Nghị quyết 52-NQ/TW năm 2019 về chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư do Bộ Chinh trị ban hành
Số hiệu: | 52-NQ/TW | Loại văn bản: | Nghị quyết |
Nơi ban hành: | *** | Người ký: | Nguyễn Phú Trọng |
Ngày ban hành: | 27/09/2019 | Ngày hiệu lực: | 27/09/2019 |
Ngày công báo: | *** | Số công báo: | |
Lĩnh vực: | Đầu tư | Tình trạng: | Còn hiệu lực |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Mục tiêu của VN khi tham gia Cách mạng công nghiệp lần thứ IV
Nghị quyết 52-NQ/TW năm 2019 của Bộ Chính trị đề cập đến mục tiêu duy trì xếp hạng chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) trong công cuộc tham gia Cách mạng công nghiệp lần thứ IV.
Cụ thể, đến năm 2025, Việt Nam phải:
- Duy trì xếp hạng GII thuộc 3 nước dẫn đầu ASEAN.
- Xây dựng được hạ tầng số đạt trình độ tiên tiến của khu vực ASEAN; Internet băng thông rộng phủ 100% các xã.
- Kinh tế số chiếm khoảng 20% GDP; năng suất lao động tăng bình quân trên 7%/năm.
- Cơ bản hoàn thành chuyển đổi số trong các cơ quan đảng, nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội.
- Thuộc nhóm bốn nước dẫn đầu ASEAN trong xếp hạng chính phủ điện tử theo đánh giá của Liên hợp quốc.
- Có ít nhất ba đô thị thông minh tại ba vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, phía Nam và miền Trung.
Nghị quyết 52-NQ/TW ban hành ngày 27/9/2019.
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
BỘ CHÍNH TRỊ |
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM |
Số: 52-NQ/TW |
Hà Nội, ngày 27 tháng 9 năm 2019 |
VỀ MỘT SỐ CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH CHỦ ĐỘNG THAM GIA CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mở ra nhiều cơ hội, đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức đối với mỗi quốc gia, tổ chức và cá nhân; đã và đang tác động ngày càng mạnh mẽ đến tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội đất nước.
Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã lãnh đạo, chỉ đạo các cấp, các ngành đẩy mạnh ứng dụng, phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, nghiên cứu nắm bắt, nâng cao năng lực tiếp cận và chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành chỉ thị về nâng cao năng lực tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và phê duyệt Đề án thúc đẩy mô hình kinh tế chia sẻ. Trên cơ sở đó, các bộ, ngành và địa phương đã xây dựng và triển khai thực hiện một số chính sách nhằm thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp công nghệ thông tin, điện tử-viễn thông.
Cơ sở hạ tầng viễn thông được xây dựng khá đồng bộ. Kinh tế số được hình thành, phát triển nhanh, ngày càng trở thành bộ phận quan trọng của nền kinh tế; công nghệ số được áp dụng trong các ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ; xuất hiện ngày càng nhiều hình thức kinh doanh, dịch vụ mới, xuyên quốc gia, dựa trên nền tảng công nghệ số và Internet đang tạo nhiều cơ hội việc làm, thu nhập, tiện ích, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.
Việc xây dựng chính phủ điện tử, tiến tới chính phủ số được triển khai quyết liệt, bước đầu đạt được nhiều kết quả tích cực.
Tuy vậy, mức độ chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư của nước ta còn thấp. Thể chế, chính sách còn nhiều hạn chế và bất cập. Cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu.
Khoa học-công nghệ và đổi mới sáng tạo chưa thực sự là động lực phát triển kinh tế-xã hội; hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia mới được hình thành, chưa đồng bộ và hiệu quả.
Quá trình chuyển đổi số quốc gia còn chậm, thiếu chủ động do hạ tầng phục vụ quá trình chuyển đổi số còn nhiều hạn chế; nhiều doanh nghiệp còn bị động, năng lực tiếp cận, ứng dụng, phát triển công nghệ hiện đại còn thấp. Kinh tế số có quy mô còn nhỏ. Việc đấu tranh với tội phạm, bảo đảm an ninh mạng còn nhiều thách thức.
Những hạn chế nêu trên có những nguyên nhân chủ quan và khách quan; trong đó, nguyên nhân chủ quan là chính. Nhận thức về cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong hệ thống chính trị và toàn xã hội còn nhiều hạn chế, bất cập, chưa thống nhất. Khả năng phân tích, dự báo chiến lược về xu thế phát triển khoa học, công nghệ tác động đến đời sống kinh tế-xã hội của đất nước còn hạn chế.
Tư duy trong xây dựng và tổ chức thực hiện thể chế phù hợp với yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư chậm được đổi mới, sức ỳ còn lớn. Quản lý nhà nước còn nhiều bất cập, chưa theo kịp diễn biến thực tế. Sự phối hợp giữa các ban, bộ, ngành, giữa Trung ương với các địa phương chưa chặt chẽ; nhiều khó khăn, vướng mắc chậm được tháo gỡ.
II - Quan điểm chỉ đạo và mục tiêu
- Chủ động, tích cực tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là yêu cầu tất yếu khách quan; là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, gắn chặt với quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng; đồng thời nhận thức đầy đủ, đúng đắn về nội hàm, bản chất của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư để quyết tâm đổi mới tư duy và hành động, coi đó là giải pháp đột phá với bước đi và lộ trình phù hợp là cơ hội để Việt Nam bứt phá trong phát triển kinh tế-xã hội.
- Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang lại cả cơ hội và thách thức. Phải nắm bắt kịp thời, tận dụng hiệu quả các cơ hội để nâng cao năng suất lao động, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, hiệu lực, hiệu quả quản lý xã hội thông qua nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng mạnh mẽ các thành tựu tiên tiến của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cho các lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã hội, nhất là một số ngành, lĩnh vực trọng điểm, có tiềm năng, lợi thế để làm động lực cho tăng trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến cùng và vượt lên ở một số lĩnh vực so với khu vực và thế giới.
Chủ động phòng ngừa, ứng phó để hạn chế các tác động tiêu cực, bảo đảm quốc phòng, an ninh, an toàn, công bằng xã hội và tính bền vững của quá trình phát triển đất nước.
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư yêu cầu phải đổi mới tư duy về quản lý kinh tế, quản lý xã hội, xây dựng, hoàn thiện thể chế cho phù hợp. Cần có cách tiếp cận mở, sáng tạo, cho thí điểm đối với những vấn đề thực tiễn mới đặt ra, tạo mọi thuận lợi cho đổi mới sáng tạo. Tránh mọi biểu hiện bàng quan, thiếu tự tin, thụ động, nhưng không chủ quan, nóng vội, duy ý chí.
- Phát huy tối đa các nguồn lực, bảo đảm đủ nguồn lực cho việc chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, xác định nguồn lực bên trong là quyết định, chiến lược, cơ bản lâu dài; nguồn lực bên ngoài là quan trọng, đột phá, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh của toàn xã hội.
Mục tiêu tổng quát: Tận dụng có hiệu quả các cơ hội do cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đem lại để thúc đẩy quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với thực hiện các đột phá chiến lược và hiện đại hoá đất nước; phát triển mạnh mẽ kinh tế số; phát triển nhanh và bền vững dựa trên khoa học-công nghệ, đổi mới sáng tạo và nhân lực chất lượng cao; nâng cao chất lượng cuộc sống, phúc lợi của người dân; bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường sinh thái.
Một số mục tiêu cụ thể đến năm 2025: Duy trì xếp hạng về chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) thuộc 3 nước dẫn đầu ASEAN.
Xây dựng được hạ tầng số đạt trình độ tiên tiến của khu vực ASEAN; Internet băng thông rộng phủ 100% các xã. Kinh tế số chiếm khoảng 20% GDP; năng suất lao động tăng bình quân trên 7%/năm.
Cơ bản hoàn thành chuyển đổi số trong các cơ quan đảng, nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội. Thuộc nhóm bốn nước dẫn đầu ASEAN trong xếp hạng chính phủ điện tử theo đánh giá của Liên hợp quốc. Có ít nhất ba đô thị thông minh tại ba vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, phía Nam và miền Trung.
Một số mục tiêu cụ thể đến năm 2030: Duy trì xếp hạng về chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) thuộc nhóm 40 nước dẫn đầu thế giới. Mạng di động 5G phủ sóng toàn quốc; mọi người dân được truy cập Internet băng thông rộng với chi phí thấp.
Kinh tế số chiếm trên 30% GDP; năng suất lao động tăng bình quân khoảng 7,5%/năm. Hoàn thành xây dựng Chính phủ số. Hình thành một số chuỗi đô thị thông minh tại các khu vực kinh tế trọng điểm phía Bắc, phía Nam và miền Trung; từng bước kết nối với mạng lưới đô thị thông minh trong khu vực và thế giới.
Việt Nam trở thành một trong những trung tâm sản xuất và dịch vụ thông minh, trung tâm khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo thuộc nhóm dẫn đầu khu vực Châu Á; có năng suất lao động cao, có đủ năng lực làm chủ và áp dụng công nghệ hiện đại trong tất cả các lĩnh vực kinh tế-xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh.
III - Một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư
1. Đổi mới tư duy, thống nhất nhận thức, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy sự tham gia của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội
- Nâng cao nhận thức của các cấp uỷ đảng, chính quyền về sự cấp thiết phải chủ động tham gia tích cực và có hiệu quả cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, coi đó là một nhiệm vụ trọng tâm.
Gắn các mục tiêu, nhiệm vụ tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh của các cấp, các ngành.
- Xác định nội dung cốt lõi của chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư của nước ta là thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trên tất cả các ngành, lĩnh vực và thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia, trọng tâm là phát triển kinh tế số, xây dựng đô thị thông minh, chính quyền điện tử, tiến tới chính quyền số.
- Nhà nước ưu tiên chuyển giao và ứng dụng mạnh mẽ công nghệ mới trong các ngành, lĩnh vực; có trách nhiệm thúc đẩy nghiên cứu khoa học, công nghệ, tạo môi trường thuận lợi và hỗ trợ có trọng tâm, trọng điểm để người dân và doanh nghiệp là các chủ thể quyết định tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
- Phát huy sự tham gia có hiệu quả của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội, các đối tượng chịu tác động của chính sách vào quá trình hoạch định và giám sát thực thi các chính sách có liên quan đến cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Xây dựng cơ chế hợp tác giữa Nhà nước và các doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp trong xây dựng và thực thi các chính sách.
2. Hoàn thiện thể chế tạo thuận lợi cho chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và quá trình chuyển đổi số quốc gia
- Hoàn thiện pháp luật, trước hết là pháp luật về doanh nghiệp, khởi nghiệp sáng tạo, sở hữu trí tuệ, thương mại, đầu tư, kinh doanh để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chuyển đổi số quốc gia và phát triển các sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh tế mới dựa trên nền tảng công nghệ số, Internet và không gian mạng; đồng thời ngăn chặn kịp thời các tác động tiêu cực cả về kinh tế và xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội trên không gian mạng.
Bổ sung một số ngành nghề kinh doanh mới được ưu đãi đầu tư để thúc đẩy tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Có cơ chế cho doanh nghiệp nhà nước thực hiện đầu tư nghiên cứu phát triển công nghệ, đầu tư mạo hiểm, đầu tư vào khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.
- Xây dựng cơ chế quản lý phù hợp với môi trường kinh doanh số, tạo thuận lợi cho đổi mới sáng tạo. Sớm ban hành khung thể chế thử nghiệm có kiểm soát đối với các công nghệ, sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh doanh mới hình thành từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Quy định rõ phạm vi không gian và thời gian thử nghiệm.
Nghiên cứu, xây dựng các khu thử nghiệm dành cho doanh nghiệp công nghệ theo mô hình tiên tiến của thế giới. Thực hiện định danh, công nhận, xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn đối với các sản phẩm, công nghệ, mô hình kinh doanh mới.
- Chủ động tham gia vào các khuôn khổ pháp lý khu vực và toàn cầu để phát triển kinh tế số. Hoàn thiện pháp luật, chính sách về dữ liệu, quản trị dữ liệu, tạo thuận lợi cho việc tạo dựng, kết nối, chia sẻ và khai thác dữ liệu bảo đảm an toàn, an ninh mạng trong nước, tiến tới kết nối với khu vực ASEAN và quốc tế. Xây dựng hành lang pháp lý cho định danh số và xác thực điện tử quốc gia; thiết lập khung danh tính số quốc gia.
- Hoàn thiện các chính sách tài chính nhằm khuyến khích, huy động mọi nguồn lực xã hội đầu tư cho các hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển và ứng dụng công nghệ, đổi mới sáng tạo. Sửa đổi các quy định về đầu tư theo hướng tạo thuận lợi cho các hoạt động thu hút vốn, mua cổ phần, mua bán sáp nhập doanh nghiệp công nghệ; các nhà đầu tư nước ngoài góp vốn vào các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo.
- Hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ, bảo hộ và khai thác hiệu quả, hợp lý các tài sản trí tuệ do Việt Nam tạo ra; khuyến khích thương mại hoá và chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt là đối với các sáng chế tại Việt Nam trên cơ sở tuân thủ pháp luật trong nước và bảo đảm lợi ích an ninh quốc gia. Khuyến khích các công ty đa quốc gia đặt các cơ sở nghiên cứu và phát triển tại Việt Nam.
- Hoàn thiện pháp luật, chính sách về tài chính-tiền tệ, thanh toán điện tử, quản lý thuế và các dịch vụ xuyên biên giới phù hợp với xu thế phát triển của kinh tế số. Hoàn thiện chính sách đặt hàng sản xuất và mua sắm công đối với các sản phẩm công nghệ số do Việt Nam sản xuất.
- Ban hành các chính sách hạn chế các tác động tiêu cực của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Tạo lập hành lang pháp lý cho việc triển khai các mô hình lao động, việc làm mới trên nền tảng công nghệ số và hoàn thiện chính sách an sinh xã hội phù hợp với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, xử lý kịp thời các thách thức đặt ra đối với phát triển xã hội.
Thúc đẩy việc tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư để giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu và nước biển dâng.
- Xây dựng và triển khai Chiến lược quốc gia về phát triển các doanh nghiệp công nghệ, ưu tiên phát triển các doanh nghiệp công nghệ số, doanh nghiệp công nghệ cao thực hiện thiết kế, sáng tạo và sản xuất tại Việt Nam.
- Xây dựng, hoàn thiện khung pháp lý về phát triển đô thị thông minh bền vững; hệ thống các tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia; hệ thống hạ tầng dữ liệu, hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động của đô thị thông minh.
Xác định rõ lộ trình thí điểm và lựa chọn các đô thị thí điểm đô thị thông minh; cho phép thực hiện thí điểm một số cơ chế đặc thù trong quá trình triển khai thí điểm phát triển đô thị thông minh bảo đảm tính hiệu quả và phù hợp với điều kiện thực tế.
3. Chính sách phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu
- Triển khai băng thông rộng chất lượng cao trên phạm vi toàn quốc. Khuyến khích doanh nghiệp tư nhân có đủ năng lực tham gia xây dựng hạ tầng viễn thông và các hạ tầng khác cho chuyển đổi số quốc gia.
- Xây dựng và phát triển đồng bộ hạ tầng dữ liệu quốc gia. Hình thành hệ thống trung tâm dữ liệu quốc gia, các trung tâm dữ liệu vùng và địa phương kết nối đồng bộ và thống nhất. Hình thành các hệ thống dữ liệu tin cậy, ổn định của Nhà nước và doanh nghiệp. Đầu tư trang bị các hệ thống thiết bị thu thập, lưu trữ, xử lý, bảo vệ dữ liệu công.
- Quy hoạch xây dựng hạ tầng thanh toán số quốc gia theo hướng đồng bộ, thống nhất, dùng chung, tận dụng và khai thác có hiệu quả hạ tầng mạng lưới viễn thông để triển khai các dịch vụ thanh toán cho người dân với chi phí thấp.
Hoàn thiện cơ chế, chính sách thúc đẩy mạnh mẽ thanh toán không dùng tiền mặt. Khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam xây dựng các hệ thống thanh toán số. Quản lý và kiểm soát chặt chẽ các hình thức thanh toán trực tuyến qua biên giới.
- Đầu tư nâng cấp hạ tầng kỹ thuật bảo đảm an toàn, an ninh mạng. Xây dựng và triển khai có hiệu quả Nghị quyết số 30-NQ/TW, ngày 25/7/2018 của Bộ Chính trị về Chiến lược an ninh mạng quốc gia.
- Nâng cấp hạ tầng các ngành, lĩnh vực quan trọng, thiết yếu đồng bộ, hiện đại đáp ứng yêu cầu áp dụng công nghệ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, trước hết là hạ tầng năng lượng và giao thông. Bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia.
4. Chính sách phát triển và nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo quốc gia
- Cơ cấu lại toàn diện hệ thống các cơ sở nghiên cứu khoa học công nghệ công lập. Xây dựng và phát triển các trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia, tập trung vào các công nghệ cốt lõi của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Nâng cao hiệu quả đầu tư công cho hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ trên cơ sở áp dụng mô hình quản trị mới theo thông lệ tốt của thế giới.
- Áp dụng các cơ chế, chính sách đặc biệt, có tính đột phá đối với các trung tâm đổi mới sáng tạo. Phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia theo hướng lấy doanh nghiệp làm trung tâm, trường đại học và viện nghiên cứu là chủ thể nghiên cứu mạnh. Khuyến khích các trường đại học, doanh nghiệp, tổ chức trong nước và nước ngoài thành lập các trung tâm đổi mới sáng tạo tại Việt Nam.
- Ban hành hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia làm nền tảng cho việc ứng dụng và phát triển các công nghệ cốt lõi của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong sản xuất và đời sống.
Tạo lập đồng bộ và kịp thời khung pháp lý và hệ thống các chính sách để triển khai và phát triển các công nghệ mới. Xây dựng và triển khai các chương trình hỗ trợ các doanh nghiệp nghiên cứu và ứng dụng công nghệ, thực hiện chuyển đổi số, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế.
- Hoàn thiện mô hình và cơ chế, chính sách để tạo sự phát triển đột phá đối với các khu công nghệ cao. Trên cơ sở các khu công nghệ cao Hoà Lạc (Hà Nội), Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh, phát triển các khu đô thị sáng tạo đạt đẳng cấp quốc tế. Thúc đẩy phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo, đẩy nhanh thành lập các trung tâm khởi nghiệp sáng tạo quốc gia, trước mắt tại Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh.
5. Chính sách phát triển nguồn nhân lực
- Rà soát tổng thể, thực hiện đổi mới nội dung và chương trình giáo dục, đào tạo theo hướng phát triển năng lực tiếp cận, tư duy sáng tạo và khả năng thích ứng với môi trường công nghệ liên tục thay đổi và phát triển; đưa vào chương trình giáo dục phổ thông nội dung kỹ năng số và ngoại ngữ tối thiểu.
Đổi mới cách dạy và học trên cơ sở áp dụng công nghệ số; lấy đánh giá của doanh nghiệp làm thước đo cho chất lượng đào tạo của các trường đại học trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Khuyến khích các mô hình giáo dục, đào tạo mới dựa trên các nền tảng số.
- Có cơ chế khuyến khích và ưu đãi đối với các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp công nghệ tham gia trực tiếp vào quá trình giáo dục và đào tạo, tạo ra sản phẩm phục vụ cho nền kinh tế số. Xây dựng một số trung tâm giáo dục, đào tạo xuất sắc về công nghệ theo hình thức hợp tác công-tư. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, thu hút, sử dụng nhân tài, nguồn nhân lực chất lượng cao.
- Phát triển mạnh đào tạo nghề và hỗ trợ đào tạo kỹ năng cho chuyển đổi công việc. Nhà nước có chính sách hỗ trợ cho người lao động khi tham gia đào tạo lại, đào tạo nâng cao chuyên môn và kỹ năng để chuyển đổi công việc.
- Hình thành mạng học tập mở của người Việt Nam. Thực hiện theo lộ trình phổ cập kỹ năng số, kỹ năng bảo đảm an toàn, an ninh mạng đạt trình độ cơ bản cho người dân. Đẩy mạnh công tác truyền thông, nâng cao nhận thức, xây dựng văn hoá số trong cộng đồng.
6. Chính sách phát triển các ngành và công nghệ ưu tiên
- Tập trung phát triển các ngành ưu tiên có mức độ sẵn sàng cao như công nghiệp công nghệ thông tin, điện tử-viễn thông; an toàn, an ninh mạng; công nghiệp chế tạo thông minh; tài chính-ngân hàng; thương mại điện tử; nông nghiệp số; du lịch số; công nghiệp văn hoá số; y tế; giáo dục và đào tạo.
- Ưu tiên nguồn lực cho triển khai một số chương trình nghiên cứu trọng điểm quốc gia về các công nghệ ưu tiên, trọng tâm là công nghệ thông tin và truyền thông, cơ điện tử, công nghệ mới trong lĩnh vực năng lượng, trí tuệ nhân tạo, công nghệ sinh học, điện tử y sinh.
- Nhà nước thực hiện chính sách hỗ trợ các ngành và công nghệ ưu tiên chủ yếu thông qua đổi mới, hoàn thiện thể chế, tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi; hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng; phát triển nguồn nhân lực; phát triển khoa học và công nghệ; đặt hàng mua sắm công.
7. Chính sách hội nhập quốc tế
- Mở rộng và làm sâu sắc hơn hợp tác về khoa học, công nghệ với các đối tác, đặc biệt là các nước đối tác chiến lược có trình độ khoa học công nghệ tiên tiến, đang đi đầu trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Chủ động tham gia mạng lưới đổi mới sáng tạo toàn cầu.
- Đẩy mạnh thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn lực từ nước ngoài và các đối tác quốc tế cho hoạt động nghiên cứu, ứng dụng, đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp sáng tạo, chuyển giao công nghệ.
- Hoàn thiện luật pháp, chính sách về đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng nâng cao tiêu chuẩn công nghệ, khuyến khích hình thức liên doanh và tăng cường liên kết, chuyển giao công nghệ giữa doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài; quản lý chặt chẽ hoạt động của các doanh nghiệp dựa trên nền tảng cung cấp dịch vụ xuyên quốc gia để bảo đảm môi trường kinh doanh bình đẳng trong nước. Hoàn thiện các quy định pháp luật về đầu tư mạo hiểm có vốn nước ngoài.
8. Chính sách thúc đẩy chuyển đổi số trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội
- Tiên phong thực hiện chuyển đổi số mạnh mẽ trong các cơ quan đảng, Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội bảo đảm thống nhất, kết nối liên thông và đồng bộ.
- Xây dựng cơ sở dữ liệu số của Chính phủ và các cấp chính quyền, tạo điều kiện để mọi công dân có thể cập nhật thông tin cần thiết về hoạt động của bộ máy nhà nước. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng thu thập, quản lý dữ liệu và giao dịch trên nền tảng Internet ở các cơ quan nhà nước.
- Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; chuẩn hoá và tăng cường năng lực đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước các cấp.
Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong thực hiện chuyển đổi số. Hoàn thiện các quy trình, thủ tục hành chính phù hợp với hoạt động của chính quyền số, cắt giảm tối đa giao dịch trực tiếp.
1. Các tỉnh ủy, thành ủy, ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung ương tổ chức học tập, quán triệt Nghị quyết tới cán bộ, đảng viên; xây dựng chương trình, kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết.
2. Đảng đoàn Quốc hội lãnh đạo nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật để tạo thuận lợi cho tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư theo tinh thần của Nghị quyết; ban hành một số cơ chế thử nghiệm có kiểm soát để khuyến khích phát triển các sản phẩm, dịch vụ và mô hình kinh doanh mới của nền kinh tế số.
3. Ban cán sự đảng Chính phủ lãnh đạo xây dựng và triển khai Chiến lược quốc gia về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; ban hành, triển khai Đề án chuyển đổi số quốc gia và các đề án, chương trình, kế hoạch tham gia Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; chỉ đạo xây dựng trình cấp có thẩm quyền ban hành cơ chế, chính sách thử nghiệm có kiểm soát đối với các sản phẩm, mô hình, kinh doanh mới. Ưu tiên bố trí đủ nguồn lực thực hiện các nhiệm vụ nêu trong Nghị quyết.
4. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị-xã hội xây dựng chương trình, kế hoạch giám sát việc thực hiện Nghị quyết.
5. Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì, phối hợp với Ban Kinh tế Trung ương và các cơ quan liên quan hướng dẫn việc quán triệt thực hiện Nghị quyết.
6. Ban Kinh tế Trung ương chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan thường xuyên theo dõi, giám sát, kiểm tra, đôn đốc triển khai thực hiện Nghị quyết; định kỳ sơ kết, tổng kết việc thực hiện, báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
|
T/M BỘ CHÍNH TRỊ |
THE POLITBURO |
COMMUNIST PARTY OF VIETNAM |
No. 52-NQ/TW |
Hanoi, September 27, 2019 |
POLICIES AND REGULATIONS ON ACTIVE PARTICIPATION IN THE FOURTH INDUSTRIAL REVOLUTION
The Fourth Industrial Revolution has given way to various opportunities as well as multiple challenges in every nation, organization, and person; has been increasingly affecting all aspects of socio-economic life of Vietnam.
In recent years, the Communist Party and the Government have coordinated governments of all levels to promote application and development of science, technology, renovation, research, and improvement of accessibility and participation in the Fourth Industrial Revolution.
The Prime Minister already promulgated directive pertaining to improvement of accessibility to the Fourth Industrial Revolution and approved the Scheme promoting the sharing economy. On such a basis, ministries, departments, and local governments have developed and implemented several policies so as to promote the development of information technology, electronic-telecommunication.
Telecommunication infrastructures are built relatively consistently. Digital economy is being rapidly formed and developed and is becoming an important part of the economy; digital technology is being applied in industry, agriculture, and services; more and more new, transnational, digital technology-based business models and services are created and the Internet is creating more and more jobs, income, features, and quality of life for the general public.
The development of e-Government while moving towards digital government is being extensively implemented and has yielded positive results as of initial stages.
However, the level of active participation in the Fourth Industrial Revolution of Vietnam remains low. Institutions and policies are plagued with drawbacks and limitations. Personnel compositions and quality have yet to meet the demands.
Science technology and innovation are yet the drive for socio-economic development; the newly formed national innovation system is inconsistent and ineffective.
The national digital transformation process remains slow and passive due to limited infrastructures serving digital transformation; multiple enterprises are rather passive, have low capacity for accessing, applying, and developing modern technology. Digital economy remains in small scale. Fighting against crimes and ensuring cybersecurity are plagued with challenges.
The aforementioned limitations are caused by both objective and subjective reasons with the latter being dominant. Awareness pertaining to the Fourth Industrial Revolution among the political system and society are faced with multiple limitations, drawbacks, and inconsistencies. The ability to analyze and strategically forecast science and technology development trends that affect socio-economic life of Vietnam remains limited.
The mindset required in developing and organizing institutions fulfilling demands of the Fourth Industrial Revolution is not renovated in a timely fashion and remains sluggish. State management are faced with various difficulties and behind on real life situations. Cooperation between ministries, departments, between central authorities and local authorities is not strict enough. Difficulties and drawbacks are not resolved in a timely fashion.
II - Principles and objectives
1. Principles
- Active participation in the Fourth Industrial Revolution is an inevitably subjective requirement, a strategically important task of both the short term and the long term of the entire political system and society, associated with comprehensive international integration. Adequate awareness pertaining to the nature of the Fourth Industrial Revolution in order to renovate mindset and action and deeming it the groundbreaking solution with appropriate step and roadmap are chances for Vietnam to make breakthroughs in socio-economic development.
- The Fourth Industrial Revolution brings both challenges and chances. It is necessary to promptly seize and effectively utilize opportunities to improve working effectiveness and productivity, competitiveness of the economy, effect, effectiveness of social management via researching, transferring, and extensively applying achievements of the Fourth Industrial Revolution in various aspects of the socio-economic life, especially key and potential sectors that serve as the drive for growth in order to catch up, improve along, and exceed certain aspects compared to the region and the world.
Actively prevent and adapt in order to minimize any negative effects; ensure national defense, security, social safety and justice, and strength of country’s development process.
The Fourth Industrial Revolution requires renovating economic management, social management, and appropriate institution development. An open, creative, and pilot approach to new practice issues is required to facilitate innovation. Avoid all signs of indifference, lack of confidence, and passivity without being careless, hasty, or volatile.
- Maximize all resources; ensure sufficient resources for active participation in the Fourth Industrial Revolution, deem the internal resources to be decisive, strategic, and long-term while the external resources to be important, ground-breaking, and securing coordination of the Communist Party and Government.
2. Objectives
General objectives: Effectively utilize opportunities brought by the Fourth Industrial Revolution to promote a reform of growth model, restructuring of the economy, strategic breakthroughs, and modernization of the country; extensively develop digital economy; rapidly and sustainably develop based on science, technology, innovation, and highly skilled labor; improve quality of life, well-being of the general public; ensure national defense, security, and protection of the ecosystem.
Specific tasks by 2025: Maintain Vietnam’s ranking in the top 3 ASEAN countries based on Global Innovation Index (GII).
Develop digital infrastructure to advanced level of the ASEAN; cover all communes with broadband Internet. Digital economy accounts for approximately 20% GDP; work productivity increases by more than 7%/year on average.
Essentially finish digital transformation within agencies of the Communist Party, the Government, Vietnamese Fatherland Front, and socio-political organizations. Vietnam is ranked among the top 4 ASEAN countries for e-Government ranking according to assessment of the United Nations. Vietnam has at least 3 smart cities in 3 key economic zones in the Northern region, the Southern region, and the Central highlands.
Specific tasks by 2030: Maintain Vietnam’s ranking among the world’s top 40 countries based on GII. 5G network coverage reaches a nationwide level; all people have access to low-cost broadband Internet.
Digital economy accounts for approximately 30% GDP; work productivity increases by more than 7,5%/year on average. Complete the development of digital Government. Form a series of smart cities in 3 key economic zones in the Northern region, the Southern region, and the Central highlands; gradually connect to smart city network in the region and around the world.
3. Vision until 2045
Vietnam becomes one of the leading smart manufacturing and service centers, startup and innovation centers in Asia; Vietnam has high work, sufficient capacity to master and apply modern technology in all socio-economic, environmental, national defense and security aspects.
III - Policies and regulations on active participation in the Fourth Industrial Revolution
1. Innovate mindset, unify awareness, and increase leadership of the Communist Party, management of the Government, participation of the Vietnamese Fatherland Front and socio-political organizations.
- Raise awareness of committee levels of the Communist Party and governments pertaining to the need for active and effective participation in the Fourth Industrial Revolution and consider it a primary task.
Associate targets and tasks relating to participation in the Fourth Industrial Revolution with socio-economic development, environmental protection, national defense and security tasks and objectives.
- Identify the core content of the policies on active participation in the Fourth Industrial Revolution as promoting science and technology development and innovation in all sectors and fields and promoting national digital transformation, which prioritizes development of digital economy, smart cities, e-Government and moves toward digital government.
- The Government prioritizes extensive transfer and application of new technologies in various sectors and fields; is responsible for promoting science and technology research, facilitating, providing targeted support to allow the general public and enterprises to decide on participation in the Fourth Industrial Revolution.
- Utilize effective participation of the Vietnamese Fatherland Front, socio-political organizations, entities affected by the policies in the process of making and supervising implementation of policies pertaining to the Fourth Industrial Revolution. Develop cooperation regulations between the Government and enterprises, business associations in developing and implementing policies.
2. Develop regulations to facilitate active participation in the Fourth Industrial Revolution and national digital transformation
- Improve regulations, especially regulations on enterprises, business startup, intellectual property, commerce, investment, and business to facilitate national digital transformation and develop products, services, new economic models based on digital platform; promptly prevent any negative impact, in both economic and social aspects, ensure national security, defense, social order and safety on cyberspace.
Add new lines of business benefiting from investment incentives to promote participation in the Fourth Industrial Revolution. Develop regulations to allow state-owned enterprises to invest in technology development, make risky investment, and invest in business startup and innovation.
- Develop appropriate management regulations for digital economic and facilitate innovation. Promulgate controlled testing framework for technologies, products, services, and new business models created from the Fourth Industrial Revolution. Regulate time and space constraints of the test.
Research and develop testing grounds for technology enterprises using advanced models around the world. Identify, acknowledge, and develop systems of standards and regulations for new products, technologies, and business models.
- Actively participate in regional and global legal frameworks in order to develop digital economy. Develop regulations and policies pertaining to data, data administration, facilitate the creation, connection, sharing, and extraction of data in a manner that guarantees safety and cybersecurity in Vietnam and aim to connect to ASEAN and the world. Develop legal framework for digital identification and national digital verification; establish national digital identification framework.
- Develop financial regulations to encourage social resources to invest in scientific research, development and application of technology and innovation. Amend regulations on investment in order to facilitate capital attraction, share purchase, sale, merger, acquisition of technology enterprises; enable foreign investors to contribute capital in startup businesses.
- Develop regulations on intellectual property rights, protection and effectively utilization of intellectual properties created by Vietnam; encourage commercialization and transfer of intellectual property rights, especially inventions in Vietnam on the basis of compliance with Vietnam’s regulations and law while maintaining national security. Encourage multinational companies to locate their research and development facilities in Vietnam.
- Develop regulations and policies pertaining to finance-monetary, electronic payment, tax administration, and cross-border services that fit digital economy development trend. Develop regulations on order placement for manufacturing and public procurement with respect to digital products manufactured by Vietnam.
- Promulgate policies to limit negative impact of the Fourth Industrial Revolution.
Create legal framework to enable implementation of new employment models and jobs on digital platform and finalize social security policies to suit the Fourth Industrial Revolution and promptly deal with difficulties in social development.
Promote participation in the Fourth Industrial Revolution to deal with environmental pollution, climate change, and rising sea level.
- Develop and implement the National strategy for developing technology enterprises, prioritizing digital technology enterprises, hi-tech enterprises that design, create, and manufacture in Vietnam.
- Develop and improve legal framework pertaining to sustainable smart city development; systems of national standards and regulations; data infrastructure system and assessment indicators of smart city effectiveness.
Identify roadmap for pilot implementation and select cities for pilot implementation of smart cities; permit pilot implementation of specific mechanisms while carrying out pilot implementation of smart cities in a manner that guarantees effectiveness and sticks to practical conditions.
3. Essential infrastructure development policies
- Implement high quality broadband across Vietnam. Encourage eligible private enterprises to develop telecommunication infrastructures and other infrastructures serving national digital transformation.
- Develop and improve national data infrastructures synchronously. Create national data centers, regional data centers, and local data centers which are connected synchronously and consistently. Form reliable and stable data systems of the Government and enterprises. Invest and equip systems, instruments that collect, store, process, and protect public data.
- Produce planning for development of national digital payment platform in a synchronous, consistent, common manner, utilize and effectively operate telecommunication network in order to provide low-cost payment services for the general public.
Develop regulations and policies to extensively promote cashless payment. Encourage Vietnamese enterprises to develop digital payment systems. Manage and closely control cross-border payment methods.
- Invest in upgrading technical infrastructures in order to ensure cybersecurity and safety. Develop and effectively implement Resolution No. 30-NQ/TW dated July 25, 2018 of the Politburo on National cybersecurity strategy.
- Upgrade infrastructures of essential and important sectors to stay consistent and modern, fulfill technology application requirements of the Fourth Industrial Revolution, especially energy and traffic. Ensure stability of national energy security.
4. National innovation development and improvement policies
- Restructure all public science and technology research facilities. Develop and improve national innovation centers, prioritizing core technologies of the Fourth Industrial Revolution. Improve effectiveness of public investment made for science and technology research on the basis of applying new administration model in accordance with worldwide good practices.
- Adopt specific and ground-breaking regulations, policies in regard to innovation centers. Develop national innovation centers with enterprises act as the center, universities and research institutes act as researchers. Encourage domestic and foreign universities, enterprises, organizations to establish innovation centers in Vietnam.
- Promulgate national standards and regulations to serve as the basis for applying and developing core technologies of the Fourth Industrial Revolution in production and in life.
Promptly and synchronously create legal framework and policies to implement and develop new technologies. Develop and implement programs to assist enterprises in researching, applying technology, performing digital transformation, improving productivity, effectiveness, and competitiveness of the economy.
- Improve models, regulations, and policies to make breakthroughs in regard to hi-tech zones. Based on Hoa Lac hi-tech zone (Hanoi) and hi-tech zones in Da Nang and Ho Chi Minh City, develop innovative cities of international standards. Promote development of startup ecosystem; promote establishment of national startup centers, for the time being, in Hanoi, Da Nang, and Ho Chi Minh City.
5. Human resource development policies
- Review and renovate education and training contents, programs by improving accessibility, creativity, and adaptability to an ever changing and developing technology environment; integrate digital skills and mandatory foreign language(s) in full-time education programs.
Renovate teaching and learning methods by applying digital technology; use corporate assessment as the measurement for training quality of universities pertaining to the field of information technology. Encourage new education and training models based on digital platforms.
- Develop incentive and preferential regulations for technology organizations, individuals, and enterprises to directly engage in education and training, and create products serving digital economy. Build advanced technology education and training centers in public-private partnership model. Improve regulations and policies encouraging, attracting, and using skilled labor and highly skilled labor.
- Extensively develop vocational training and training to assist career change. The Government promulgates policies assisting employees who undergo retraining, refresher training, advanced training, and skill training for career change.
- Create open learning network for Vietnamese nationals. Comply with the roadmap for popularizing basic digital knowledge, cybersecurity and safety skills for the general public. Promote communication, raise awareness, and develop digital culture in the community.
6. Priority sector and technology development policies
- Focus on developing priority sectors with high availability such as communication, electronic-telecommunication; cybersecurity and safety; smart manufacturing industry; finance-banking; e-commerce; digital agriculture; digital tourism; digital culture; medical; education and training.
- Prioritize resources for implementation of research programs of national importance pertaining to priority technologies, especially information technology and communication, mechatronic, new technologies in energy, artificial intelligence, biotechnology, biomedical electronics.
- The Government shall implement policies assisting sectors and priority technologies primarily via renovating, improving institutions, creating favorable business environment; assisting investment in infrastructures; developing human resources; developing science and technology; placing order for public procurement.
7. International integration policies
- Expand and deepen science and technology cooperation with other partners, especially strategic partners with advanced science and technology leading in the Fourth Industrial Revolution. Actively engage in global innovation network.
- Promote attraction and effective use of foreign resources and international partners for the purpose of research, application, innovation, business startup, and technology transfer.
- Improve regulations and policies pertaining to outward investment by raising technology standards, encouraging joint ventures, increasing connection and transfer of technologies between domestic enterprises and enterprises making outward investment; closely manage operation of enterprises based on cross-border service provider platform in order to maintain equal business environment in Vietnam. Improve regulations on risky investment with foreign capital.
8. Policies promoting digital transformation in agencies of the Communist Party, the Government, the Vietnamese Fatherland Front, and socio-political organizations
- Pioneer extensive digital transformation in agencies of the Communist Party, the Government, the Vietnamese Fatherland Front, and socio-political organizations in a consistent, coherent, and synchronous manner.
- Develop digital database of the Government and governments of all levels; enable the general public to update necessary information on operation of the government apparatus. Invest in developing infrastructures for collecting, managing data and transactions on the Internet in all government authorities.
- Prioritize developing public officials, officials, and public employees satisfying requirements of the Fourth Industrial Revolution; standardize and improve capacity of state officials of all levels.
Clarify functions, tasks, and regulations on cooperation between state authorities in digital transformation. Improve administrative procedures in order to suit operation of digital government and minimize any in-person affairs.
IV - Organizing implementation
1. Communist Party committees of provinces, cities, Communist Party designated representation, Communist Party committees affiliated to central government shall learn, popularize this Resolution to their officials and Communist Party members; develop programs and plans for implementing the Resolution.
2. The National Assembly Communist Party shall take charge researching, amending, and improving regulations and law to facilitate participation in the Fourth Industrial Revolution in accordance with the Resolution; promulgate regulations on controlled testing to encourage development of new products, services, and business models of digital economy.
3. The Communist Party designated representation of the Government shall take charge developing and implementing the National strategy for the Fourth Industrial Revolution; promulgate and implement the Scheme for national digital transformation and schemes, programs, plans for participation in the Fourth Industrial Revolution; develop and request competent bodies to promulgate regulations, policies on controlled testing of new projects, models, and businesses. Prioritize allocating sufficient resources for implementation of the tasks mentioned under the Resolution.
4. The Vietnamese Fatherland Front and socio-political organizations shall develop programs and plans for supervising implementation of the Resolution.
5. Communist Party Central Committee’s Publicity and Education Commission shall take charge and cooperate with Communist Party Central Committee’s Economic Commission and relevant authorities in guiding popularization of implementation of the Resolution.
6. Communist Party Central Committee’s Economic Commission shall take charge and cooperate with relevant authorities in regularly monitoring, supervising, inspecting, and encouraging implementation of the Resolution; periodically organizing preliminary assessment and final assessment of the implementation, and submitting reports to the Politburo and Communist Party Central Committee’s Executive Secretary.
|
ON BEHALF OF THE POLITBURO |
Tình trạng hiệu lực: Còn hiệu lực