Giải SBT Ngữ văn 8 Cánh diều Thực hành Tiếng Việt trang 43
Giải SBT Ngữ văn 8 Cánh diều Thực hành Tiếng Việt trang 43
-
51 lượt thi
-
13 câu hỏi
-
0 phút
Danh sách câu hỏi
Câu 1:
23/07/2024Xác định biện pháp tu từ đảo ngữ trong những câu dưới đây Nêu tác dụng của mỗi biện pháp tu từ đó.
a)
Lom khom dưới núi, tiều vài chú,
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.
(Bà Huyện Thanh Quan)
b)
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.
(Trần Tế Xương)
c)
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
(Huy Cận)
d)
Đã tan tác những bóng thù hắc ám
Đã sáng lại trời thu tháng Tám
(Tố Hữu)
a) - Biện pháp tu từ đảo ngữ: Lom khom dưới núi; Lác đác bên sông
- Tác dụng: Nhấn mạnh cuộc sống mưu sinh, bươn trải của người dân và khung cảnh thưa thớt, vắng vẻ, tiêu điều nơi chân đèo Ngang.
b) - Biện pháp tu từ đảo ngữ: Lôi thôi sĩ tử; ậm ọe quan trường
- Tác dụng: nhấn mạnh vẻ ngoài cẩu thả, nhếch nhác; tác phong rệu rạo, biếng nhác của những vị quan hiền tài và sĩ tử tri thức của đất nước trong giai đoạn đó. Từ đó châm biếm tình cảnh đất nước bệ rạc, giả dối ngay trong chính kì thi quan trọng như vậy.
c) - Biện pháp đảo ngữ: Củi một cành khô
- Tác dụng: nhấn mạnh thân phận nhỏ bé, vô định, yếu ớt của kiếp người trong cuộc sống.
d) - Biện pháp điệp ngữ: Đã
- Tác dụng: nhấn mạnh chiến thắng vang dội, đánh đuổi quân thù, đất nước được hòa bình trở lại sau Cách mạng tháng Tám.
Câu 2:
20/07/2024Xác định câu hỏi tu từ trong những câu dưới đây. Nêu tác dụng của mỗi câu hỏi tu từ đó.
a)
Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?
(Thế Lữ)
b)
Vì sao hỡi miền Nam yêu dấu
Người không hề tiếc máu hi sinh?
Vì sao hỡi miền Nam chiến đấu
Người hiên ngang không chịu cúi mình?
(Tố Hữu)
c) Con gái tôi vẽ đây ư? (Tạ Duy Anh)
a) - Câu hỏi tu từ: Thời oanh liệt nay còn đâu?
- Tác dụng: Giúp câu thơ có sự sinh động về hình thức, bộc lộ nỗi niềm thất vọng, ai oán trước hiện thực phũ phàng, hoài niệm sâu sắc về quá khứ huy hoang, oanh liệt trước kia
b) - Câu hỏi tu từ: Người không hề tiếc máu hi sinh?/ Người hiên ngang không chịu cúi mình.
- Tác dụng: Hình thức câu thơ thêm phần sinh động, nhấn mạnh được sự hào hùng, can trường, hiên ngang không tiếc máu xương của nhân dân đồng bào miền Nam trong thời kì kháng chiến.
c) - Câu hỏi tu từ: Con gái tôi vẽ đây ư?
Câu 3:
22/07/2024Ghép các từ tượng hình, từ tượng thanh (in đậm) ở cột A với nghĩa phù hợp ở cột B:
A. Từ tượng hình, từ tượng thanh |
|
B. Nghĩa |
a) Ậm oẹ quan trường miệng thét loa (Trần Tế Xương) |
|
1) (vóc dáng) bé nhỏ quá mức |
b) Lom khom dưới núi, tiều vài chú (Bà Huyện Thanh Quan) |
|
2) dài hoặc cao quá, mất cân đối |
c) Lác đác bên sông, chợ mấy nhà (Bà Huyện Thanh Quan) |
|
3) ở tư thế còng lưng xuống |
d) Đôi mắt lão ầng ậng nước ... (Nam Cao) |
|
4) thưa và rải rác mỗi chỗ, mỗi lần một ít |
e) Hoài Văn lầm rầm khấn ... (Nguyễn Huy Tưởng) |
|
5) (tiếng nói) nhỏ, thấp, đều đều, nghe không rõ |
g) Dế Choắt người ... dài lêu nghêu ... (Tô Hoài) |
|
6) (nước mắt) nhiều, dâng đầy khoé mắt, như chực tuôn chảy ra |
h) Chú bé loắt choắt (Tố Hữu) |
|
7) (tiếng nói) bị cản trong cổ họng, nghe không rõ |
Mẫu: a) – 7)
a - 7
b - 3
c - 4
d - 6
e - 5
g - 2
h - 1
Câu 4:
14/07/2024Tìm biện pháp tu từ đảo ngữ trong những câu in đậm dưới đây. Nêu tác dụng của mỗi biện pháp tu từ đó đối với việc liên kết câu.
a) Nhung thong thả đẩy cánh cổng, một con chó sồng sốc ở trong nhà chạy ra. Con chó ấy chính tay Nhung mua về hơn mười năm trước. (Tự lực văn đoàn tuyển tập)
b) – Ấy cũng may cho cô, vơ vẫn mãi ở ngoài phổ thế này mà gặp mật thám hoặc đội con gái thì khốn!
- Mật thảm tôi cũng chả sợ, đội con gái tôi cũng chả cần. (Nguyễn Công Hoan)
c) Nguyễn Tuân có một kho từ vựng hết sức phong phú mà ông đã cần cù tích luỹ. [...] Vốn từ vựng ấy, trước Cách mạng tháng Tám, ông thường dùng để chơi ngông với đời. (Nguyễn Đăng Mạnh)
a) - Biện pháp tu từ đảo ngữ: Một con chó sồng sộc ở trong nhà chạy ra, nhưng chính tay Nhung mua về hơn mười năm trước.
- Tác dụng: Tạo sự đặc biệt và gây ấn tượng cho đối tượng "con chó" khi nó được đặt lên đầu câu.
b) - Biện pháp tu từ đảo ngữ: Đội con gái tôi tôi cũng chả cần, mật thám tôi cũng chả sợ.
- Tác dụng: Giúp tạo sự bất ngờ và nhấn mạnh ý của người nói rằng họ không sợ mật thám và không cần đội con gái.
c) - Biện pháp tu từ đảo ngữ: Vốn từ vựng ấy, ông thường dùng để chơi ngông với đời, trước Cách mạng tháng Tám.
- Tác dụng: Giúp tạo sự nhấn mạnh và đặc biệt cho hành vi của ông Nguyễn Tuân khi ông sử dụng từ vựng để chơi ngông với đời.
Câu 5:
19/07/2024Tìm một số từ tượng hình gợi tả:
- Tư thế ngồi của người, ví dụ: ngồi chễm chệ.....
- Dáng đi của người, ví dụ: đi lò dò ....
- Tư thế ngồi của người: ngồi chễm chệ, ngồi bước cúi đầu, ngồi cuộn tròn, ngồi lung lay, ngồi xổm, ngồi dang tay chân,...
- Dáng đi của người: đi lò dò, đi nhanh như bay, đi quanh co, đi lép vế, đi uốn éo, đi thình lình,...
Câu 6:
18/07/2024Tìm từ tượng hình, từ tượng thanh trong những câu dưới đây (ở tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố); chỉ ra nghĩa của mỗi từ tìm được.
a) Cạnh chõng nghi ngút một đám khói bay.
b) Chị Dậu rón rén bưng một bát lớn đến chỗ chồng nằm ...
c) Cai lệ tát vào mặt chị một cái đánh bốp, rồi hắn cứ nhảy vào cạnh anh Dậu.
d) Cái Tí khóc hu hu.
e) Chị Dậu càng rũ rượi.
a) - Từ tượng hình: nghi ngút; bay
- Ý nghĩa:
+ Nghi ngút: trạng thái (khói, hơi) lan tỏa nhiều, bốc lên không ngớt
+ Bay: chuyển động theo, cuốn theo làn gió
b) - Từ tượng hình: rón rén
- Ý nghĩa: gợi tả dáng điệu cố làm cho thật nhẹ nhàng, thong thả vì sợ gây tiếng động hoặc điều thất thố.
c) - Từ tượng hình: bốp
- Ý nghĩa: đánh mạnh, đánh vụng về hoặc đánh liên tiếp.
d) - Từ tượng thanh: hu hu
- Ý nghĩa: miêu tả âm thanh của tiếng khóc, thường được sử dụng để chỉ mức độ khóc đau buồn và ưu tư.
e) - Từ tượng hình: rũ rượi
- Ý nghĩa: mệt mỏi, yếu đuối hoặc mất đi sự tự tin, như thể người đó không còn sức lực hay ý chí.
Câu 7:
23/07/2024Thế nào là phân tích một tác phẩm thơ? Để viết được bài văn phân tích một bài thơ, em cần chú ý những gì?
- Phân tích một bài thơ: là kiểu bài nghị luận văn học dùng lí lẽ và bằng chứng để làm rõ giá trị nội dung, nghệ thuật của bài thơ ấy.
- Khi phân tích thơ, chúng ta cần lưu ý:
+ Cuộc đời tác giả
+ Hoàn cảnh ra đời của bài thơ: sáng tác năm nào, gắn với sự kiện lịch sử gì nổi bật
+ Thể thơ: lục bát, thất ngôn bát cú, tự do, thơ 5 chữ,...
+ Hình ảnh thơ: Ví dụ như hình ảnh người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp - Mĩ trong “Đồng chí”, “Bài thơ về tiểu đội xe không kính, hình ảnh người bà trong “Bếp lửa”.
+ Chi tiết thơ
+ Giọng điệu: gồm có giọng hào hùng, nhẹ nhàng, xót thương, bi lụy, triết lý…
+ Vần (nhịp) thơ.
+ Ngôn ngữ thơ: gồm có ngôn ngữ bình dân, ngôn ngữ bác học, ngôn ngữ được sử dụng trong bài thơ.
+ Bố cục: Đây là phần quan trọng nhất để tìm ý cho bài cảm nhận của mình. Có thể chia theo khổ, chia theo đoạn, câu...
Câu 8:
20/07/2024Kiểu bài nghị luận phân tích một tác phẩm thơ giống và khác kiểu bài nghị luận phân tích một tác phẩm truyện (Bài 6) như thế nào?
- Giống nhau: Cả hai kiểu bài đều thuộc dạng phân tích một tác phẩm văn học, vì thế cần chú ý yêu cầu phân tích từ nội dung đến hình thức, thấy được mối quan hệ giữa nội dung và hình thức.
- Khác nhau: Mỗi kiểu bài yêu cầu người viết cần chú ý đặc trưng thể loại cụ thể; ví dụ, cũng là yêu cầu nhận biết và chỉ ra tác dụng của hình thức nghệ thuật nhưng các yếu tố hình thức của thơ khác với văn xuôi. Vì thế, bên cạnh các yếu tố chung, cần nắm được các yếu tố hình thức nổi bật của thơ. Ngoài ra, đặc trưng thơ và truyện cũng khác nhau, một bên là trữ tình, một bên là tự sự.
Câu 9:
17/07/2024Từ đề văn trong mục 2. Thực hành (SGK, trang 48): Phân tích bài thơ “Vịnh khoa thi Hương” của Trần Tế Xương, hãy phát triển nội dung các ý đã nêu trong phần thân bài.
Bài viết tham khảo
Tú Xương sinh năm 1870, đến năm 15 tuổi đã bắt đầu đi thi. Khoa Ất Dậu 1885, không đỗ. Khoa Mậu Tí 1888, khoa Tân Mão 1891 đều hỏng. Khoa Giáp Ngọ 1894, chỉ đỗ tú tài, năm đó 24 tuổi và từ đó đã chính thức thành tên là Tú Xương. "Thi không ăn ớt thế mà cay". Tú Xương còn vác lều chõng thi tiếp 4 khoa nữa: Khoa Đinh Dậu 1897, khoa Canh Tí 1900, Khoa Quý Mão (1903) và khoa Bính Ngọ 1906. Nguyễn Tuân nói: "Thế rồi Tú Xương mất vào đầu năm sau (1907). Tức là Tú Xương thi chết thôi, thi cho đến chết mới thôi".
"Một việc văn chương thôi cũng nhàm,
Trăm năm thân thế có ra gì ?".
(Buồn thi hỏng)
Khoa thi Đinh Dậu đối với Tú Xương có một ý nghĩa đặc biệt: Nhiều hăm hở và hi vọng. Khoa thi trước (khoa Giáp Ngọ, 1894) ông đã đỗ tú tài nên khoa thi này ông hi vọng sẽ đỗ cử nhân bước lên đại danh vọng: "Võng anh đi trước, võng nàng theo sau".
Nhan đề bài thơ còn có một cái tên khác: "Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu". Bài thơ miêu tả lễ xướng danh khoa thi Hương tại trường Nam năm 1897, qua đó nói lên nỗi nhục mất nước và niềm chua xót của kẻ sĩ đương thời.
Hai câu đề giới thiệu một nét mới của khoa thi Đinh Dậu:
"Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà".
Việc thi cử ngày xưa là của vua, của triều đình nhằm mục đích kén chọn kẻ sĩ tài giỏi, chọn nhân tài ra làm quan giúp vua, giúp nước. Bây giờ nước ta đã bị thực dân Pháp thống trị, việc thi cử vẫn còn thi chữ Hán theo lộ cũ "ba năm mở một khoa" nhưng đã cuối mùa. Và kẻ chủ xướng ra các khoa thi ấy là nhà nước là chính phủ bảo hộ. Câu thơ thứ hai nêu lên tính chất hỗn tạp của kì thi này: "Trường Nam thi lẫn với trường Hà". Đời Nguyễn, ở Bắc Kì có hai trường thi Hương là trường thi Hà Nội và trường thi Nam Định. Tay thực dân chiếm trường thi Hà Nội, nên mới có chuyện sĩ tử Hà Nội phải thi lẫn với trường Nam như thế. Theo Nguyễn Tuân cho biết khoa thi 1894, trường thi Nam Định có mười một ngàn sĩ tử, đỗ 60 cử nhan và 200 tú tài. Tú Xương đỗ tú tài khoa thi đó. Chắc chắn khoa thi Hương năm Đinh Dậu số người dự thi còn đông hơn nhiều!
Hai câu thực miêu tả cảnh nhập trường và xướng danh bằng hai nét vẽ rất đặc sắc. Vì là người trong cuộc nên Tú Xương mới làm nổi bật cái thần của quang cảnh trường thi như vậy. Dáng hình sĩ tử thì "vai đeo lọ" trông thật nhếch nhác, "lôi thôi". Sĩ tử là người đi thi, là những trí thức trong xã hội phong kiến từng theo nghiệp bút nghiên. Trong đám sĩ tử "lôi thôi" sẽ xuất hiện những ông cử, ông tiến sĩ, ông tú nay mai. Câu thơ "Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ" là một cảnh hài hước, chua chát. Đảo ngữ hai chữ "lôi thôi" lên đầu câu thơ gây ấn tượng nhếch nhác đáng buồn "vai đeo lọ". Lọ mực hay lọ đựng nước uống trong ngày thi? Đạo học (chữ Hán) đã cuối mùa, "Sĩ khí rụt rè gà phải cáo - Văn chương liều lĩnh đấm ăn xôi" nên trường thi mới có hình ảnh mia mai " Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ " ấy.
“Nét vẽ thứ hai cũng thật tài tình:
"Ậm oẹ quan trường miệng thét loa".
Ậm oẹ nghĩa là ra bộ nạt nộ, hăm dọa. Cấu trúc câu thơ đảo ngữ đưa hai tiếng tượng thanh "ậm oẹ" lên đầu câu thơ để làm nổi bật hình ảnh các quan trường "miệng thét loa". Trường thi không còn là chốn tôn nghiêm nề nếp nữa, quá lộn xộn, quá ồn ào, khác nào cảnh họp chợ, nên quan trưừng mới "ậm oẹ" và "thét loa" như thế. Tú Xương đối rất chỉnh làm hiện lên hai hình ảnh trung tâm của trường thi. Sĩ tử thì lôi thôi nhếch nhác, mất đi cái vẻ nho nhã thư sinh. Quan trường, giám thị, giám khảo cũng chẳng còn cái phong thái nghiêm trang, trịnh trọng vốn có. Bức tranh nhị bình biếm họa độc đáo này gợi lại cảnh hoàng hôn của chế độ phong kiến ở nước ta:
"Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa".
Hai câu luận tô đậm bức tranh "Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu" bằng hai bức biếm họa về ông Tây và mụ đầm. Tài liệu cũ cho biết, năm đó toàn quyền Paul Doumer và vợ chong tên công sứ Nam Định Le Normand đã đến dự. Các ông cử lẫn khoa, các ông tú mền, tú kép ... phải cúi rạp mình xuống mà lạy ông Tây, mụ đầm "váy lê quét đất", "ghế trên, ngoi đít vịt". Cái nhục của hàng vạn sĩ tử Bắc Hà không thể nào kể hết:
"Lọng cắm rợp trời, quan sứ đến,
Váy lê quét đất, mụ đầm ra".
Tây thực dân đang đè đầu cưỡi cổ dân ta. Hình ảnh "Lọng cắm rợp trời" gợi tả cảnh đón tiếp dành cho "quan sứ", lũ ăn cướp đất nước ta, một nghi lễ cực kì long trọng. Đó là nỗi đau mất nước. Từ xưa tới năm ấy (1897) chốn trường thi là nơi tôn nghiêm, lễ giáo phong kiến vốn trọng nam khinh nữ, đàn bà đâu được đến nơi kén chọn nhân tài. Thế mà bây giờ, không chỉ "mụ đầm ra" xa lạ mà mụ đầm đến với "váy lẽ quét đất" mà còn bày ra giữa thanh thiên bạch nhật một nghịch cảnh vô cùng nhục nhã:
"Trên ghế, bà đầm ngoi đít vịt
Dưới sân, ông cử ngỏng đầu rồng".
Nguyễn Tuân đã nói về nỗi nhục đó như sau: "Không đỗ cũng cực, mà đỗ để phải phủ phục xuống mà lạy Tây, lạy cả đầm, thì quả là nhục".
Vịnh khoa thi Hương năm Đinh Dậu nếu thiếu đi hai hình ảnh ông Tây mụ đầm, bức tranh biếm họa coi như chẳng còn gi. Nghệ thuật đối của Tú Xương đã làm tăng sức hấp dẫn cho phong cách hiện thực của Tú Xương. Và nhờ có "lọng" đối với "váy", "quan" đối với "mụ" mà giọng cười, lối cười, hương cười, sắc cười (chữ của Nguyễn Tuân) của câu thơ Tú Xương kế thừa cái cười dân tộc trong ca dao, trong tuồng, chèo cổ. Có hiểu được rằng lọng là một thứ nghi trượng (cờ, biển, tán, tàn, võng, lọng, ... ) cao sang được dùng trong nghi lễ đón rước cúng tế lại được đem đối với váy (đồ dơ), mới thấy nghệ thuật trào phúng độc đáo trong phép đối của Tú Xương. Nỗi đau, nỗi nhục mất nước được cực tả một cách cay đắng, lạnh lùng qua cặp câu luận này.
Nguồn mạch trữ tình như được chiết xuất ra từ những điều mắt thấy tai nghe, từ những nhố nhăng, lôi thôi, lộn xộn trong ngoài, trên dưới nơi trường Nam năm Đinh Dậu:
"Nhân tài đất Bắc nào ai đó,
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà"
Câu thơ như một lời than; trong lời kêu gọi hàm chứa bao nỗi xót xa, tủi nhục và cay đắng. Nhân tài đất Bắc là nhung ông nghè, ông cống, những con người có lòng tự tôn dân tộc, ... ở vùng Sơn Nam, ở Kinh kì Thăng Long ngàn năm văn hiến, nơi hội tụ nhân tài, tinh hoa của đất nước. Ba tiếng "nào ai đó" phiếm chỉ càng làm cho tiếng than, lời kêu gọi trở nên thấm thía, lay gọi thức tỉnh. Chữ "ngoảnh cổ" gợi một thái độ, một tư thế không thể cam tâm sống nhục mãi trong cảnh đời nô lệ. Phải biết "ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà". "Cảnh nước nhà" là cái cảnh nhục nhã:
"Vua là tượng gỗ, dân là thân trâu ...
( ... ) Kẻ chức bồi người tước cu li
Thông ngôn, kí lục chi chi
Mãn đời, lính tập, trọn vị quan sang"
(Á tế Á ca)
Tú Xương là một trong hàng vạn sĩ tử dự khoa thi Hương năm Đinh Dậu. Ông là người tham dự, là người chứng kiến, ... Từ nỗi đau của người hỏng thi mà ông ngẫm về cái nhục của sĩ tử, của trí thức, của nhân tài đất Bắc. Nỗi đau nhục về mất nước như ngưng đọng uất kết lại thành tiếng thở dài, lời than, có cả những dòng lệ ...
Bài thơ "Vịnh khoa thi Hương" vừa tả cảnh "nhập trường", vừa tả cảnh "lễ xướng danh", qua đó nói lên tâm trạng đau đớn, chua xót của nhà thơ. Một hiện thực đau buồn, nhốn nháo, nhố nhăng. Và trữ tình thấm thía bao cay đắng tủi nhục. Chất thơ, hồn thơ, phong cách thơ Tú Xương là như thế! Bình về bài thơ này, Nguyễn Tuân viết: " ... thơ nói về trường thi của Tú Xương giống như những lời thanh nghị của một lớp sĩ phu thời đó. Không đánh được ai bằng khí giới, thì ít nhất cũng phải lấy bút ra mà vẩy cái lực sĩ khí vào những nghè, những cử bịt mũi xu thời vẩy vào, và than một đôi lời".
Câu 10:
18/07/2024Để rèn luyện kĩ năng phân tích tác dụng của hình thức thơ, em cần chú ý những gì?
Để rèn luyện kỹ năng phân tích tác dụng của hình thức thơ, chúng ta cần chú ý những yếu tố sau đây:
+ Phân tích âm điệu và nhịp điệu: Xem xét các yếu tố âm thanh trong bài thơ như nguyên tắc vần, nhịp điệu, ngọng giọng, sự lặp lại âm tiết.
+ Phân tích kiểu câu: Xem xét loại câu được sử dụng trong bài thơ (câu trực tiếp, câu kép, câu ghép...) và cấu trúc câu (đơn giản, phức tạp, song song...).
+ Phân tích thể thơ: Nhận biết và nghiên cứu các hình thức thơ như tứ tuyệt, lục bát, thất ngôn tứ tuyệt... Các hình thức này có cấu trúc và quy tắc riêng, góp phần vào việc tạo nên sự độc đáo của bài thơ.
+ Phân tích ngôn ngữ và hình ảnh: Tìm hiểu các từ ngữ, cụm từ và hình ảnh được sử dụng trong bài thơ. Xem xét ý nghĩa, hình tượng và tác động mà chúng mang lại. Ngôn ngữ và hình ảnh có thể tạo ra những hình dung, cảm xúc và ý niệm đặc biệt trong lòng người đọc.
+ Phân tích kỹ thuật sử dụng của nhà thơ: Nghiên cứu sự sắp xếp của các yếu tố trên như âm điệu, kiểu câu, thể thơ và ngôn ngữ để hiểu cách mà nhà thơ sử dụng chúng để tạo ra tác động trực tiếp lên độc giả.
Câu 11:
18/07/2024Để nghe và tóm tắt nội dung thuyết trình về bài thơ, em cần chú ý những yêu cầu nào?
Để nghe và tóm tắt nội dung thuyết trình về một bài thơ, cần chú ý:
- Xác định rõ vấn đề và thời gian người nói sẽ trình bày.
- Tìm đọc trước bài thơ sẽ thuyết trình; tìm hiểu thêm thông tin về tác giả và một số ý kiến, bài viết xung quanh tác phẩm.
- Chuẩn bị các phương tiện để ghi chép và tóm tắt nội dung buổi thuyết trình như giấy, bút, sổ tay, máy tính cá nhân (nếu có).
- Biết tóm tắt bài thuyết trình theo một trình tự ba phần: mở đầu, phát triển và kết thúc; ghi chép những chỗ cần lưu ý, ý kiến khác biệt, vấn đề còn chưa hiểu để đề nghị người nói giải thích, trình bày thêm hoặc tham gia ý kiến khi thảo luận.
Câu 12:
18/07/2024Nội dung nói và nghe ở mục 2. Thực hành có liên quan như thế nào đến nội dung đọc hiểu và viết ở Bài 7? Kĩ năng nào cần chú trọng hơn?
Nội dung nói và nghe ở mục 2. Thực hành có liên quan đến nội dung đọc hiểu 1. Ở bài 7, học sinh học đọc hiểu bài thơ Vịnh khoa thi Hương của Trần Tế Xương, phần Viết có yêu cầu phân tích bài thơ này, trong đó tập trung làm rõ nghệ thuật trào phúng của tác giả. Nội dung phần Nói và nghe gần như đã có sẵn; chúng ta chỉ cần sắp xếp, điều chỉnh lại dàn ý đã làm trong phần Viết cho phù hợp với hoạt động nói và nghe. Chính vì thế, kĩ năng viết quan trọng hơn.
Câu 13:
22/07/2024Nêu các yêu cầu kiểm tra, chỉnh sửa của hoạt động nói và nghe cần chú ý trong tiết học này.
Các yêu cầu kiểm tra, chỉnh sửa của hoạt động nói và nghe cần chú ý trong tiết học này:
- Kiểm tra kỹ năng ngôn ngữ
- Kiểm tra khả năng hiểu
- Kiểm tra khả năng giao tiếp
- Chỉnh sửa lỗi sai
- Phát triển kỹ năng nghe