Chương 3 Nghị định 109/2004/NĐ-CP: Đặt tên doanh nghiệp
Số hiệu: | 109/2004/NĐ-CP | Loại văn bản: | Nghị định |
Nơi ban hành: | Chính phủ | Người ký: | Phan Văn Khải |
Ngày ban hành: | 02/04/2004 | Ngày hiệu lực: | 29/04/2004 |
Ngày công báo: | 14/04/2004 | Số công báo: | Số 7 |
Lĩnh vực: | Doanh nghiệp | Tình trạng: |
Hết hiệu lực
27/09/2006 |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
1. Tên doanh nghiệp ít nhất phải có 2 thành tố sau đây:
a) Loại hình doanh nghiệp;
b) Tên riêng.
Tên riêng phải viết được bằng tiếng Việt, có thể kèm theo chữ số và ký hiệu, phát âm được.
2. Doanh nghiệp có thể sử dụng ngành, nghề kinh doanh hay phụ trợ khác để cấu thành tên doanh nghiệp.
1. Không được đặt tên trùng hoặc tên gây nhầm lẫn với tên của doanh nghiệp đã đăng ký.
2. Không được sử dụng tên cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân, tên của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội để làm toàn bộ hoặc một phần tên riêng của doanh nghiệp, trừ trường hợp có sự chấp thuận của cơ quan, đơn vị hoặc tổ chức đó.
3. Không được sử dụng từ ngữ, ký hiệu vi phạm truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc để đặt tên riêng cho doanh nghiệp.
Tên doanh nghiệp viết bằng tiếng nước ngoài là tên được dịch từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài tương ứng. Khi dịch sang tiếng nước ngoài, tên riêng của doanh nghiệp có thể giữ nguyên hoặc dịch tương ứng toàn bộ sang tiếng nước ngoài.
1. Tên trùng là trường hợp tên của doanh nghiệp yêu cầu đăng ký được viết và đọc bằng tiếng Việt hoàn toàn giống với tên của doanh nghiệp đã đăng ký.
2. Các trường hợp sau đây được coi là gây nhầm lẫn với tên của các doanh nghiệp khác:
a) Tên bằng tiếng Việt của doanh nghiệp yêu cầu đăng ký được đọc giống như tên doanh nghiệp đã đăng ký;
b) Tên bằng tiếng Việt của doanh nghiệp yêu cầu đăng ký chỉ khác tên doanh nghiệp đã đăng ký bởi ký hiệu "&";
c) Tên viết tắt của doanh nghiệp yêu cầu đăng ký trùng với tên viết tắt của doanh nghiệp đã đăng ký;
d) Tên bằng tiếng nước ngoài của doanh nghiệp yêu cầu đăng ký trùng với tên bằng tiếng nước ngoài của doanh nghiệp đã đăng ký;
đ) Tên của doanh nghiệp yêu cầu đăng ký khác với tên của doanh nghiệp đã đăng ký bởi số tự nhiên, số thứ tự hoặc các chữ cái tiếng Việt (A, B, C,...) ngay sau tên riêng của doanh nghiệp đó, trừ trường hợp doanh nghiệp yêu cầu đăng ký là doanh nghiệp con của doanh nghiệp đã đăng ký.
e) Tên của doanh nghiệp yêu cầu đăng ký khác với tên của doanh nghiệp đã đăng ký bởi từ "tân" ngay trước, hoặc "mới" ngay sau tên của doanh nghiệp đã đăng ký.
g) Tên của doanh nghiệp yêu cầu đăng ký chỉ khác tên của doanh nghiệp đã đăng ký bởi các từ "Bắc", "miền Bắc", "Nam", "miền Nam", "Trung", "miền Trung", "Tây", "miền Tây", "Đông", "miền Đông", trừ trường hợp doanh nghiệp yêu cầu đăng ký là doanh nghiệp con của doanh nghiệp đã đăng ký.
h) Các trường hợp tên gây nhầm lẫn khác theo quyết định của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
1. Căn cứ quy định tại Chương này, trong thời hạn ba tháng kể từ khi Nghị định này có hiệu lực Phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh tập hợp danh mục doanh nghiệp trùng tên và doanh nghiệp có tên gây nhầm lẫn với tên của doanh nghiệp khác trên phạm vi địa phương; Trung tâm thông tin doanh nghiệp quốc gia tập hợp và đưa danh mục doanh nghiệp trùng tên và doanh nghiệp có tên gây nhầm lẫn với doanh nghiệp khác trong cả nước lên trang thông tin doanh nghiệp trong nước của hệ thống thông tin doanh nghiệp quốc gia.
2. Các doanh nghiệp đăng ký trước khi Nghị định này có hiệu lực có tên gây nhầm lẫn với tên doanh nghiệp khác không bị buộc phải đăng ký đổi tên.
3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn chi tiết việc đặt tên doanh nghiệp quy định tại Chương này.
Article 7.- Name of enterprises
1. An enterprise name must have at least the following two components:
a) Type of the enterprise;
b) The proper name.
The proper name must be written in Vietnamese, which may be accompanied with numerals and signs, pronounceable.
2. Enterprises may use business lines or other supports to compose their names.
Article 8.- Things banned in naming enterprises
1. Not giving names which are identical to, or causing confusion with, the names of registered enterprises.
2. Not to use names of State bodies, people’s armed force units, names of political organizations, socio-political organizations to compose the whole or part of the proper names of enterprises, except where it is so consented by such bodies, units or organizations.
3. Not using terms, signs which violate the nation’s historical, cultural, moral traditions as well as fine customs and practices to make the proper names of enterprises.
Article 9.- Enterprise names written in foreign language(s)
The enterprise names written in foreign language (s) are the names translated from Vietnamese into foreign language(s). When being translated into foreign language(s), the proper names of the enterprises can be retained or translated fully into foreign language(s).
Article 10.- Identical and confusing names
1. Identical names mean the cases where the names of the registration-requesting enterprises, which, if being written and read in Vietnamese, are exactly identical to the names of registered enterprises.
2. The following cases are considered as causing confusion with the names of other enterprises:
a) The Vietnamese names of the registration-requesting enterprises, when read, are identical to the names of registered enterprises;
b) The Vietnamese names of the registration-requesting enterprises are different from the names of registered enterprises only in the sign “ & ”;
c) The abbreviated names of the registration-requesting enterprises are identical to the abbreviated names of registered enterprises;
d) The foreign-language names of the registration-requesting enterprises are identical to the foreign-language names of registered enterprises;
e) The names of the registration-requesting enterprises are different from the names of registered enterprises in natural numbers, ordinal numbers or Vietnamese capital letters (A, B, C...) immediately after the proper names of such enterprises, except for cases where the registration-requesting enterprises are affiliate enterprises of the registered enterprises.
f) The names of the registration-requesting enterprises are different from the names of the registered enterprises in the word “tan” immediately before, or “moi” (new) immediately after the names of the registered enterprises.
g) The names of the registration-requesting enterprises are different from the names of registered enterprises only in the words “Northern,” “northern region,” “Southern,” “southern region,” “Central,” “central region,” “Western,” “western region, “Eastern,” “eastern region,” except for cases where the registration-requesting enterprises are affiliate establishments of the registered enterprises.
h) Other cases of confusing names shall comply with the decisions of the Ministry of Planning and Investment.
Article 11.- Other matters related to the naming of enterprises
1. Basing themselves on the provisions of this Chapter, within three months as from the time this Decree takes effect, the provincial-level business registration sections shall make lists of enterprises with identical names and enterprises with names causing confusion with the names of other enterprises in the localities; the national center for information on enterprises shall gather and put the lists of enterprises with identical names and enterprises with names causing confusion with other enterprises nationwide on the domestic enterprise website of the national enterprise information system.
2. The enterprises which have been registered before this Decree takes effect and have the names causing confusion with the names of other enterprises shall not be compelled to register for changes of their names.
3. The Ministry of Planning and Investment shall guide in detail the naming of enterprises, prescribed in this Chapter.
Tình trạng hiệu lực: Hết hiệu lực