải gửi đến Ngân hàng (Bộ và Sở chủ quản gửi cho Ngân hàng trung ương, xí nghiệp gửi cho Chi nhánh Ngân hàng nơi giữ tài khoản thanh toán và cho vay) các tài liệu sau đây:
1) Bản cân đối (bản quyết toán), hàng quý, hàng năm (bao gồm các bản phụ và bản giải thích kèm theo).
2) Bản báo cáo giá thành (6 tháng và cuối năm hoặc sau vụ thu hoạch các sản phẩm chính).
3) Bản báo cáo thu chi tài vụ hàng tháng.
4) Bản báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất (ít nhất là những loại sản phẩm chính) và kế hoạch cung cấp vật tư, kế hoạch tiêu thụ sản phẩm. Nông trường khi gửi báo cáo lên Bộ, Sở chủ quản đồng gửi cho Ngân hàng một bản.
– Ngân hàng tiến hành kiểm tra:
1) Trên cơ sở các tài liệu báo cáo nghiệp vụ về tình hình sản xuất, tình hình dự trữ vật tư của các nông trường gửi đến cho Ngân hàng hàng tháng.
2) Theo số liệu của bản cân đối hàng tháng, hàng quý và hàng năm.
3) Theo số liệu báo cáo kế toán, số liệu kho tăng của Nông trường.
Ngoài ra Ngân hàng kiểm tra trực tiếp tận nơi sản xuất:
a) Sử dụng có mặt thực sự vật tư tồn kho, sản phẩm đang sản xuất, sản phẩm đang chế biến.
b) Sử dụng vốn vay vào các chi phí sản xuất, vào dự trữ vật tư theo kế hoạch định trước và việc thực hiện kế hoạch giá thành sản xuất.
c) Nội dung báo cáo của xí nghiệp gửi đến đối chiếu với sự có mặt của vật tư (so sánh báo cáo với thực tế).
d) Quá trình sản xuất.
e) Các thanh toán khi xảy ra những nợ nần và nợ quá hạn.
– Ngân hàng căn cứ vào các tài liệu báo cáo trên để kiểm tra trực tiếp hoặc gián tiếp, phân tách tình hình. Nếu thấy số dư vật tư, hay số dư chi phí sản xuất (các sản phẩm đang sản xuất) ít hơn số tiền cho vay về đối tượng đó (nghĩa là thiếu vật tư đảm bảo) Ngân hàng sẽ thu hồi vốn về bằng cách trích ở tài khoản thanh toán của xí nghiệp. Nếu xí nghiệp thanh toán không có tiền sẽ chuyển sang tài khoản nợ quá hạn.
– Các xí nghiệp vay tiền của Ngân hàng quốc gia đến hạn đã quy định phải trả lại số tiền đã vay cả vốn lẫn lãi. Nếu đến hạn xí nghiệp không trả, Ngân hàng sẽ chủ động thu hồi vốn về bằng cách trích từ tài khoản thanh toán để trừ vào khoản cho vay. Nếu cho vay sửa chữa lớn Ngân hàng sẽ trích tài khoản sửa chữa lớn, nếu trong tài khoản sửa chữa lớn không có tiền thì Ngân hàng sẽ trích tài khoản thanh toán để trừ nợ cho vay sửa chữa lớn. Nếu tài khoản thanh toán không có tiền để trả nợ Ngân hàng thì Ngân hàng sẽ chuyển các khoản cho vay nói trên sang tài khoản "Nợ quá hạn" và áp dụng lợi suất gấp rưỡi đối với số tiền cho vay đó, trong thời gian quá hạn.
– Trong trường hợp nông trường không gửi kịp thời các tài liệu cần thiết, như bản kê vật tư, bản cân đối quyết toán, bản thu chi tài vụ thì Ngân hàng sẽ bảo chính thức và tạm thời đình chỉ cho vay thêm về tất cả các loại cho vay, cho đến khi nhận được các tài liệu nói trên thì mới tiếp tục cho vay.
Trong các trường hợp do Ngân hàng có quyền đòi trước hạn một phần nợ, nhưng phải báo cho nông trường biết trước 10 ngày.
Ngân hàng còn có thể áp dụng các hình thức kỷ luật đối với những nông trường làm công tác xấu để xảy ra tình trạng như:
1) Sổ sách giấy tờ kế toán không phù hợp với vật tư.
2) Vật tư thừa bị ứ động (mua vào nhiều không dùng hết) và không có kế hoạch thanh toán vật tư thường để vật tư ứ đọng trên mức tiêu chuẩn ngoài kế hoạch.
3) Không thực hiện kế hoạch bán hay cung cấp thành phẩm và sản phẩm phụ.
4) Tự ý sản xuất không theo kế hoạch cấp trên đã quy định.
5) Vi phạm chế độ và kỷ luật tài chính thanh toán, trả nợ, như sử dụng vốn cơ bản (cố định) làm vốn luân chuyển (lưu động) hay ngược lại, không thực hiện kế hoạch tích lũy, khấu hao, nộp lợi nhuận, nộp thuế, không thực hiện kế hoạch giá thành, để tiền đọng lại quỹ nhiều, sử dụng lao động không đúng, dây dưa không thanh toán nợ nần v.v...
Tình trạng hiệu lực: Không còn phù hợp