Nghị quyết số 110/2015/QH13 của Quốc hội: Về việc thi hành Bộ Luật Tố tụng hình sự
Số hiệu: | 110/2015/QH13 | Loại văn bản: | Nghị quyết |
Nơi ban hành: | Quốc hội | Người ký: | Nguyễn Sinh Hùng |
Ngày ban hành: | 27/11/2015 | Ngày hiệu lực: | 27/11/2018 |
Ngày công báo: | 31/12/2015 | Số công báo: | Từ số 1275 đến số 1276 |
Lĩnh vực: | Trách nhiệm hình sự, Thủ tục Tố tụng | Tình trạng: | Còn hiệu lực |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Nghị quyết 110/2015/QH13 về thi hành Bộ luật tố tụng hình sự với các quy định về những tố giác, tin báo về tội phạm; tạm giam bị can, bị cáo; thời hạn điều tra vụ án hình sự; thủ tục rút gọn vụ án HS; người bào chữa;... do Quốc hội ban hành ngày 27/11/2015.
Kể từ ngày Bộ luật tố tụng hình sự số 101/2015/QH13 có hiệu lực (ngày 01/7/2016):
- Theo Nghị quyết 110, đối với những vụ án do Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án đang thụ lý, giải quyết theo thẩm quyền quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự 2003 nhưng đến ngày 01/7/2016 chưa kết thúc thì thẩm quyền giải quyết tiếp tục được áp dụng theo Bộ luật TTHS năm 2003 cho đến khi kết thúc vụ án, còn các vấn đề khác được thực hiện theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;
- Đối với những tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố đang trong quá trình kiểm tra, xác minh nhưng đến ngày 01/7/2016 chưa kết thúc thì thời hạn giải quyết được tính theo thời hạn của Bộ luật tố tụng hình sự 2015;
- Đối với những vụ án hình sự do cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra đang tiến hành điều tra nhưng đến ngày 01/7/2016 chưa kết thúc điều tra thì thời hạn điều tra được thực hiện theo Bộ luật TTHS năm 2015;
- Nghị quyết số 110/2015 quy định: Đối với những vụ án hình sự đang trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử theo thủ tục rút gọn nhưng đến ngày 01/7/2016 chưa kết thúc điều tra, chưa quyết định việc truy tố hoặc chưa đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm thì thời hạn điều tra, truy tố, xét xử được tính theo thời hạn của Bộ luật 101/2015/QH13.
Theo Nghị quyết số 110 năm 2015, đối với những bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị trước ngày 01/7/2016 và thuộc trường hợp tại khoản 2 Điều 456 của Bộ luật tố tụng HS năm 2015 nhưng kể từ ngày 01/7/2016 mới xét xử thì áp dụng thủ tục rút gọn theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;
- Đối với những trường hợp đã được cấp giấy chứng nhận người bào chữa theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì người bào chữa tiếp tục sử dụng cho đến khi kết thúc việc bào chữa;
Nghị quyết 110 có hiệu lực từ ngày 27/11/2015.
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
QUỐC HỘI |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Nghị quyết số: 110/2015/QH13 |
Hà Nội, ngày 27 tháng 11 năm 2015 |
VỀ VIỆC THI HÀNH BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
QUỐC HỘI
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
QUYẾT NGHỊ:
Kể từ ngày Bộ luật tố tụng hình sự số 101/2015/QH13 (sau đây gọi là Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015) có hiệu lực thi hành (ngày 01 tháng 7 năm 2016):
1. Đối với những vụ án do Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án đang thụ lý, giải quyết theo thẩm quyền quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự số 19/2003/QH11 (sau đây gọi là Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003) nhưng đến ngày 01 tháng 7 năm 2016 chưa kết thúc thì thẩm quyền giải quyết tiếp tục được áp dụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 cho đến khi kết thúc vụ án, còn các vấn đề khác được thực hiện theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;
2. Đối với những tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố đang trong quá trình kiểm tra, xác minh nhưng đến ngày 01 tháng 7 năm 2016 chưa kết thúc thì thời hạn giải quyết được tính theo thời hạn của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;
3. Đối với những bị can, bị cáo đang bị tạm giam theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 nhưng đến ngày 01 tháng 7 năm 2016 không được tạm giam theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 hoặc thời hạn tạm giam vượt quá thời hạn theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thì Viện kiểm sát, Tòa án quyết định hủy bỏ biện pháp tạm giam đang áp dụng hoặc thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;
4. Đối với những vụ án hình sự do cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra đang tiến hành điều tra nhưng đến ngày 01 tháng 7 năm 2016 chưa kết thúc điều tra thì thời hạn điều tra được thực hiện theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;
5. Đối với những vụ án hình sự đang trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử theo thủ tục rút gọn nhưng đến ngày 01 tháng 7 năm 2016 chưa kết thúc điều tra, chưa quyết định việc truy tố hoặc chưa đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm thì thời hạn điều tra, truy tố, xét xử được tính theo thời hạn của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Đối với những bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị trước ngày 01 tháng 7 năm 2016 và thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 456 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 nhưng kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2016 mới xét xử thì áp dụng thủ tục rút gọn theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 để giải quyết;
6. Đối với những vụ án hình sự đã xét xử sơ thẩm theo quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 mà có kháng cáo, kháng nghị trước ngày 01 tháng 7 năm 2016 nhưng kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2016 mới xét xử phúc thẩm thì áp dụng Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 để giải quyết.
Đối với bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 mà có kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trước ngày 01 tháng 7 năm 2016 nhưng chưa giải quyết hoặc kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2016 mới có kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm thì áp dụng Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 để giải quyết;
7. Đối với những trường hợp đã được cấp giấy chứng nhận người bào chữa theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì người bào chữa tiếp tục sử dụng cho đến khi kết thúc việc bào chữa;
8. Tòa án tiếp tục áp dụng các quy định pháp luật hiện hành về án phí, lệ phí Tòa án và các chi phí tố tụng khác cho đến khi có quy định mới của cơ quan có thẩm quyền.
Điều 2
1. Giao Chính phủ đầu tư kinh phí để bảo đảm việc thực hiện các quy định về chỉ định người bào chữa, ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc hỏi cung bị can, sao chép, số hóa tài liệu trong hồ sơ vụ án hình sự, giám định tư pháp và hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.
Giao Bộ trưởng Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Chánh án Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn trình tự, thủ tục thực hiện ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc hỏi cung bị can; sử dụng, bảo quản, lưu trữ kết quả ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc hỏi cung bị can trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử.
Giao Bộ trưởng Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ trưởng Bộ Tài chính và Bộ trưởng Bộ Nội vụ xây dựng đề án về cơ sở vật chất, bộ máy, cán bộ và lộ trình cụ thể thực hiện việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc hỏi cung bị can theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Giao Bộ trưởng Bộ Công an quyết định cụ thể nơi có điều kiện để thực hiện việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh hoạt động hỏi cung bị can kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2016. Chậm nhất đến ngày 01 tháng 01 năm 2019 thì thực hiện thống nhất việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc hỏi cung bị can trên phạm vi toàn quốc.
2. Giao Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, tự mình hoặc phối hợp với các cơ quan hữu quan tổ chức việc rà soát các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 để bãi bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành văn bản mới; đề nghị Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội và các cơ quan hữu quan bãi bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành văn bản mới cho phù hợp với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
3. Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình khẩn trương kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ, công chức, cơ sở vật chất; bổ sung, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ đối với đội ngũ cán bộ, công chức của Cơ quan điều tra, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan thi hành án và các cơ quan bổ trợ tư pháp; bổ sung các điều kiện cần thiết khác để bảo đảm đáp ứng yêu cầu giải quyết các vụ án hình sự và thi hành án hình sự khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành; phối hợp với Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận tuyên truyền, phổ biến rộng rãi Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 trong cán bộ, công chức, viên chức và Nhân dân nhằm phát huy hiệu quả của Bộ luật này trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Điều 3
Chính phủ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao có trách nhiệm thực hiện và hướng dẫn thi hành Nghị quyết này.
Nghị quyết này đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 27 tháng 11 năm 2015.
|
CHỦ TỊCH QUỐC HỘI |
THE SOCIALIST REPUBLIC OF VIETNAM |
|
Hanoi, November 27, 2015 |
RESOLUTION
ON THE IMPLEMENTATION OF THE CRIMINAL PROCEDURE CODE
THE NATIONAL ASSEMBLY OF THE SOCIALIST REPUBLIC OF VIETNAM
Pursuant to the Constitution of the Socialist Republic of Vietnam,
RESOLVES:
From the effective date (July 1, 2016) of Criminal Procedure Code No. 101/2015/ QH13 (below referred to as the 2015 Criminal Procedure Code):
1. For cases which have been accepted or are being settled by investigating bodies, bodies assigned to carry out a number of investigation activities, procuracies or courts according to their competence or jurisdiction provided in Criminal Procedure Code No. 19/2003/QH11 (below referred to as the 2003 Criminal Procedure Code) by July 1, 2016, the settling competence or jurisdiction shall continue complying with the 2003 Criminal Procedure Code until complete settlement of these cases, while other issues must comply with the 2015 Criminal Procedure Code;
2. For offense denunciations, information about offenses and criminal case initiation proposals which are under examination and verification by July 1, 2016, the time limit for their settlement must comply with the 2015 Criminal Procedure Code;
3. For the accused and defendants who are in temporary detention in accordance with the 2003 Criminal Procedure Code but, by July 1, 2016, are not subject to temporary detention in accordance with the 2015 Criminal Procedure Code or whose temporary detention period is longer than that prescribed in the 2015 Criminal Procedure Code, the procuracy or court shall decide to cancel the measure of temporary detention or replace it with another deterrent measure in accordance with the 2015 Criminal Procedure Code;
4. For criminal cases which are being investigated by bodies assigned to carry out a number of investigation activities by July 1, 2016, the time limit for their investigation must comply with the 2015 Criminal Procedure Code;
5. For criminal cases which are being investigated, prosecuted or tried according to the summary procedures and of which investigation has not yet been completed, or no prosecution decision or decision to bring them for first-instance trial has been issued yet by July 1, 2016, the time limit for their investigation, prosecution or trial must comply with the 2015 Criminal Procedure Code.
For first-instance judgments which have not yet become legally effective, are appealed or protested against before July 1, 2016, fall into the case specified in Clause 2, Article 456 of the 2015 Criminal Procedure Code, and may be reviewed only on or after July 1, 2016, they shall be reviewed according to the summary procedures prescribed by the 2015 Criminal Procedure Code;
6. For criminal cases which have been tried according to the first-instance procedures in accordance with the 2003 Criminal Procedure Code and are appealed or protested against before July 1, 2016, and may be brought for appellate trial only on or after July 1, 2016, they shall be tried in accordance with the 2015 Criminal Procedure Code.
For the court’s judgments or rulings which have become legally effective in accordance with the 2003 Criminal Procedure Code, if they are protested against according to the cassation or reopening procedures before July 1, 2016, and their protests remain unsettled, or if they are protested against according to the cassation or reopening procedures on or after July 1, 2016, they shall be reviewed in accordance with the 2015 Criminal Procedure Code;
7. Persons who have been granted defense counsel certificates in accordance with the 2003 Criminal Procedure Code may continue using their certificates until they finish the defense;
8. The court shall continue applying the current regulations on court fees, fees and other procedural expenses until new regulations are issued by competent agencies.
1. To assign the Government to allocate funds to ensure the implementation of the provisions on appointment of defense counsels, audio-recording or audio-visual recording of interrogations of the accused, duplication and digitalization of documents in the files of criminal cases, judicial assessment and investigation, prosecution, trial and judgment execution activities.
To assign the Minister of Public Security to assume the prime responsibility for, and coordinate with the Minister of National Defense, Procurator General of the Supreme People’s Procuracy and Chief Justice of the Supreme People’s Court in, guiding the order and procedures for the audio-recording and audio-visual recording of interrogations of the accused; use, preservation and archive of audio records and audio-visual records of the accused’s interrogations during investigation, prosecution and trial.
To assign the Minister of Public Security to assume the prime responsibility for, and coordinate with the Procurator General of the Supreme People’s Procuracy, Chief Justice of the Supreme People’s Court, Minister of National Defense, Minister of Planning and Investment, Minister of Finance and Minister of Home Affairs in, formulating a scheme on physical foundations, apparatus, personnel and specific roadmap for audio-recording or audio-visual recording of interrogations of the accused in accordance with the 2015 Criminal Procedure Code.
To assign the Minister of Public Security to decide on specific locations with sufficient conditions for audio-recording or audio-visual recording of interrogations of the accused from July 1, 2016. By January 1, 2019 at the latest, the audio-recording or audio-visual recording of interrogations of the accused shall be uniformly conducted nationwide.
2. To assign the Government, Supreme People’s Court and Supreme People’s Procuracy to review, within the ambit of their functions, tasks and powers, on their own or in coordination with concerned agencies existing legal documents detailing and guiding the implementation of the 2003 Criminal Procedure Code in order to annul, amend or supplement them or issue new ones; to propose the National Assembly, National Assembly Standing Committee and concerned agencies to annul, amend or supplement existing legal documents detailing and guiding the implementation of the 2003 Criminal Procedure Code or issue new ones to comply with the 2015 Criminal Procedure Code.
3. The Government, Supreme People’s Court and Supreme People’s Procuracy shall, within the ambit of their functions, tasks and powers, expeditiously strengthen their organizational apparatuses, cadres, civil servants and physical foundations; supplement, professionally train and retrain cadres and civil servants of investigating bodies, people’s courts, people’s procuracies, judgment enforcement bodies and judicial assistance bodies; add other necessary conditions to ensure the settlement of criminal cases and execution of criminal judgments when the 2015 Criminal Procedure Code takes effect; and coordinate with the Central Committee of the Vietnam Fatherland Front and its member organizations in widely disseminating the 2015 Criminal Procedure Code among their cadres, civil servants and public employees as well as the People in order to maximize the effect of this Code in the crime prevention and combat.
The Government, Supreme People’s Procuracy and Supreme People’s Court shall implement and guide the implementation of this Resolution.
This Resolution was adopted on November 27, 2015, by the XIIIth National Assembly of the Socialist Republic of Vietnam at its 10th session.-
|
CHAIRMAN OF THE NATIONAL ASSEMBLY |
Tình trạng hiệu lực: Còn hiệu lực