Nghị định 98/2007/NĐ-CP về xử lý vi phạm pháp luật về thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế
Số hiệu: | 98/2007/NĐ-CP | Loại văn bản: | Nghị định |
Nơi ban hành: | Chính phủ | Người ký: | Nguyễn Tấn Dũng |
Ngày ban hành: | 07/06/2007 | Ngày hiệu lực: | 01/07/2007 |
Ngày công báo: | 15/06/2007 | Số công báo: | Từ số 380 đến số 381 |
Lĩnh vực: | Thuế - Phí - Lệ Phí, Vi phạm hành chính | Tình trạng: |
Hết hiệu lực
15/12/2013 |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Văn bản tiếng việt
CHÍNH PHỦ |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 98/2007/NĐ-CP |
Hà Nội, ngày 07 tháng 6 năm 2007 |
QUY ĐỊNH VỀ XỬ LÝ VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ THUẾ VÀ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH THUẾ
CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;
Căn cứ Luật Quản lý thuế ngày 29 tháng 11 năm 2006;
Căn cứ Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính ngày 02 tháng 7 năm 2002;
Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tài chính,
NGHỊ ĐỊNH:
1. Phạm vi điều chỉnh:
Chương này quy định về nguyên tắc, thẩm quyền, hành vi vi phạm, mức và biện pháp xử lý vi phạm pháp luật về thuế; trình tự, thủ tục thực hiện các quy định về xử lý vi phạm pháp luật về thuế theo quy định của Luật Quản lý thuế và pháp luật xử lý vi phạm hành chính.
Việc xử lý vi phạm pháp luật về thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu thực hiện theo quy định riêng của Chính phủ.
2. Đối tượng bị xử lý vi phạm pháp luật về thuế, bao gồm:
a) Người nộp thuế có hành vi vi phạm pháp luật về thuế;
b) Cơ quan thuế, công chức quản lý thuế vi phạm pháp luật về thuế;
c) Người có thẩm quyền và trách nhiệm xử lý vi phạm pháp luật về thuế;
d) Cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân khác liên quan đến việc xử lý vi phạm pháp luật về thuế.
1. Mọi hành vi vi phạm pháp luật về thuế phải được phát hiện và đình chỉ ngay. Việc xử lý vi phạm pháp luật về thuế phải được tiến hành kịp thời, công khai, minh bạch, triệt để. Mọi hậu quả do vi phạm pháp luật về thuế gây ra phải được khắc phục theo đúng quy định của pháp luật.
2. Cá nhân, tổ chức chỉ bị xử lý vi phạm khi có hành vi vi phạm pháp luật về thuế đã được quy định tại các luật, pháp lệnh và các văn bản quy phạm pháp luật về thuế; vi phạm quy định của Luật Quản lý thuế và Nghị định này.
3. Một hành vi vi phạm pháp luật về thuế chỉ bị xử phạt một lần, cụ thể như sau:
a) Một hành vi vi phạm pháp luật về thuế đã được người có thẩm quyền ra quyết định xử phạt hoặc đã lập biên bản để xử phạt thì không được lập biên bản, ra quyết định xử phạt lần thứ hai đối với hành vi đó. Trường hợp hành vi vi phạm vẫn tiếp tục được thực hiện mặc dù đã bị người có thẩm quyền xử phạt ra lệnh đình chỉ thì áp dụng biện pháp tăng nặng theo quy định tại Điều 3 Nghị định này;
b) Trường hợp hành vi vi phạm pháp luật về thuế có dấu hiệu tội phạm đã bị chuyển hồ sơ đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự mà trước đó đã có quyết định xử phạt vi phạm hành chính về thuế thì người đã ra quyết định xử phạt phải huỷ bỏ quyết định xử phạt; nếu chưa ra quyết định xử phạt thì không xử phạt vi phạm pháp luật về thuế đối với hành vi đó.
4. Nhiều người cùng thực hiện một hành vi vi phạm pháp luật về thuế thì mỗi người vi phạm đều bị xử phạt về hành vi đó.
5. Một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm pháp luật về thuế thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm.
6. Người có thẩm quyền xử lý vi phạm pháp luật về thuế phải căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm, nhân thân người vi phạm, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ mà ra quyết định xử phạt đối với từng người thực hiện cùng hành vi vi phạm pháp luật về thuế.
1. Vi phạm có tổ chức.
2. Vi phạm nhiều lần.
3. Tái phạm vi phạm pháp luật về thuế chưa hết thời hạn một năm kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt hoặc kể từ ngày hết thời hiệu thi hành của quyết định xử phạt mà lại thực hiện hành vi vi phạm pháp luật về thuế đã bị xử phạt.
4. Xúi giục, lôi kéo người chưa thành niên vi phạm, ép buộc người bị lệ thuộc vào mình về vật chất, tinh thần vi phạm.
5. Vi phạm trong tình trạng say do dùng rượu, bia hoặc các chất kích thích khác.
6. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vi phạm.
7. Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, hoàn cảnh thiên tai hoặc những khó khăn khách quan đặc biệt khác để vi phạm.
8. Vi phạm trong thời gian đang chấp hành hình phạt của bản án hình sự hoặc đang chấp hành quyết định xử lý vi phạm pháp luật về thuế.
9. Tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm mặc dù người có thẩm quyền đã yêu cầu chấm dứt hành vi đó.
10. Sau khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật về thuế mà có hành vi trốn tránh, che dấu hành vi đã vi phạm.
1. Người vi phạm đã ngăn chặn, làm giảm bớt tác hại của hành vi vi phạm hoặc khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại.
2. Người vi phạm đã tự nguyện khai báo, thành thật nhận sai sót và kê khai, điều chỉnh các lỗi sai sót.
3. Người vi phạm do bị ép buộc hoặc bị lệ thuộc về vật chất hoặc tinh thần.
4. Người vi phạm là phụ nữ có thai, người già yếu, người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, người có bệnh hoặc tàn tật làm hạn chế khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi của mình.
5. Vi phạm trong hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không do mình gây ra.
6. Vi phạm do chưa nắm được chính sách pháp luật về thuế.
7. Vi phạm trong tình trạng bị kích động về tinh thần do hành động trái pháp luật của người khác gây ra.
1. Đối với hành vi vi phạm thủ tục thuế, thời hiệu xử phạt là 02 năm, kể từ ngày hành vi vi phạm được thực hiện.
2. Đối với hành vi trốn thuế, gian lận thuế chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, hành vi chậm nộp tiền thuế, khai thiếu nghĩa vụ thuế, thời hiệu xử phạt là 05 năm, kể từ ngày hành vi vi phạm được thực hiện.
Thời điểm xác định hành vi trốn thuế, gian lận thuế là ngày tiếp theo ngày cuối cùng của hạn nộp hồ sơ khai thuế của kỳ tính thuế mà người nộp thuế thực hiện hành vi trốn thuế, gian lận thuế hoặc ngày tiếp theo ngày cơ quan có thẩm quyền ra quyết định hoàn thuế, miễn thuế, giảm thuế.
3. Đối với cá nhân đã bị khởi tố, truy tố hoặc đã có quyết định đưa ra xét xử theo thủ tục tố tụng hình sự, sau đó có quyết định đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ án nhưng hành vi vi phạm có dấu hiệu vi phạm pháp luật về thuế thì trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày ra quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án, cơ quan đã ra quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án phải gửi quyết định và hồ sơ vụ việc cho cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm pháp luật về thuế. Trong trường hợp này, thời hiệu xử lý vi phạm là 03 tháng, kể từ ngày người có thẩm quyền xử lý vi phạm pháp luật về thuế nhận được quyết định đình chỉ và hồ sơ vụ án.
4. Trong thời hiệu quy định tại các khoản 1, 2 và khoản 3 Điều này mà người nộp thuế lại tiếp tục thực hiện vi phạm mới cùng hành vi đã vi phạm trước đó hoặc cố tình trốn tránh, cản trở việc xử phạt thì không áp dụng thời hiệu theo quy định tại các khoản 1, 2 và khoản 3 Điều này mà thời hiệu xử phạt vi phạm pháp luật về thuế được tính lại kể từ thời điểm thực hiện hành vi vi phạm mới hoặc thời điểm chấm dứt hành vi trốn tránh, cản trở việc xử phạt.
1. Đối với mỗi hành vi vi phạm pháp luật về thuế thì cá nhân, tổ chức vi phạm phải chịu một trong các hình thức xử phạt sau đây:
a) Phạt cảnh cáo:
Hình thức xử phạt cảnh cáo được quyết định bằng văn bản và áp dụng đối với:
- Vi phạm lần đầu hoặc vi phạm lần thứ hai và có tình tiết giảm nhẹ đối với các vi phạm về thủ tục thuế ít nghiêm trọng;
- Vi phạm về thủ tục thuế do người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện.
Hình thức phạt tiền được quy định cụ thể đối với từng hành vi vi phạm pháp luật về thuế như sau:
- Phạt theo số tiền tuyệt đối đối với các hành vi vi phạm thủ tục thuế, mức phạt tối đa không quá 100 triệu đồng. Khi phạt tiền, mức tiền phạt cụ thể đối với một hành vi vi phạm về thủ tục thuế là mức trung bình của khung tiền phạt được quy định đối với hành vi đó; nếu có tình tiết giảm nhẹ thì mức tiền phạt có thể giảm xuống, nhưng không được giảm quá mức tối thiểu của khung tiền phạt, nếu có tình tiết tăng nặng thì mức tiền phạt có thể tăng lên nhưng không được vượt quá mức tối đa của khung tiền phạt;
- Phạt 0,05% mỗi ngày tính trên số tiền thuế chậm nộp đối với hành vi chậm nộp tiền thuế, tiền phạt;
- Phạt 10% số tiền thuế thiếu đối với hành vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được hoàn;
- Phạt tiền tương ứng với số tiền không trích vào tài khoản của ngân sách nhà nước đối với hành vi vi phạm theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 114 của Luật Quản lý thuế;
- Phạt từ 1 đến 3 lần số tiền thuế trốn đối với hành vi trốn thuế, gian lận thuế.
Khi xác định mức phạt tiền đối với người nộp thuế vi phạm vừa có tình tiết tăng nặng, vừa có tình tiết giảm nhẹ thì xem xét giảm trừ tình tiết tăng nặng theo nguyên tắc nếu có hai tình tiết giảm nhẹ được giảm trừ một tình tiết tăng nặng. Sau khi giảm trừ theo nguyên tắc trên, nếu còn một tình tiết tăng nặng và một tình tiết giảm nhẹ thì tuỳ theo tính chất, mức độ của hành vi vi phạm và thái độ khắc phục hậu quả của đối tượng vi phạm, người có thẩm quyền xử lý xem xét áp dụng mức phạt tiền đối với trường hợp có một tình tiết tăng nặng hoặc trường hợp không có tình tiết tăng nặng, không có tình tiết giảm nhẹ. Đối với hành vi vi phạm thủ tục thuế thì mỗi tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ được tính tăng hoặc giảm 20% mức phạt trung bình của khung tiền phạt.
2. Tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về thuế còn có thể bị áp dụng hình thức phạt bổ sung là tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật về thuế.
3. Các biện pháp khắc phục hậu quả:
Ngoài các hình thức xử phạt theo quy định tại Điều này, người nộp thuế vi phạm các quy định tại Mục 2 Chương này thì còn có thể bị áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả như sau:
a) Buộc nộp đủ số tiền thuế nợ, tiền thuế thiếu, số tiền thuế trốn, số tiền thuế gian lận vào ngân sách nhà nước nếu đã quá thời hiệu quy định tại Điều 5 Nghị định này;
b) Buộc tiêu huỷ hoá đơn, chứng từ, sổ sách kế toán in, phát hành trái quy định của pháp luật, trừ hoá đơn, chứng từ, sổ kế toán là tang vật phải lưu giữ làm chứng cứ xử lý vụ việc vi phạm.
1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với hành vi nộp hồ sơ đăng ký thuế hoặc thông báo thay đổi thông tin trong hồ sơ đăng ký thuế cho cơ quan thuế quá thời hạn quy định từ 10 đến 20 ngày.
2. Phạt tiền từ 200.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với hành vi nộp hồ sơ đăng ký thuế hoặc thông báo thay đổi thông tin trong hồ sơ đăng ký thuế cho cơ quan thuế quá thời hạn quy định từ trên 20 ngày trở lên.
Hành vi khai không đúng, không đầy đủ các nội dung trong hồ sơ khai thuế quy định tại Điều 31 của Luật Quản lý thuế (trừ trường hợp người nộp thuế được khai bổ sung theo quy định) bị phát hiện sau thời hạn quy định nộp hồ sơ khai thuế:
1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với hành vi vi phạm lập hồ sơ khai thuế ghi thiếu, ghi sai các chỉ tiêu trên bảng kê hoá đơn hàng hoá, dịch vụ mua vào, bán ra hoặc trên các tài liệu khác liên quan đến nghĩa vụ thuế.
2. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 150.000 đồng đến 1.500.000 đồng đối với hành vi lập hồ sơ khai thuế ghi thiếu, ghi sai các chỉ tiêu trên hoá đơn, hợp đồng kinh tế và chứng từ khác liên quan đến nghĩa vụ thuế.
3. Phạt tiền từ 200.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với hành vi lập hồ sơ khai thuế ghi thiếu, ghi sai các chỉ tiêu trên tờ khai thuế, tờ khai quyết toán thuế.
4. Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với trường hợp đồng thời có nhiều hành vi vi phạm quy định tại các khoản 1, 2 và khoản 3 Điều này.
1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với hành vi nộp hồ sơ khai thuế quá thời hạn quy định từ 05 đến 10 ngày.
2. Phạt tiền từ 200.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với hành vi nộp hồ sơ khai thuế quá thời hạn quy định từ trên 10 đến 20 ngày.
3. Phạt tiền từ 300.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với hành vi nộp hồ sơ khai thuế quá thời hạn quy định từ trên 20 đến 30 ngày.
4. Phạt tiền từ 400.000 đồng đến 4.000.000 đồng đối với hành vi nộp hồ sơ khai thuế quá thời hạn quy định từ trên 30 đến 40 ngày.
5. Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với hành vi nộp hồ sơ khai thuế quá thời hạn quy định từ trên 40 đến 90 ngày.
6. Thời hạn nộp hồ sơ khai thuế quy định tại Điều này bao gồm cả thời gian gia hạn nộp hồ sơ khai thuế quy định tại Điều 33 của Luật Quản lý thuế.
7. Không áp dụng các mức xử phạt quy định tại Điều này đối với trường hợp được gia hạn nộp thuế theo quy định của pháp luật quản lý thuế.
Hành vi vi phạm chế độ cung cấp thông tin liên quan đến việc xác định nghĩa vụ thuế nhưng không thuộc trường hợp khai thiếu thuế, trốn thuế, gian lận thuế thì tuỳ theo hành vi, mức độ vi phạm mà bị xử phạt như sau:
1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với một trong các hành vi:
a) Cung cấp thông tin, tài liệu, hồ sơ pháp lý liên quan đến đăng ký thuế theo thông báo của cơ quan thuế quá thời hạn quy định từ 05 ngày làm việc trở lên;
b) Cung cấp thông tin, tài liệu, sổ kế toán liên quan đến việc xác định nghĩa vụ thuế theo thông báo của cơ quan thuế quá thời hạn quy định từ 05 ngày làm việc trở lên;
c) Cung cấp sai lệch về thông tin, tài liệu, sổ kế toán liên quan đến việc xác định nghĩa vụ thuế quá thời hạn theo yêu cầu của cơ quan thuế.
2. Phạt tiền từ 200.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với một trong các hành vi:
a) Cung cấp không đầy đủ, không chính xác các thông tin, tài liệu, sổ kế toán liên quan đến việc xác định nghĩa vụ thuế trong thời hạn kê khai thuế; số hiệu tài khoản, số dư tài khoản tiền gửi cho cơ quan có thẩm quyền khi được yêu cầu;
b) Không cung cấp đầy đủ, đúng các chỉ tiêu, số liệu liên quan đến nghĩa vụ thuế phải đăng ký theo chế độ quy định, bị phát hiện nhưng không làm giảm nghĩa vụ với ngân sách nhà nước;
c) Cung cấp không đầy đủ, không chính xác các thông tin, tài liệu liên quan đến tài khoản tiền gửi tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, Kho bạc Nhà nước trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày được cơ quan thuế yêu cầu.
1. Phạt tiền từ 200.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với một trong các hành vi:
a) Từ chối nhận quyết định thanh tra, kiểm tra, quyết định cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế;
b) Không chấp hành quyết định thanh tra, kiểm tra thuế, quyết định cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế quá thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày phải chấp hành quyết định của cơ quan có thẩm quyền;
c) Từ chối, trì hoãn, trốn tránh việc cung cấp hồ sơ, tài liệu, hoá đơn, chứng từ, sổ kế toán liên quan đến nghĩa vụ thuế quá thời hạn 06 giờ làm việc, kể từ khi nhận được yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền trong thời gian kiểm tra, thanh tra tại trụ sở người nộp thuế;
d) Cung cấp không chính xác về thông tin, tài liệu, sổ kế toán liên quan đến việc xác định nghĩa vụ thuế theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền trong thời gian kiểm tra, thanh tra thuế tại trụ sở người nộp thuế.
2. Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong các hành vi:
a) Không cung cấp số liệu, tài liệu, sổ kế toán liên quan đến việc xác định nghĩa vụ thuế khi được cơ quan có thẩm quyền yêu cầu trong thời gian kiểm tra, thanh tra thuế tại trụ sở người nộp thuế;
b) Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quyết định niêm phong hồ sơ tài liệu, két quỹ, kho hàng hoá, vật tư, nguyên liệu, máy móc, thiết bị, nhà xưởng làm căn cứ xác minh nghĩa vụ thuế;
c) Tự ý tháo bỏ, thay đổi dấu hiệu niêm phong do cơ quan thẩm quyền đã tạo lập hợp pháp làm căn cứ xác minh nghĩa vụ thuế;
d) Không ký vào Biên bản kiểm tra, thanh tra trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày kết thúc kiểm tra, thanh tra;
đ) Không chấp hành kết luận kiểm tra, thanh tra thuế, cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế của cơ quan có thẩm quyền.
3. Vi phạm chế độ hoá đơn, chứng từ đối với hàng hoá vận chuyển trên đường thì bị xử phạt như sau:
a) Phạt tiền từ 200.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với trường hợp không cung cấp được hoá đơn, chứng từ hợp pháp của lô hàng vận chuyển trong thời hạn 12 giờ, kể từ thời điểm cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, phát hiện hành vi vi phạm;
b) Phạt tiền từ 300.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với trường hợp không cung cấp được hoá đơn, chứng từ hợp pháp của lô hàng vận chuyển trong thời hạn từ trên 12 giờ đến 24 giờ, kể từ thời điểm cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, phát hiện hành vi vi phạm;
c) Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với trường hợp không cung cấp được hoá đơn, chứng từ hợp pháp của lô hàng vận chuyển sau 24 giờ, kể từ thời điểm cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, phát hiện hành vi vi phạm, nhưng chưa ra quyết định xử phạt.
Trường hợp, cung cấp được hoá đơn, chứng từ sau khi cơ quan thuế đã ra quyết định xử phạt hoặc không cung cấp được hoá đơn, chứng từ sau thời hạn quy định tại điểm này thì bị xử phạt về hành vi trốn thuế, nhưng nếu cung cấp được chứng từ nộp thuế của lô hàng vận chuyển trong thời hiệu giải quyết khiếu nại thì chỉ bị phạt tiền theo mức quy định tại điểm này mà không bị xử phạt về hành vi trốn thuế.
1. Các hành vi vi phạm bị xử phạt chậm nộp tiền thuế của người nộp thuế, bao gồm:
a) Nộp tiền thuế chậm so với thời hạn quy định, thời hạn được gia hạn nộp thuế, thời hạn ghi trong thông báo của cơ quan thuế, trong quyết định xử lý vi phạm pháp luật về thuế của cơ quan thuế;
b) Nộp thiếu tiền thuế do khai sai số thuế phải nộp, số thuế được miễn, số thuế được giảm, số thuế được hoàn của các kỳ khai thuế trước, nhưng người nộp thuế đã tự phát hiện ra sai sót và tự giác nộp đủ số tiền thuế thiếu vào ngân sách nhà nước trước thời điểm nhận được quyết định kiểm tra thuế, thanh tra thuế của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
2. Mức xử phạt là 0,05% mỗi ngày tính trên số tiền thuế chậm nộp đối với hành vi phạm quy định tại khoản 1 Điều này.
Số ngày chậm nộp tiền thuế bao gồm cả ngày lễ, ngày nghỉ theo chế độ quy định và được tính từ ngày tiếp sau ngày cuối cùng của thời hạn nộp thuế, thời hạn gia hạn nộp thuế, thời hạn ghi trong thông báo hoặc trong quyết định xử lý của cơ quan thuế đến ngày người nộp thuế đã tự giác nộp số tiền thuế chậm nộp vào ngân sách nhà nước.
3. Trường hợp người nộp thuế tự xác định được số tiền phạt chậm nộp thì tự khai, tự nộp số thuế phạt vào ngân sách nhà nước theo quy định tại khoản 2 Điều này.
Trường hợp người nộp thuế không tự xác định hoặc không xác định đúng số tiền phạt chậm nộp thì cơ quan thuế xác định số tiền phạt chậm nộp và thông báo cho người nộp thuế biết.
4. Trường hợp sau 30 ngày, kể từ ngày hết thời hạn nộp thuế, người nộp thuế chưa nộp tiền thuế và tiền phạt chậm nộp thì cơ quan thuế thông báo cho người nộp thuế biết số tiền thuế nợ và tiền phạt chậm nộp.
5. Người nộp thuế không bị phạt chậm nộp tính trên số tiền thuế nợ trong thời gian gia hạn nộp thuế.
1. Các trường hợp khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được hoàn, bao gồm:
a) Hành vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được hoàn, tăng số thuế được miễn, giảm, nhưng người nộp thuế đã ghi chép kịp thời, đầy đủ, trung thực các nghiệp vụ kinh tế làm phát sinh nghĩa vụ thuế trên sổ kế toán, hoá đơn, chứng từ;
b) Hành vi khai sai của người nộp thuế làm giảm số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được hoàn, số thuế được miễn, giảm không thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều này nhưng khi bị cơ quan có thẩm quyền phát hiện, người vi phạm đã tự giác nộp đủ số tiền thuế khai thiếu vào ngân sách nhà nước trước thời điểm cơ quan thuế lập biên bản kiểm tra thuế, kết luận thanh tra thuế;
c) Hành vi khai sai của người nộp thuế làm giảm số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được hoàn, số thuế được miễn, số thuế được giảm đã bị cơ quan có thẩm quyền lập biên bản kiểm tra thuế, kết luận thanh tra thuế xác định là có hành vi khai man trốn thuế, nhưng nếu người nộp thuế vi phạm lần đầu, có tình tiết giảm nhẹ và đã tự giác nộp đủ số tiền thuế vào ngân sách nhà nước trước thời điểm cơ quan có thẩm quyền ra quyết định xử lý thì cơ quan thuế lập biên bản ghi nhận để xác định lại hành vi khai thiếu thuế;
d) Sử dụng hoá đơn, chứng từ bất hợp pháp để hạch toán giá trị hàng hoá, dịch vụ mua vào làm giảm số tiền thuế phải nộp hoặc làm tăng số tiền thuế được hoàn, số tiền thuế được miễn, số tiền thuế được giảm, nhưng khi cơ quan thuế kiểm tra phát hiện, người mua chứng minh được lỗi vi phạm sử dụng hoá đơn bất hợp pháp thuộc về bên bán hàng và người mua đã hạch toán kế toán đầy đủ theo quy định.
2. Mức xử phạt đối với các hành vi vi phạm quy định tại khoản 1 Điều này là 10% tính trên số tiền thuế khai thiếu hoặc số tiền thuế được hoàn, số thuế được miễn, giảm cao hơn so với mức quy định của pháp luật về thuế.
3. Cơ quan thuế xác định số tiền thuế thiếu, số tiền phạt; số ngày chậm nộp tiền thuế, tiền phạt chậm nộp tiền thuế và ra quyết định xử phạt đối với người nộp thuế.
Người nộp thuế có hành vi trốn thuế, gian lận thuế quy định tại Điều 108 của Luật Quản lý thuế ngoài việc phải nộp đủ số tiền thuế trốn, số tiền thuế gian lận thì còn bị xử phạt theo số lần tính trên số tiền thuế trốn, số tiền thuế gian lận như sau:
1. Phạt tiền 1 lần tính trên số thuế trốn, số thuế gian lận đối với người nộp thuế vi phạm lần đầu không thuộc các trường hợp quy định tại Điều 13 Nghị định này hoặc vi phạm lần thứ hai mà có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên khi có một trong các hành vi vi phạm sau đây:
a) Không nộp hồ sơ đăng ký thuế; không nộp hồ sơ khai thuế hoặc nộp hồ sơ khai thuế sau 90 (chín mươi) ngày, kể từ ngày hết thời hạn nộp hồ sơ khai thuế quy định tại các khoản 1, 2, 3 và khoản 5 Điều 32 của Luật Quản lý thuế, hoặc kể từ ngày hết thời hạn gia hạn nộp hồ sơ khai thuế quy định tại Điều 33 của Luật Quản lý thuế;
Đối với trường hợp nộp hồ sơ khai thuế tạm tính theo quý quá 90 ngày so với thời hạn quy định, nhưng vẫn trong thời hạn nộp hồ sơ quyết toán thuế năm thì không xử phạt về hành vi trốn thuế quy định tại Điều này mà xử phạt vi phạm về hành vi khai thuế quy định tại Điều 9 Nghị định này.
b) Không cung cấp được hoá đơn, chứng từ hợp pháp hoặc cung cấp sau thời hạn quy định đối với hàng hoá vận chuyển trên đường;
c) Sử dụng hoá đơn, chứng từ bất hợp pháp để hạch toán trị giá hàng hoá, nguyên liệu đầu vào làm giảm số tiền thuế phải nộp hoặc làm tăng số tiền thuế được miễn, số tiền thuế được giảm hoặc tăng số tiền thuế được khấu trừ, được hoàn;
d) Lập thủ tục, hồ sơ huỷ vật tư, hàng hoá không đúng thực tế làm giảm số thuế phải nộp hoặc làm tăng số thuế được hoàn, được miễn, giảm;
đ) Lập hoá đơn bán hàng hoá, dịch vụ sai về số lượng, giá trị để khai thuế thấp hơn thực tế;
e) Sử dụng hoá đơn giả, hoá đơn đã hết hạn sử dụng, hoá đơn của cá nhân, tổ chức khác để bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ và khai không đầy đủ số thuế phải nộp, nhưng không thuộc các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c khoản 1 Điều 13 Nghị định này;
g) Không ghi chép trong sổ kế toán các khoản thu, chi liên quan đến việc xác định số tiền thuế phải nộp;
h) Không xuất hoá đơn khi bán hàng hoá, dịch vụ hoặc ghi giá trị trên hoá đơn bán hàng thấp hơn giá trị thực tế thanh toán của hàng hoá, dịch vụ đã bán và bị phát hiện sau thời hạn nộp hồ sơ khai thuế;
i) Sử dụng hoá đơn, chứng từ bất hợp pháp để hạch toán khống giá trị hàng hoá, dịch vụ mua vào làm giảm số tiền thuế phải nộp hoặc làm tăng số tiền thuế miễn, số tiền thuế giảm, số tiền thuế được hoàn;
k) Sử dụng hàng hoá được miễn thuế (bao gồm cả hàng hoá thuộc diện không chịu thuế) không đúng với mục đích quy định mà không khai thuế;
l) Sửa chữa, tẩy xoá chứng từ kế toán, sổ kế toán làm giảm số thuế phải nộp hoặc làm tăng số thuế được hoàn, số thuế miễn, số tiền thuế được giảm;
m) Huỷ bỏ chứng từ kế toán, sổ kế toán làm giảm số thuế phải nộp hoặc làm tăng số thuế được hoàn, số thuế miễn, giảm;
n) Sử dụng hoá đơn, chứng từ, tài liệu không hợp pháp trong các trường hợp khác để xác định sai số tiền thuế phải nộp, số tiền thuế được hoàn.
2. Phạt tiền 1,5 lần tính trên số thuế trốn, gian lận đối với người nộp thuế khi có một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều này, trong các trường hợp: vi phạm lần đầu, có tình tiết tăng nặng hoặc vi phạm lần thứ hai, có một tình tiết giảm nhẹ.
3. Phạt tiền 2 lần tính trên số thuế trốn đối với người nộp thuế khi có một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều này, trong các trường hợp: vi phạm lần thứ hai mà không có tình tiết giảm nhẹ hoặc vi phạm lần thứ ba nhưng có một tình tiết giảm nhẹ.
4. Phạt tiền 2,5 tính trên số thuế trốn đối với người nộp thuế khi có một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều này, trong các trường hợp: vi phạm lần thứ hai mà có một tình tiết tăng nặng hoặc vi phạm lần thứ ba mà không có tình tiết giảm nhẹ.
5. Phạt tiền 3 lần tính trên số tiền thuế trốn đối với người nộp thuế khi có một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều này, trong các trường hợp: vi phạm lần thứ hai mà có từ hai tình tiết tăng nặng trở lên hoặc vi phạm lần thứ ba có tình tiết tăng nặng hoặc vi phạm từ lần thứ tư trở đi.
6. Việc xác định số tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ để áp dụng mức phạt tiền quy định tại các khoản 2, 3, 4 và khoản 5 Điều này thực hiện theo nguyên tắc quy định tại điểm b khoản 1 Điều 6 Nghị định này.
Số tiền thuế trốn theo quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và khoản 5 Điều này là số tiền thuế phải nộp ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật mà người nộp thuế không nộp do thực hiện một trong các hành vi trốn thuế, gian lận thuế quy định tại Điều 108 của Luật Quản lý thuế, bị cơ quan có thẩm quyền phát hiện và xác định trong biên bản kiểm tra thuế, kết luận thanh tra thuế.
Các hành vi vi phạm quy định tại Điều này bị phát hiện trong thời hạn nộp hồ sơ khai thuế hoặc bị phát hiện sau thời hạn nộp hồ sơ khai thuế, nhưng không làm giảm số thuế phải nộp hoặc làm tăng số thuế được hoàn, số thuế miễn, giảm thì chỉ bị xử phạt về hành vi phạm về thủ tục thuế.
1. Việc xử lý vi phạm pháp luật về thuế đối với cơ quan thuế, công chức thuế thực hiện theo quy định tại Điều 112, Điều 113 của Luật Quản lý thuế.
2. Bộ Tài chính hướng dẫn trình tự, thủ tục xử lý vi phạm pháp luật về thuế đối với cơ quan thuế, công chức thuế quy định tại khoản 1 Điều này.
1. Ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác không thực hiện trách nhiệm trích chuyển từ tài khoản của người nộp thuế vào tài khoản của ngân sách nhà nước đối với số tiền thuế, tiền phạt vi phạm pháp luật về thuế phải nộp của người nộp thuế theo yêu cầu của cơ quan thuế thì tuỳ theo từng trường hợp cụ thể xử lý như sau:
a) Ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác không bị xử phạt trong trường hợp tại thời điểm đó, tài khoản tiền gửi của người nộp thuế không còn số dư hoặc đã trích chuyển toàn bộ số dư tài khoản của người nộp thuế vào tài khoản của ngân sách nhà nước nhưng vẫn không đủ số tiền thuế, tiền phạt vi phạm pháp luật về thuế mà người nộp thuế phải nộp;
b) Ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác bị xử lý vi phạm trong trường hợp tại thời điểm đó, tài khoản tiền gửi của người nộp thuế có số dư đủ hoặc thừa so với số tiền thuế, tiền phạt vi phạm pháp luật về thuế mà người nộp thuế phải nộp nhưng ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác không thực hiện trích toàn bộ hoặc một phần tương ứng số tiền phải nộp của người nộp thuế thì trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày hết hạn trích tiền từ tài khoản tiền gửi của người nộp thuế mở tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, cơ quan thuế phải lập biên bản vi phạm và ra quyết định xử phạt đối với ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng số tiền tương ứng với số tiền không trích chuyển vào tài khoản của ngân sách nhà nước. Trường hợp này, cơ quan thuế vẫn phải thực hiện các biện pháp nhằm thu đủ số tiền thuế, tiền phạt đối với người nộp thuế.
2. Người bảo lãnh việc thực hiện nghĩa vụ thuế phải nộp tiền thuế, tiền phạt thay cho người nộp thuế được bảo lãnh trong trường hợp người nộp thuế không nộp thuế vào tài khoản của ngân sách nhà nước hoặc vi phạm pháp luật về thuế.
1. Tổ chức, cá nhân liên quan có hành vi thông đồng, bao che người nộp thuế trốn thuế, gian lận thuế, không thực hiện quyết định cưỡng chế hành chính thuế thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 8.000.000 đồng. Trường hợp vi phạm có dấu hiệu tội phạm thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
2. Tổ chức, cá nhân không thực hiện trách nhiệm của mình quy định tại các Điều 89, 98 và Điều 100 của Luật Quản lý thuế thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Cơ quan Kho bạc Nhà nước không thực hiện trích chuyển số tiền thuế, tiền phạt của người nộp thuế vào tài khoản của ngân sách nhà nước theo yêu cầu của cơ quan thuế thì bị xử phạt như trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 16 Nghị định này.
1. Nhân viên Thuế đang thi hành công vụ có quyền:
a) Phạt cảnh cáo;
b) Phạt tiền đến 100.000 đồng đối với các hành vi vi phạm về thủ tục thuế quy định tại Nghị định này.
2. Trạm trưởng Trạm Thuế, Đội trưởng Đội Thuế trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ có quyền:
a) Phạt cảnh cáo;
b) Phạt tiền đến 2.000.000 đồng đối với các hành vi vi phạm về thủ tục thuế quy định tại Nghị định này.
3. Chi cục trưởng Chi cục Thuế, trong phạm vi địa bàn quản lý của mình, có quyền:
a) Phạt cảnh cáo;
b) Phạt tiền đến 10.000.000 đồng đối với hành vi vi phạm quy định tại các Điều 7, 8, 9, 10 và Điều 11 Nghị định này;
c) Phạt tiền đối với hành vi phạm quy định tại các Điều 12, 13, 14, 16 và Điều 17 Nghị định này;
d) Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật về thuế;
đ) Áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản 3 Điều 6 Nghị định này.
4. Cục trưởng Cục Thuế, trong phạm vi địa bàn quản lý của mình, có quyền:
a) Phạt cảnh cáo;
b) Phạt tiền đến 100.000.000 đồng đối với hành vi vi phạm các thủ tục thuế quy định tại các Điều 7, 8, 9, 10 và Điều 11 Nghị định này;
c) Phạt tiền đối với hành vi phạm quy định tại các Điều 12, 13, 14, 16 và Điều 17 Nghị định này;
d) Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật về thuế;
đ) Áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản 3 Điều 6 Nghị định này.
Thẩm quyền xử phạt vi phạm pháp luật về thuế của Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp được thực hiện theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
Việc ủy quyền xử phạt vi phạm pháp luật về thuế và phân định thẩm quyền xử phạt vi phạm pháp luật về thuế thực hiện theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
Khi phát hiện vi phạm pháp luật về thuế, người có thẩm quyền xử lý vi phạm phải ra quyết định đình chỉ ngay hành vi vi phạm. Quyết định đình chỉ có thể bằng văn bản hoặc các hình thức khác tuỳ từng trường hợp vi phạm cụ thể. Trường hợp vụ việc vi phạm không thuộc thẩm quyền hoặc vượt quá thẩm quyền xử lý thì người phát hiện vi phạm phải lập biên bản theo đúng mẫu quy định và chuyển kịp thời tới người có thẩm quyền ra quyết định xử phạt đình chỉ vi phạm và tiến hành xử lý theo quy định tại Nghị định này.
Việc lập biên bản vi phạm pháp luật về thuế được quy định như sau:
1. Người có thẩm quyền đang thi hành công vụ phát hiện hành vi vi phạm pháp luật về thuế có trách nhiệm lập biên bản theo đúng mẫu quy định và chuyển kịp thời tới người có thẩm quyền xử phạt. Biên bản phải có đầy đủ chữ ký theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; trường hợp người vi phạm không ký vào biên bản vi phạm thì người lập biên bản phải ghi rõ lý do vào biên bản và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung đã ghi trong biên bản;
2. Trường hợp người lập biên bản không có thẩm quyền xử phạt thì thủ trưởng của người đó là người có thẩm quyền xử phạt cũng phải ký tên vào biên bản; trường hợp cần thiết thì tiến hành xác minh trước khi ký biên bản;
3. Trường hợp không phải lập biên bản khi ban hành quyết định xử phạt:
a) Người nộp thuế có hành vi phạm pháp luật về thuế đã được cơ quan thuế kiểm tra, thanh tra phát hiện, ghi nhận vào biên bản kiểm tra, kết luận thanh tra;
b) Người nộp thuế chậm nộp tiền thuế đã được ghi trên thông báo nộp tiền thuế, tiền phạt chậm nộp của cơ quan thuế.
Thời hạn ra quyết định xử phạt được quy định như sau:
1. Đối với vụ việc đơn giản, hành vi vi phạm rõ ràng, không cần xác minh thêm thì phải ra quyết định xử phạt trong thời hạn không quá 10 ngày, kể từ ngày lập biên bản về hành vi vi phạm pháp luật về thuế;
2. Đối với vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp như tang vật, phương tiện cần giám định, cần xác định rõ đối tượng vi phạm pháp luật về thuế hoặc những tình tiết phức tạp khác thì thời hạn ra quyết định xử phạt là 30 ngày, kể từ ngày lập biên bản;
3. Trường hợp xét thấy cần có thêm thời gian để xác minh, thu thập chứng cứ thì chậm nhất là 10 ngày, trước khi hết thời hạn được quy định tại khoản 2 Điều này, người có thẩm quyền xử phạt phải báo cáo thủ trưởng trực tiếp của mình bằng văn bản để xin gia hạn; việc gia hạn phải bằng văn bản; thời gian gia hạn không quá 30 ngày;
4. Trừ quyết định áp dụng hình thức xử phạt trục xuất, người có thẩm quyền không được ra quyết định xử phạt trong các trường hợp sau đây:
a) Đã hết thời hạn quy định tại khoản 1 Điều này;
b) Đã hết thời hạn ra quyết định xử phạt quy định tại khoản 2 Điều này mà không xin gia hạn hoặc đã xin gia hạn nhưng không được cấp có thẩm quyền cho phép gia hạn;
c) Đã hết thời hạn được cấp có thẩm quyền gia hạn.
Quyết định xử phạt vi phạm pháp luật về thuế phải được thể hiện dưới hình thức văn bản.
Hình thức, nội dung, trình tự, thủ tục ban hành quyết định xử phạt vi phạm pháp luật về thuế phải tuân thủ những quy định của pháp luật xử lý vi phạm hành chính.
1. Người nộp thuế bị xử phạt vi phạm pháp luật về thuế có quyền đề nghị miễn xử phạt vi phạm pháp luật về thuế trong trường hợp gặp thiên tai, hoả hoạn, tai nạn bất ngờ hoặc trường hợp bất khả kháng khác. Mức miễn phạt tối đa không quá giá trị tài sản, hàng hoá bị thiệt hại.
2. Hồ sơ đề nghị miễn xử phạt vi phạm pháp luật về thuế bao gồm:
a) Công văn đề nghị miễn phạt, trong đó nêu rõ lý do đề nghị miễn phạt;
b) Văn bản xác định giá trị tài sản, hàng hoá bị thiệt hại do thiên tai, hoả hoạn, tai nạn bất ngờ hoặc các trường hợp bất khả kháng khác;
c) Biên bản kiểm kê giá trị tài sản, hàng hoá bị thiệt hại được lập do người đại diện hợp pháp của tổ chức, cá nhân bị thiệt hại phối hợp với cơ quan Công an hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã kiểm tra, xác nhận.
Trong biên bản kiểm kê giá trị thiệt hại phải xác định rõ giá trị tài sản, hàng hoá bị thiệt hại, nguyên nhân gây ra thiệt hại, trách nhiệm tổ chức, cá nhân về những thiệt hại; số lượng, chủng loại, giá trị có thể thu hồi được.
d) Hồ sơ bồi thường thiệt hại được cơ quan bảo hiểm chấp nhận bồi thường (nếu có);
đ) Hồ sơ quy định trách nhiệm của tổ chức, cá nhân phải bồi thường thiệt hại (nếu có).
3. Thủ trưởng cơ quan thuế có trách nhiệm xem xét miễn xử phạt vi phạm pháp luật về thuế khi nhận được hồ sơ đề nghị miễn xử phạt của người nộp thuế đối với các vụ việc thuộc thẩm quyền xử lý của mình hoặc của cấp dưới theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
4. Không miễn xử phạt vi phạm pháp luật về thuế đối với các trường hợp đã thực hiện xong quyết định xử phạt vi phạm pháp luật về thuế hoặc đã hết thời hiệu giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật.
Việc chấp hành quyết định xử phạt vi phạm pháp luật về thuế được quy định như sau:
1. Cá nhân, tổ chức bị xử phạt phải chấp hành quyết định xử phạt vi phạm pháp luật về thuế trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày được giao quyết định xử phạt, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Sau khi ra quyết định xử phạt, người có thẩm quyền xử phạt phải giao quyết định cho người bị xử phạt hoặc thông báo cho họ đến nhận; thời điểm người bị xử phạt nhận được quyết định xử phạt được coi là thời điểm được giao quyết định xử lý vi phạm pháp luật về thuế;
Trường hợp cá nhân bị phạt tiền từ 500.000 đồng trở lên, đang gặp khó khăn đặc biệt về kinh tế thì người có thẩm quyền ra quyết định xử phạt được quyết định hoãn chấp hành quyết định xử phạt trong thời hạn không quá 03 tháng, kể từ khi ban hành quyết định xử phạt.
Bộ Tài chính hướng dẫn thủ tục xử lý làm căn cứ đảm bảo thực hiện quyết định xử phạt đối với trường hợp người bị xử phạt không nhận quyết định xử phạt vi phạm pháp luật về thuế và thủ tục hoãn chấp hành quyết định xử phạt theo quy định tại khoản này.
2. Trường hợp đã qua một năm, mà người có thẩm quyền không thể giao quyết định xử phạt đến người bị xử phạt do người đó không đến nhận và không xác định được địa chỉ của họ hoặc lý do khách quan khác thì người đã ra quyết định xử phạt ra quyết định đình chỉ thi hành các hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả ghi trong quyết định đối với người đó, trừ hình thức tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm pháp luật về thuế; đối với tang vật, phương tiện vi phạm đang bị tạm giữ thì áp dụng theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Ngân sách nhà nước chi trả cho việc thực hiện các biện pháp này hoặc được trừ vào tiền bán tang vật, phương tiện bị tịch thu (nếu có).
Quyết định buộc khắc phục hậu quả phải được thể hiện dưới hình thức văn bản.
Hình thức, nội dung, trình tự, thủ tục ban hành quyết định xử phạt vi phạm pháp luật về thuế phải tuân thủ những quy định của pháp luật xử lý vi phạm hành chính.
Việc chuyển quyết định xử phạt vi phạm pháp luật về thuế để thi hành được quy định như sau:
1. Trường hợp cá nhân, tổ chức vi phạm pháp luật về thuế ở đơn vị hành chính thuộc tỉnh này nhưng cư trú, đóng trụ sở ở tỉnh khác và không có điều kiện chấp hành quyết định xử phạt tại nơi bị xử phạt thì quyết định được chuyển đến cơ quan thuế cùng cấp nơi cá nhân cư trú, tổ chức đóng trụ sở để tổ chức thi hành;
2. Trong trường hợp vi phạm xảy ra ở địa bàn cấp huyện thuộc phạm vi một tỉnh ở miền núi, hải đảo hoặc những vùng xa xôi, hẻo lánh khác mà việc đi lại gặp khó khăn và cá nhân, tổ chức vi phạm không có điều kiện chấp hành quyết định xử phạt tại nơi bị xử phạt thì quyết định được chuyển đến cơ quan cùng cấp với cơ quan ra quyết định xử phạt tại nơi cá nhân cư trú, tổ chức đóng trụ sở để tổ chức thi hành.
1. Trong quá trình xử lý vi phạm pháp luật về thuế, nếu xét thấy tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về thuế có dấu hiệu tội phạm, thì người có thẩm quyền phải chuyển hồ sơ cho cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày phát hiện có dấu hiệu tội phạm.
2. Đối với trường hợp đã ra quyết định xử lý vi phạm pháp luật về thuế, sau đó phát hiện hành vi vi phạm có dấu hiệu tội phạm mà chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, thì người đã ra quyết định xử lý vi phạm pháp luật về thuế phải huỷ quyết định đó và trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày huỷ quyết định phải chuyển hồ sơ xử lý vi phạm cho cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền.
Cơ quan thuế chuyển bộ hồ sơ gốc vụ vi phạm pháp luật về thuế cho cơ quan tiến hành tố tụng trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo về việc quyết định khởi tố vụ án hình sự.
3. Trường hợp cơ quan thuế đã chuyển hồ sơ cho cơ quan tiến hành tố tụng hình sự, nhưng quá thời hạn 03 ngày, kể từ ngày hết hạn ra quyết định khởi tố hoặc ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự theo quy định tại Điều 103 của Bộ luật Tố tụng hình sự mà cơ quan thuế chưa nhận được thông báo của cơ quan có thẩm quyền truy cứu trách nhiệm hình sự về việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án thì người có thẩm quyền xử phạt vi phạm pháp luật về thuế phải ra quyết định xử phạt theo quy định của Luật Quản lý thuế.
1. Trường hợp hồ sơ vụ vi phạm pháp luật về thuế đã được chuyển cho cơ quan tiến hành tố tụng hình sự, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự xét thấy hành vi vi phạm không đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm thì phải ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự theo quy định tại Điều 103 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày ra quyết định không khởi tố vụ án, cơ quan tiến hành tố tụng hình sự phải chuyển quyết định không khởi tố vụ án kèm theo hồ sơ vụ vi phạm cho cơ quan thuế có thẩm quyền để xử lý vi phạm pháp luật về thuế.
2. Trường hợp cá nhân đã bị khởi tố, truy tố hoặc đã có quyết định đưa ra xét xử theo thủ tục tố tụng hình sự, nhưng sau đó lại có quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án thì trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày ra quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án, cơ quan tiến hành tố tụng hình sự phải chuyển quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án vi phạm kèm theo hồ sơ vụ vi phạm cho cơ quan thuế có thẩm quyền để xử lý vi phạm pháp luật về thuế.
3. Sau khi nhận được hồ sơ vụ vi phạm quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, cơ quan thuế có thẩm quyền xử phạt phải ra quyết định xử phạt đối với từng trường hợp theo quy định tại Điều 23 Nghị định này.
1. Phạm vi điều chỉnh: Chương này quy định về nguyên tắc, thẩm quyền, trình tự, thủ tục thực hiện các quy định cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế đối với tổ chức, cá nhân đã quá thời hạn chấp hành hoặc thời hạn hoãn chấp hành các quyết định hành chính thuế theo quy định của Luật Quản lý thuế, trừ biện pháp dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hoá nhập khẩu.
Quyết định hành chính thuế bị cưỡng chế thi hành bao gồm: thông báo tiền thuế nợ và tiền phạt; thông báo ấn định thuế; quyết định xử phạt hành chính về thuế; quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính thuế; quyết định về bồi thường thiệt hại; quyết định hành chính thuế khác theo quy định của pháp luật.
a) Người nộp thuế bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế theo quy định của Luật Quản lý thuế;
b) Cơ quan thuế, công chức thuế bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế;
c) Người có thẩm quyền và trách nhiệm cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế;
d) Cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân khác liên quan đến việc thực hiện cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế.
1. Các trường hợp bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế đối với người nộp thuế quy định tại Điều 92 của Luật Quản lý thuế.
2. Ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác, người bảo lãnh nộp tiền thuế không chấp hành quyết định xử phạt vi phạm pháp luật về thuế theo quy định của Luật Quản lý thuế.
3. Người bảo lãnh việc thực hiện nghĩa vụ nộp tiền thuế, tiền phạt thay cho người nộp thuế trong trường hợp người nộp thuế không nộp tiền thuế vào tài khoản của ngân sách nhà nước hoặc vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 114 của Luật Quản lý thuế.
4. Kho bạc Nhà nước không thực hiện việc trích tài khoản của đối tượng bị cưỡng chế vào ngân sách nhà nước theo quyết định xử phạt vi phạm pháp luật về thuế của cơ quan thuế.
5. Tổ chức, cá nhân có liên quan không chấp hành các quyết định xử lý vi phạm pháp luật về thuế của cơ quan có thẩm quyền.
Các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế bao gồm:
1. Trích tiền từ tài khoản của đối tượng bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế tại Kho bạc Nhà nước, ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác; yêu cầu phong toả tài khoản.
2. Khấu trừ một phần tiền lương hoặc thu nhập.
3. Kê biên tài sản, bán đấu giá tài sản kê biên theo quy định của pháp luật để thu tiền thuế nợ, tiền phạt vào ngân sách nhà nước.
4. Thu tiền, tài sản khác của đối tượng bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế do tổ chức, cá nhân khác đang giữ.
5. Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật về thuế.
6. Thu hồi mã số thuế; đình chỉ việc sử dụng hóa đơn.
7. Thu hồi Giấy chứng nhận kinh doanh, Giấy phép thành lập và hoạt động, Giấy phép hành nghề.
Nguồn tiền khấu trừ và tài sản kê biên đối với tổ chức bị áp dụng cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế được thực hiện theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và pháp luật khác liên quan.
Những người sau đây có thẩm quyền ra quyết định một trong các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế quy định tại Điều 33 Nghị định này và có nhiệm vụ tổ chức việc cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt của mình và của cấp dưới:
1. Thủ trưởng cơ quan thuế các cấp có thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5 và khoản 6 Điều 33 Nghị định này.
2. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp tỉnh được quyền ra quyết định cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm pháp luật về thuế trong phạm vi mình phụ trách.
3. Trường hợp người vi phạm bị áp dụng biện pháp cưỡng chế quy định tại khoản 7 Điều 33 Nghị định này thì cơ quan thuế xử lý vụ việc lập hồ sơ, tài liệu và thông báo, chuyển giao cho cơ quan thẩm quyền xử lý theo quy định.
Người có thẩm quyền quy định tại khoản 3, khoản 4 Điều 18 Nghị định này có thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế và tổ chức việc cưỡng chế thi hành đối với quyết định hành chính thuế của cấp dưới trong các trường hợp sau:
1. Cấp dưới không có thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế.
2. Cấp dưới có thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế nhưng không đủ điều kiện về lực lượng, phương tiện để tổ chức thi hành quyết định cưỡng chế và có văn bản đề nghị cấp trên ra quyết định cưỡng chế.
3. Việc thi hành quyết định cưỡng chế liên quan đến nhiều địa phương, tổ chức, cá nhân.
1. Việc cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế chỉ được thực hiện khi có quyết định cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế của người có thẩm quyền quy định tại Điều 35 Nghị định này.
2. Quyết định cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế bao gồm các nội dung chủ yếu sau: ngày, tháng, năm ra quyết định; căn cứ ra quyết định cưỡng chế; họ tên, chức vụ đơn vị người ra quyết định cưỡng chế; họ tên, nơi cư trú, trụ sở của đối tượng bị cưỡng chế; lý do, biện pháp cưỡng chế; thời gian, địa điểm thực hiện cưỡng chế; cơ quan chủ trì thực hiện quyết định cưỡng chế; cơ quan có trách nhiệm phối hợp; chữ ký của người ra quyết định; dấu của cơ quan ra quyết định cưỡng chế.
3. Quyết định cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế phải được gửi cho đối tượng bị cưỡng chế và tổ chức, cá nhân có liên quan trong thời hạn 05 ngày làm việc trước khi thực hiện cưỡng chế; quyết định cưỡng chế phải được gửi cho cơ quan thuế cấp trên trực tiếp; trường hợp cưỡng chế bằng biện pháp quy định tại khoản 3 Điều 33 Nghị định này thì quyết định phải được gửi cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi thực hiện cưỡng chế trước khi thực hiện.
1. Người ra quyết định cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế có nhiệm vụ tổ chức thực hiện quyết định cưỡng chế đó.
2. Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đối tượng bị cưỡng chế có trách nhiệm chỉ đạo các cơ quan liên quan phối hợp với cơ quan thuế thực hiện việc cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế.
3. Lực lượng công an nhân dân có trách nhiệm bảo đảm trật tự, an toàn và hỗ trợ cơ quan thuế trong quá trình cưỡng chế khi có yêu cầu của người ra quyết định cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế.
4. Tổ chức, cá nhân liên quan đến đối tượng bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế có trách nhiệm phối hợp thực hiện việc cưỡng chế khi có yêu cầu của người ra quyết định cưỡng chế.
1. Quyết định cưỡng chế hành chính thuế có hiệu lực thi hành trong thời hạn 01 năm, kể từ ngày ra quyết định.
2. Trường hợp cá nhân, tổ chức bị cưỡng chế cố tình trốn tránh, trì hoãn thi hành quyết định cưỡng chế thì thời hiệu thi hành được tính lại kể từ thời điểm hành vi trốn tránh, trì hoãn được chấm dứt.
3. Các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế quy định tại khoản 1 Điều này chấm dứt hiệu lực kể từ khi tiền thuế, tiền phạt bị cưỡng chế đã được nộp đủ vào ngân sách nhà nước. Căn cứ để chấm dứt hiệu lực của quyết định cưỡng chế thuế là chứng từ nộp đủ tiền thuế, tiền phạt vào ngân sách nhà nước của người bị cưỡng chế có xác nhận của cơ quan Kho bạc Nhà nước hoặc cơ quan được phép thu thuế, ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác trích tiền từ tài khoản của đối tượng bị cưỡng chế.
Việc cưỡng chế bằng biện pháp khấu trừ tiền từ tài khoản tiền gửi được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức không tự nguyện chấp hành quyết định xử phạt, quyết định khắc phục hậu quả hoặc không thanh toán chi phí cưỡng chế khi:
1. Cá nhân bị cưỡng chế có tiền gửi tại Kho bạc Nhà nước, tại ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng khác ở Việt Nam.
2. Tổ chức bị cưỡng chế có tiền gửi tại Kho bạc Nhà nước, tại ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng khác ở Việt Nam.
1. Người có thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế trích tiền từ tài khoản tiền gửi tại ngân hàng, Kho bạc Nhà nước, tổ chức tín dụng khác có quyền thu thập, xác minh và yêu cầu ngân hàng, Kho bạc Nhà nước, tổ chức tín dụng khác, tổ chức tài chính cung cấp các thông tin về tài khoản, số tiền hiện có trong tài khoản của cá nhân, tổ chức bị cưỡng chế. Đồng thời, người có thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế có trách nhiệm bảo mật những thông tin về tài khoản của đối tượng bị cưỡng chế khi được ngân hàng, tổ chức tín dụng và tổ chức tài chính khác cung cấp.
2. Đối tượng bị cưỡng chế có trách nhiệm thông báo cho người có thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế về tên của ngân hàng, Kho bạc Nhà nước, tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính nơi mở tài khoản, số và ký hiệu các tài khoản của mình tại các ngân hàng, tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính khác khi có yêu cầu.
3. Kho bạc Nhà nước, ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng khác nơi người bị cưỡng chế mở tài khoản có trách nhiệm thông báo cho người có thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế khấu trừ tiền từ tài khoản về nơi mở tài khoản, số tài khoản của người bị cưỡng chế khi có yêu cầu.
1. Quyết định cưỡng chế bằng biện pháp trích tiền từ tài khoản tiền gửi phải ghi rõ ngày, tháng, năm ra quyết định; căn cứ ra quyết định; họ tên, chức vụ, đơn vị công tác của người ra quyết định; số tiền bị khấu trừ (ghi trên quyết định xử lý hành chính và chi phí cưỡng chế tính đến hết thời hạn 05 ngày trước khi tiến hành cưỡng chế); lý do khấu trừ; họ tên, mã số thuế, số tài khoản của cá nhân, tổ chức bị khấu trừ; tên, địa chỉ ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, tổ chức tài chính nơi người bị áp dụng biện pháp cưỡng chế khấu trừ mở tài khoản; tên, địa chỉ, số tài khoản của ngân sách nhà nước mở tại Kho bạc Nhà nước, phương thức chuyển số tiền bị khấu trừ từ ngân hàng, tổ chức tín dụng khác đến Kho bạc Nhà nước; thời hạn thi hành; người có thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế ký tên và đóng dấu.
2. Quyết định cưỡng chế bằng biện pháp trích tiền từ tài khoản tiền gửi phải được gửi cho cá nhân, tổ chức bị khấu trừ, Kho bạc Nhà nước, ngân hàng, tổ chức tín dụng khác nơi tổ chức, cá nhân mở tài khoản và các cơ quan liên quan trong thời hạn 05 ngày trước khi tiến hành cưỡng chế.
1. Cung cấp các thông tin cần thiết về số hiệu tài khoản, số dư tiền gửi của cá nhân, tổ chức bị cưỡng chế mở tại đơn vị mình trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được yêu của người có thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế khấu trừ tiền từ tài khoản tiền gửi.
2. Tiến hành phong toả ngay các tài khoản của đối tượng bị cưỡng chế ngay khi nhận được quyết định cưỡng chế của người có thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế.
3. Chuyển số tiền của tổ chức, cá nhân bị cưỡng chế vào tài khoản của ngân sách nhà nước mở tại Kho bạc Nhà nước ghi trong quyết định cưỡng chế khấu trừ tiền thuế, tiền phạt, chi phí cưỡng chế trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định cưỡng chế; đồng thời thông báo cho cơ quan đã ra quyết định cưỡng chế và cá nhân, tổ chức bị cưỡng chế biết.
4. Thông báo bằng văn bản cho cơ quan đã ra quyết định cưỡng chế biết khi quyết định cưỡng chế hết hiệu lực mà tài khoản của cá nhân, tổ chức bị cưỡng chế không đủ số tiền để khấu trừ nộp vào ngân sách.
5. Trong thời hạn thi hành quyết định cưỡng chế, nếu trong tài khoản của cá nhân, tổ chức bị cưỡng chế còn số dư mà không thực hiện trích nộp vào ngân sách nhà nước theo quyết định cưỡng chế thì bị xử phạt vi phạm pháp luật về thuế theo quy định Nghị định này.
1. Việc khấu trừ khấu trừ tiền từ tài khoản của cá nhân, tổ chức bị cưỡng chế hành chính được thực hiện trên cơ sở các chứng từ thu theo quy định hiện hành. Chứng từ thu sử dụng để khấu trừ tiền từ tài khoản được gửi cho các bên liên quan.
2. Sau khi thu tiền, Kho bạc Nhà nước nơi nhận tiền khấu trừ có trách nhiệm thông báo cho người có thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế biết.
Biện pháp khấu trừ một phần tiền lương hoặc thu nhập được áp dụng đối với người nộp thuế bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế trong các trường hợp:
1. Cá nhân bị cưỡng chế là cán bộ, công chức hoặc cá nhân đang làm việc được hưởng lương hoặc thu nhập tại một cơ quan, tổ chức theo hợp đồng lao động có thời hạn từ 6 tháng trở lên;
2. Cá nhân bị cưỡng chế đang được hưởng trợ cấp hưu trí hoặc mất sức hàng tháng.
1. Quyết định cưỡng chế bằng biện pháp khấu trừ một phần tiền lương hoặc một phần thu nhập đối với cá nhân phải ghi rõ ngày, tháng, năm ra quyết định; căn cứ ra quyết định; họ tên, chức vụ, đơn vị công tác của người ra quyết định; họ tên, địa chỉ của cá nhân bị cưỡng chế khấu trừ một phần tiền lương hoặc một phần thu nhập; tên, địa chỉ cơ quan, tổ chức quản lý tiền lương hoặc thu nhập của cá nhân bị cưỡng chế; số tiền bị khấu trừ (ghi trên quyết định xử lý hành chính và chi phí cưỡng chế tính đến hết thời hạn 05 ngày trước khi tiến hành cưỡng chế), lý do khấu trừ; tên, địa chỉ của Kho bạc Nhà nước nhận tiền, phương thức chuyển số tiền bị khấu trừ đến kho bạc; thời gian thi hành; chữ ký của người ra quyết định, dấu của cơ quan ra quyết định.
2. Quyết định cưỡng chế được gửi đến cá nhân bị cưỡng chế và cơ quan, tổ chức trực tiếp quản lý tiền lương hoặc thu nhập của cá nhân bị cưỡng chế và các cơ quan liên quan.
1. Chỉ khấu trừ một phần tiền lương hoặc một phần thu nhập tương ứng với số tiền đã ghi trong quyết định xử phạt của người có thẩm quyền.
2. Tỷ lệ khấu trừ tiền lương, trợ cấp hưu trí hoặc mất sức đối với cá nhân không thấp hơn 10% và không quá 30% tổng số tiền lương, trợ cấp hằng tháng của cá nhân đó; đối với những khoản thu nhập khác thì tỷ lệ khấu trừ căn cứ vào thu nhập thực tế, nhưng không quá 50% tổng số thu nhập.
Cơ quan, tổ chức đang quản lý tiền lương hoặc thu nhập của đối tượng bị cưỡng chế có trách nhiệm:
1. Khấu trừ một phần tiền lương hoặc thu nhập của đối tượng bị cưỡng chế và chuyển số tiền đã khấu trừ vào tài khoản ngân sách nhà nước tại Kho bạc Nhà nước theo nội dung ghi trong quyết định cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế, kể từ kỳ trả tiền lương hoặc thu nhập gần nhất cho đến khi khấu trừ đủ số tiền thuế, tiền phạt theo quyết định cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế, đồng thời thông báo cho người ra quyết định cưỡng chế và đối tượng bị cưỡng chế biết;
2. Khi đến kỳ phát tiền lương hoặc thu nhập gần nhất, cơ quan, tổ chức, người đang quản lý tiền lương hoặc thu nhập của cá nhân bị cưỡng chế có trách nhiệm khấu trừ một phần tiền lương hoặc thu nhập của cá nhân bị cưỡng chế theo nội dung ghi trong quyết định cưỡng chế và chuyển số tiền đã khấu trừ đến tài khoản tại Kho bạc Nhà nước đã ghi trong quyết định cưỡng chế, đồng thời thông báo cho người có thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế biết;
3. Trường hợp chưa khấu trừ đủ số tiền thuế, số tiền phạt theo quyết định cưỡng chế mà hợp đồng lao động của đối tượng bị cưỡng chế chấm dứt, cơ quan, tổ chức sử dụng lao động phải thông báo cho người ra quyết định cưỡng chế biết trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động;
4. Cơ quan, tổ chức đang quản lý tiền lương hoặc thu nhập của đối tượng bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế cố tình không thực hiện quyết định cưỡng chế thì bị xử phạt vi phạm pháp luật về thuế theo quy định tại Điều 17 Nghị định này.
Cá nhân, tổ chức bị áp dụng biện pháp kê biên tài sản để bán đấu giá khi không tự nguyện chấp hành quyết định xử phạt, không thanh toán chi phí cưỡng chế, bao gồm:
1. Cá nhân là lao động tự do không có cơ quan, tổ chức quản lý lương, thu nhập cố định;
2. Cá nhân, tổ chức không có tài khoản hoặc có số tiền gửi từ tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng nhưng không đủ để áp dụng biện pháp khấu trừ một phần lương hoặc một phần thu nhập, khấu trừ tiền từ tài khoản;
3. Cá nhân, tổ chức không áp dụng được biện pháp cưỡng chế quy định tại điểm a, điểm b khoản 1 Điều 93 của Luật Quản lý thuế hoặc đã áp dụng nhưng vẫn chưa thu đủ số tiền thuế nợ, tiền phạt;
4. Không áp dụng kê biên tài sản trong trường hợp người nộp thuế là cá nhân đang trong thời gian chữa bệnh.
1. Đối với cá nhân bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế:
a) Nhà ở duy nhất của cá nhân và gia đình người bị cưỡng chế;
b) Thuốc chữa bệnh, lương thực, thực phẩm phục vụ nhu cầu thiết yếu của cá nhân, gia đình cho người bị cưỡng chế;
c) Công cụ lao động thông thường cần thiết được dùng làm phương tiện sinh sống chủ yếu hoặc duy nhất của cá nhân và gia đình người bị cưỡng chế;
d) Quần áo, đồ dùng sinh hoạt thiết yếu của cá nhân và gia đình người bị cưỡng chế;
đ) Đồ dùng thờ cúng; di vật, huân chương, huy chương, bằng khen.
2. Đối với cơ sản xuất, kinh doanh:
a) Thuốc chữa bệnh, phương tiện, dụng cụ, tài sản thuộc cơ sở y tế, khám chữa bệnh, trừ trường hợp đây là các tài sản lưu thông để kinh doanh; lương thực, thực phẩm, dụng cụ, tài sản phục vụ ăn giữa ca cho người lao động;
b) Nhà trẻ, trường học và các thiết bị, phương tiện, đồ dùng thuộc các cơ sở này, nếu đây không phải là tài sản lưu thông để kinh doanh của doanh nghiệp;
c) Trang thiết bị, phương tiện, công cụ bảo đảm an toàn lao động, phòng chống cháy nổ, phòng chống ô nhiễm môi trường;
d) Cơ sở hạ tầng phục vụ lợi ích công cộng, an ninh, quốc phòng;
đ) Nguyên - vật liệu, thành phẩm, bán thành phẩm là các hoá chất độc hại nguy hiểm không được phép lưu hành;
e) Số nguyên - vật liệu, bán thành phẩm đang nằm trong dây chuyền sản xuất khép kín.
3. Đối với cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp (gọi chung là cơ quan, tổ chức) hoạt động bằng nguồn vốn do ngân sách nhà nước cấp thì không kê biên các tài sản được mua sắm từ nguồn ngân sách nhà nước mà yêu cầu cơ quan, tổ chức đó có văn bản đề nghị cơ quan có thẩm quyền hỗ trợ tài chính để thực hiện quyết định cưỡng chế.
Trường hợp cơ quan, tổ chức có nguồn thu từ các hoạt động có thu hợp pháp khác thì kê biên các tài sản được đầu tư, mua sắm từ nguồn thu đó để thực hiện quyết định cưỡng chế, trừ các tài sản sau đây:
a) Thuốc chữa bệnh, phương tiện, dụng cụ, tài sản thuộc cơ sở y tế, khám chữa bệnh, trừ trường hợp đây là các tài sản lưu thông để kinh doanh; lương thực, thực phẩm, dụng cụ, tài sản phục vụ việc ăn giữa ca cho cán bộ, công chức;
b) Nhà trẻ, trường học các thiết bị, phương tiện, đồ dùng thuộc các cơ sở này, nếu đây không phải là tài sản lưu thông để kinh doanh của cơ quan, tổ chức;
c) Trang thiết bị, phương tiện, công cụ bảo đảm an toàn lao động, phòng chống cháy nổ, phòng chống ô nhiễm môi trường;
d) Trụ sở làm việc.
1. Quyết định cưỡng chế bằng biện pháp kê biên tài sản phải ghi rõ ngày, tháng, năm ra quyết định; căn cứ ra quyết định; họ tên, chức vụ (cấp bậc), đơn vị người ra quyết định; họ tên, nơi cư trú, trụ sở của cá nhân, tổ chức bị kê biên tài sản; số tiền bị xử phạt; địa điểm kê biên; chữ ký của người ra quyết định, dấu của cơ quan ra quyết định.
2. Việc kê biên tài sản phải được thông báo cho cá nhân, tổ chức bị kê biên tài sản, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú hoặc tổ chức có trụ sở đóng trên địa bàn hoặc cơ quan nơi người đó công tác trước khi tiến hành cưỡng chế là 05 ngày, trừ trường hợp việc thông báo sẽ gây trở ngại cho việc tiến hành kê biên.
1. Việc kê biên tài sản phải thực hiện vào ban ngày và trong giờ làm việc hành chính áp dụng tại địa phương kê biên tài sản.
2. Người ra quyết định cưỡng chế hoặc người được phân công thực hiện quyết định cưỡng chế chủ trì thực hiện việc kê biên.
3. Khi tiến hành kê biên tài sản phải có mặt cá nhân bị cưỡng chế hoặc người đã thành niên trong gia đình, đại diện cho tổ chức bị kê biên tài sản, đại diện chính quyền địa phương và người chứng kiến.
Nếu cá nhân phải thi hành quyết định cưỡng chế hoặc người đã thành niên trong gia đình cố tình vắng mặt, thì vẫn tiến hành kê biên tài sản nhưng phải có đại diện của chính quyền địa phương và người chứng kiến.
4. Cá nhân, tổ chức bị cưỡng chế có quyền đề nghị kê biên tài sản nào trước, người được giao chủ trì kê biên phải chấp nhận nếu xét thấy đề nghị đó không ảnh hưởng đến việc cưỡng chế.
Nếu cá nhân, tổ chức bị cưỡng chế không đề nghị cụ thể việc kê biên tài sản nào trước thì tài sản thuộc sở hữu riêng được kê biên trước.
5. Chỉ kê biên những tài sản thuộc sở hữu chung của cá nhân bị cưỡng chế với người khác nếu cá nhân bị cưỡng chế không có tài sản riêng hoặc tài sản riêng không đủ để thi hành quyết định cưỡng chế. Trường hợp tài sản có tranh chấp thì vẫn tiến hành kê biên và giải thích cho những người cùng sở hữu tài sản kê biên về quyền khởi kiện theo thủ tục tố tụng dân sự.
Cơ quan tiến hành kê biên có trách nhiệm thông báo công khai thời gian, địa điểm tiến hành kê biên để các đồng sở hữu biết. Hết thời hạn 03 tháng, kể từ ngày kê biên mà không có người khởi kiện thì tài sản kê biên được đem bán đấu giá theo quy định của pháp luật về bán đấu giá tài sản.
6. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày kê biên tài sản, đối tượng bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế không nộp đủ tiền thuế nợ, tiền phạt thì cơ quan thuế được quyền bán đấu giá tài sản kê biên để thu đủ tiền thuế nợ, tiền phạt.
1. Việc kê biên tài sản phải được lập biên bản. Trong biên bản phải ghi thời gian, địa điểm tiến hành kê biên tài sản; họ tên, chức vụ người chủ trì thực hiện việc kê biên; người đại diện cho tổ chức bị cưỡng chế kê biên tài sản, cá nhân có tài sản bị kê biên hoặc người đại diện hợp pháp cho họ; người chứng kiến; đại diện chính quyền địa phương (hoặc cơ quan của cá nhân bị cưỡng chế); mô tả tên gọi, tình trạng, đặc điểm từng tài sản bị kê biên.
2. Người chủ trì thực hiện việc kê biên; người đại diện cho tổ chức bị cưỡng chế kê biên tài sản, cá nhân có tài sản bị kê biên hoặc người đại diện hợp pháp cho họ; người chứng kiến; đại diện chính quyền địa phương (hoặc cơ quan của cá nhân bị cưỡng chế) ký tên vào biên bản. Trong trường hợp có người vắng mặt hoặc có mặt mà từ chối ký biên bản thì việc đó phải ghi vào biên bản và nêu rõ lý do.
3. Biên bản kê biên được lập thành 02 bản, cơ quan ra quyết định cưỡng chế giữ 01 bản, 01 bản được giao cho cá nhân bị kê biên hoặc đại diện tổ chức bị cưỡng chế kê biên ngay sau khi hoàn thành việc lập biên bản kê biên tài sản.
1. Người chủ trì thực hiện kê biên lựa chọn một trong các hình thức sau đây để bảo quản tài sản kê biên:
a) Giao cho người bị cưỡng chế, thân nhân của người bị cưỡng chế hoặc người đang quản lý, sử dụng tài sản đó bảo quản;
b) Giao cho một trong những đồng sở hữu chung bảo quản nếu tài sản đó thuộc sở hữu chung;
c) Giao cho tổ chức, cá nhân có điều kiện bảo quản.
2. Đối với tài sản là vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, ngoại tệ thì tạm giao cho Kho bạc Nhà nước quản lý; đối với các tài sản như vật liệu nổ công nghiệp, công cụ hỗ trợ, vật có giá trị lịch sử, văn hoá, bảo vật quốc gia, cổ vật, hàng lâm sản quý hiếm thì tạm giao cho cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành để quản lý.
3. Khi giao bảo quản tài sản kê biên, người chủ trì thực hiện kê biên phải lập biên bản ghi rõ: ngày, tháng, năm bàn giao bảo quản; họ và tên người chủ trì thực hiện quyết định cưỡng chế, cá nhân, đại diện tổ chức bị cưỡng chế, người được giao bảo quản tài sản, người chứng kiến việc bàn giao; số lượng, tình trạng (chất lượng) tài sản; quyền và nghĩa vụ của người được giao bảo quản tài sản.
Người chủ trì thực hiện kê biên, người được giao bảo quản tài sản, cá nhân, đại diện tổ chức bị cưỡng chế, người chứng kiến ký tên vào biên bản. Trong trường hợp có người vắng mặt hoặc có mặt mà từ chối ký biên bản thì việc đó phải ghi vào biên bản và nêu rõ lý do.
Biên bản được giao cho người được giao bảo quản tài sản, cá nhân, đại diện tổ chức bị cưỡng chế, người chứng kiến và người chủ trì thực hiện kê biên mỗi người giữ một bản.
4. Người được giao bảo quản tài sản được thanh toán chi phí thực tế, hợp lý để bảo quản tài sản, trừ những người quy định tại điểm a khoản 1 Điều này.
5. Người được giao bảo quản tài sản mà để xảy ra hư hỏng, đánh tráo, làm mất hay hủy hoại tài sản thì phải chịu trách nhiệm bồi thường và tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý vi phạm theo quy định của Nghị định này hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật hình sự.
1. Việc định giá tài sản đã kê biên được tiến hành tại nhà của cá nhân hoặc trụ sở của tổ chức bị kê biên hoặc nơi lưu giữ tài sản bị kê biên (trừ trường hợp phải thành lập Hội đồng định giá).
2. Tài sản đã kê biên được định giá theo sự thoả thuận giữa người chủ trì thực hiện quyết định cưỡng chế với đại diện tổ chức hoặc cá nhân bị cưỡng chế và chủ sở hữu chung trong trường hợp kê biên tài sản chung. Thời hạn để các bên thoả thuận về giá không quá 05 ngày làm việc, kể từ ngày tài sản được kê biên.
Đối với tài sản kê biên có giá trị dưới 500.000 đồng hoặc tài sản thuộc loại mau hỏng, nếu các bên không thoả thuận được với nhau về giá thì người có thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế có trách nhiệm định giá.
3. Trường hợp tài sản kê biên có giá trị từ 500.000 đồng trở lên thuộc loại khó định giá hoặc các bên không thoả thuận được về giá thì trong thời hạn không quá 15 ngày kể từ ngày tài sản bị kê biên, người đã ra quyết định cưỡng chế đề nghị cơ quan có thẩm quyền thành lập Hội đồng định giá, trong đó người đã ra quyết định cưỡng chế là Chủ tịch Hội đồng, đại diện cơ quan tài chính, cơ quan chuyên môn liên quan là thành viên.
Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày được thành lập, Hội đồng định giá phải tiến hành việc định giá. Cá nhân bị kê biên hoặc đại diện tổ chức có tài sản bị kê biên được tham gia ý kiến vào việc định giá, nhưng quyền quyết định giá thuộc Hội đồng định giá.
Việc định giá tài sản dựa trên giá thị trường tại thời điểm định giá. Đối với tài sản mà nhà nước thống nhất quản lý giá thì việc định giá dựa trên cơ sở giá tài sản do nhà nước quy định.
4. Việc định giá tài sản phải được lập thành biên bản, trong đó ghi rõ thời gian, địa điểm tiến hành định giá, thành phần những người tham gia định giá, tên và trị giá tài sản đã được định giá, chữ ký của các thành viên tham gia định giá và của chủ tài sản.
1. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định thành lập Hội đồng định giá đối với những trường hợp việc cưỡng chế hành chính thuộc thẩm quyền của các cơ quan quản lý nhà nước cấp huyện, cấp xã.
2. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập Hội đồng định giá đối với những trường hợp việc cưỡng chế hành chính thuộc thẩm quyền của các cơ quan quản lý nhà nước cấp tỉnh.
3. Việc thành lập Hội đồng định giá ở các cơ quan Trung ương do Bộ trưởng Bộ chủ quản quyết định, sau khi thống nhất với Bộ trưởng Bộ Tài chính và các Bộ, ngành liên quan.
1. Nghiên cứu, đề xuất việc tổ chức và nội dung cuộc họp Hội đồng định giá.
2. Chuẩn bị các tài liệu cần thiết cho việc định giá.
3. Tiến hành định giá tài sản.
4. Lập biên bản định giá.
1. Đối với tài sản bị kê biên để bán đấu giá, căn cứ vào giá trị tài sản được xác định theo quy định tại Điều 55 Nghị định này, trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày ra quyết định kê biên, người chủ trì cưỡng chế ký hợp đồng ủy quyền bán đấu giá với các tổ chức có chức năng bán đấu giá để tổ chức bán đấu giá tài sản theo quy định sau đây:
a) Đối với tài sản đã kê biên có giá trị đã định dưới 10.000.000 đồng thì người chủ trì cưỡng chế ký hợp đồng ủy quyền bán đấu giá với cơ quan tài chính cấp huyện để tổ chức bán đấu giá;
b) Đối với tài sản đã kê biên có giá trị đã định trên 10.000.000 đồng thì người chủ trì cưỡng chế ký hợp đồng ủy quyền bán đấu giá với Trung tâm dịch vụ bán đấu giá cấp tỉnh nơi có tài sản để tổ chức bán đấu giá.
2. Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn việc xác định giá khởi điểm để bán đấu giá các tài sản quy định tại điểm a và b khoản 1 Điều này.
3. Việc chuyển giao tài sản kê biên cho cơ quan có trách nhiệm bán đấu giá phải được lập thành biên bản. Trong biên bản phải ghi rõ: ngày, tháng, năm bàn giao; người bàn giao, người nhận; chữ ký của người giao, người nhận; số lượng, tình trạng tài sản. Hồ sơ bàn giao tài sản kê biên cho cơ quan có trách nhiệm bán đấu giá bao gồm: quyết định cưỡng chế kê biên; các giấy tờ, tài liệu có liên quan đến quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp (nếu có); văn bản định giá tài sản và biên bản bàn giao tài sản đó.
4. Trong trường hợp tài sản kê biên là hàng hoá cồng kềnh hoặc có số lượng lớn mà Trung tâm dịch vụ bán đấu giá cấp tỉnh hoặc cơ quan tài chính cấp huyện không có nơi cất giữ tài sản thì sau khi thực hiện xong thủ tục chuyển giao có thể ký hợp đồng bảo quản tài sản với nơi đang giữ tài sản đó. Chi phí cho việc thực hiện hợp đồng bảo quản được thanh toán từ số tiền bán đấu giá tài sản thu được sau khi bán đấu giá.
5. Khi tài sản kê biên đã được chuyển giao cho cơ quan có trách nhiệm bán đấu giá thì thủ tục bán đấu giá tài sản đó được thực hiện theo quy định của pháp luật hiện hành về bán đấu giá tài sản.
6. Đối với tài sản thuộc sở hữu chung, khi bán đấu giá thì ưu tiên bán trước cho người đồng sở hữu.
7. Trường hợp số tiền bán đấu giá tài sản nhiều hơn số tiền ghi trong quyết định xử phạt và chi phí cho việc cưỡng chế thì trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày bán đấu giá, cơ quan thi hành biện pháp cưỡng chế kê biên bán đấu giá tài sản làm thủ tục trả lại phần chênh lệch cho người, tổ chức bị cưỡng chế.
1. Người mua tài sản kê biên được pháp luật công nhận và bảo vệ quyền sở hữu đối với tài sản đó.
2. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm thực hiện thủ tục chuyển quyền sở hữu cho người mua theo quy định của pháp luật.
3. Hồ sơ chuyển quyền sở hữu gồm có:
a) Bản sao quyết định cưỡng chế hành chính bằng biện pháp kê biên tài sản để bán đấu giá;
b) Biên bản bán đấu giá tài sản;
c) Các giấy tờ khác liên quan đến tài sản (nếu có).
Việc cưỡng chế thu tiền, tài sản của đối tượng bị cưỡng chế do tổ chức, cá nhân khác (sau đây gọi là bên thứ ba) đang giữ được áp dụng khi có đủ các điều kiện sau đây:
1. Cơ quan thuế không áp dụng được các biện pháp cưỡng chế quy định tại điểm a, b và c khoản 1 Điều 93 của Luật Quản lý thuế hoặc đã áp dụng các biện pháp trên nhưng vẫn chưa thu đủ số tiền thuế nợ, tiền phạt;
2. Cơ quan thuế có căn cứ xác định bên thứ ba đang có khoản nợ hoặc giữ tiền, tài sản của đối tượng bị cưỡng chế.
1. Bên thứ ba có khoản nợ đến hạn phải trả đối tượng bị cưỡng hoặc đang giữ tiền, tài sản, hàng hoá của đối tượng bị cưỡng chế.
2. Trường hợp tiền, tài sản của đối tượng bị cưỡng chế do bên thứ ba đang giữ là đối tượng của các giao dịch bảo đảm hoặc thuộc trường hợp giải quyết phá sản thì việc thu tiền, tài sản từ bên thức ba được thực hiện theo quy định của pháp luật.
3. Số tiền bên thứ ba nộp vào ngân sách nhà nước thay cho đối tượng bị cưỡng chế được xác định là số tiền đã thanh toán cho đối tượng bị cưỡng chế.
Căn cứ vào chứng từ thu tiền, tài sản của bên thứ ba, cơ quan có thẩm quyền thực hiện cưỡng chế thông báo cho đối tượng bị cưỡng chế và các cơ quan liên quan được biết.
1. Cung cấp cho cơ quan thuế thông tin về khoản nợ hoặc khoản tiền, tài sản đang giữ của đối tượng thuộc diện cưỡng chế, trong đó nêu rõ số lượng tiền, thời hạn thanh toán nợ, loại tài sản, số lượng tài sản, tình trạng tài sản.
2. Khi nhận được văn bản yêu cầu của cơ quan thuế, không được chuyển trả tiền, tài sản cho đối tượng bị cưỡng chế cho đến khi thực hiện nộp tiền vào ngân sách nhà nước hoặc chuyển giao tài sản cho cơ quan thuế để làm thủ tục bán đấu giá.
3. Trong trường hợp không thực hiện được yêu cầu của cơ quan thuế thì phải có văn bản giải trình với cơ quan thuế trong thời hạn 05 (năm) ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu của cơ quan thuế.
4. Tổ chức, cá nhân đang có khoản nợ hoặc giữ tiền, tài sản của đối tượng bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế không thực hiện nộp thay số tiền thuế bị cưỡng chế trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu của cơ quan thuế thì bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế theo quy định tại khoản 1 Điều 93 của Luật Quản lý thuế.
1. Biện pháp cưỡng chế theo quy định tại Mục này được thực hiện khi cơ quan thuế đã áp dụng các biện pháp cưỡng chế theo quy định tại điểm a, b, c và d khoản 1 Điều 93 của Luật Quản lý thuế nhưng vẫn chưa thu đủ số tiền thuế nợ, tiền phạt.
2. Khi thực hiện biện pháp cưỡng chế theo quy định tại Mục này, cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền phải thông báo công khai trên phương tiện thông tin đại chúng.
Thủ trưởng cơ quan thuế các cấp áp dụng các biện pháp cưỡng chế thu hồi mã số thuế, đình chỉ sử dụng hoá đơn theo đúng quy định Điều 94 của Luật Quản lý thuế. Khi áp dụng biện pháp cưỡng chế này, thủ trưởng cơ quan thuế các cấp phải thông báo cho đối tượng bị cưỡng chế biết trong thời hạn 03 (ba) ngày làm việc trước khi thu hồi mã số thuế và ra quyết định thu hồi mã số thuế, quyết định đình chỉ sử dụng hoá đơn trong thời hạn 10 (mười) ngày, kể từ ngày giao thông báo cho đối tượng bị cưỡng chế.
Khi áp dụng biện pháp cưỡng chế thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy phép thành lập và hoạt động, giấy phép hành nghề đối với người nộp thuế thì cơ quan thuế phải gửi văn bản yêu cầu cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền để thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy phép thành lập và hoạt động, giấy phép hành nghề trong vòng 03 (ba) ngày, kể từ ngày xác định đối tượng thuộc diện bị áp dụng biện pháp cưỡng chế.
Trong thời hạn 10 (mười) ngày kể từ ngày nhận được thông báo của cơ quan thuế, cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền phải ra quyết định thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy phép thành lập và hoạt động, giấy phép hành nghề hoặc thông báo cho cơ quan thuế về việc không thu hồi.
1. Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2007. Trường hợp Điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định về xử lý vi phạm pháp luật về thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế khác với quy định tại Nghị định này thì thực hiện theo quy định của Điều ước quốc tế đó.
2. Bãi bỏ Nghị định số 100/2004/NĐ-CP ngày 25 tháng 02 năm 2004 của Chính phủ về xử phạt vi phạm pháp luật về thuế.
3. Việc xử lý đối với hành vi vi phạm pháp luật về thuế đã xảy ra trước ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành được áp dụng theo quy định của pháp luật có hiệu lực thi hành tại thời điểm đó.
Trường hợp mức xử phạt đối với cùng một hành vi quy định tại Nghị định này nhẹ hơn mức xử phạt quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật pháp luật đã ban hành trước ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành thì được áp dụng mức xử phạt theo quy định của Nghị định này, kể cả trường hợp hành vi vi phạm đã bị lập biên bản, nhưng cơ quan có thẩm quyền chưa ra quyết định xử lý hoặc đã ra quyết định xử lý nhưng đang trong thời hiệu giải quyết khiếu nại.
4. Các quy định khác về xử lý vi phạm pháp luật về thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế không được quy định tại Nghị định này thì được thực hiện theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và pháp luật khác có liên quan.
Bộ Tài chính hướng dẫn, tổ chức thi hành Nghị định này và phối hợp với các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp tuyên truyền, giáo dục và vận động nhân dân thực hiện, giám sát việc thực hiện Nghị định này.
Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các tổ chức, cá nhân liên quan chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này./.
|
TM. CHÍNH PHỦ |
THE GOVERNMENT |
SOCIALIST REPUBLIC OF VIET NAM |
No. 98/2007/ND-CP |
Hanoi, June 07, 2007 |
PROVIDING FOR THE HANDLING OF TAX-LAW VIOLATIONS AND THE ENFORCEMENT OF TAX-RELATED ADMINISTRATIVE DECISIONS
THE GOVERNMENT
Pursuant to the December 25, 2001 Law on Organization of the Government;
Pursuant to the November 29, 2006 Law on Tax Administration;
Pursuant to the July 2, 2002 Ordinance on Handling of Administrative Violations;
At the proposal of the Finance Minister,
DECREES:
HANDLING OF TAX-LAW VIOLATIONS
Section 1. GENERAL PROVISIONS ON HANDLING OF TAX-LAW VIOLATIONS
Article 1.- Governing scope and subjects of application
1. Governing scope:
This Chapter provides for the principles, competence, violation acts, levels and measures of handling tax-law violations; the order and procedures for implementation of provisions on handling of tax-law violations under the provisions of the Law on Tax Administration and the law on handling of administrative violations.
Tax-law violations related to imported and exported goods shall be handled under separate regulations of the Government.
2. Subjects to be handled for tax-law violations include:
a/ Taxpayers who commit acts of violating tax law;
b/ Tax agencies and tax officers that violate tax law;
c/ Persons having competence and responsibility to handle tax-law violations;
d/ State agencies, other organizations and individuals that are involved in the handling of tax-law violations.
Article 2.- Principles for handling of tax-law violations
1. All acts of violating tax law must be detected and stopped immediately. Tax-law violations must be handled in a timely, public, transparent and resolute manner. All consequences caused by tax-law violations must be addressed in accordance with law.
2. Individuals and organizations shall be handled only when they commit acts of violating the tax law, which have been prescribed in laws, ordinances and legal documents on tax; violate the provisions of the Law on Tax Administration and this Decree.
3. An act of tax-law violation is sanctioned only once, specifically as follows:
a/ An act of tax-law violation for which a competent person has issued a sanctioning decision or made a record for sanctioning, shall not be recorded or decided for the second sanctioning. When the act of violation is still committed even though a competent person has issued a suspension order, it is regarded as an aggravating circumstance under Article 3 of this Decree;
b/ Where an act of tax-law violation shows signs of crime and the file thereon has been transferred for penal liability examination, but for which a decision on administrative sanctioning of tax violation was previously issued, the person who issued such sanctioning decision must cancel it; if the sanctioning decision is not yet issued, such act of tax-law violation is not sanctioned.
4. If many persons commit an act of tax-law violation, each violator shall be sanctioned for such act;
5. A person who commits many acts of tax-law violation shall be sanctioned for every act of violation.
6. Persons competent to handle tax-law violations shall base on the nature and severity of violations, personal records of violators, aggravating and extenuating circumstances to issue decisions to sanction every person committing the same act of tax-law violation.
Article 3.- Aggravating circumstances
1. Committing violations in an organized manner.
2. Committing violations persistently.
3. Repeating sanctioned tax-law violations within one year after the sanctioning decisions were completely served or expired.
4. Inciting or enticing minors to commit violations, forcing one’s material and spiritual dependents to commit violations.
5. Committing violations in the state of intoxication due to the use of alcohol, beer or other stimulants.
6. Abusing positions or powers to commit violations.
7. Taking advantage of circumstances of war, natural disaster or other particular objective difficulties to commit violations.
8. Committing violations while serving criminal sentences or decisions to handle tax-law violations.
9. Continuing to commit violations even though competent persons have demanded the termination thereof.
10. Committing acts of shirking or covering up the committed acts of tax-law violation.
Article 4.- Extenuating circumstances
1. Violators have warded off or alleviated harms caused by their violations or addressed the consequences thereof, paid the damages.
2. Violators have voluntarily reported their violations, honestly accepted their errors and listed and adjusted the errors.
3. Violators are forced to commit violations or are material or spiritual dependents.
4. Violators are pregnant women, old and weak persons, minors aged between full 16 and under 18 years old, persons suffering from ailment or disability that has restricted their capacity to cognize or control their acts.
5. Committing violations in particularly difficult circumstances not caused by violators.
6. Committing violations due to failure to grasp tax policies and laws.
7. Committing violations in the state of being spiritually provoked by illegal acts of other persons.
Article 5.- Statutes of limitations for sanctioning of tax-law violations
1. For acts of violating the tax procedures, the statute of limitations for sanctioning is 2 years, counting from the date the violation acts are committed.
2. For acts of tax evasion or tax fraud which are not serious enough for penal liability examination, acts of delaying tax payment, declaring tax inadequately, the statute of limitations for sanctioning is 5 years, counting from the date the violation acts are committed.
The time for determining acts of tax evasion or tax fraud is the date following the deadline of submission of tax declaration dossiers of the tax calculation period in which the taxpayers commit acts of tax evasion or tax fraud or the date following the date the competent agencies issue decisions on tax refund, exemption or reduction.
3. For individuals against whom legal proceedings were instituted, taken or trial according to criminal procedures was decided, and later decisions to suspend the investigation or the cases were issued, but their violation acts show signs of tax-law violation, the agencies which have issued decisions to suspend the investigation or the cases shall, within 3 days after issuing such decisions, send the decisions and case files to the bodies competent to handle tax-law violations. For this case, the statute of limitations for sanctioning is 3 months, counting from the date the persons competent to handle tax-law violations receive the suspension decisions and case files.
4. If within the statute of limitations stated in Clauses 1, 2 and 3 of this Article, the taxpayers continue repeating the violations committed previously or deliberately shirk or obstruct the sanctioning, the statute of limitations stated in Clauses 1, 2 and 3 of this Article is not applied and the statute of limitations for sanctioning of tax-law violations is counted from the time the new violations are committed or the time the acts of shirking or obstructing the sanctioning terminate.
Article 6.- Forms of sanctioning tax-law violations
1. For every act of tax-law violation, the violating individuals or organizations are liable to one of the following sanctioning forms:
a/ Caution:
Caution is decided in writing and applied to:
- First-time violations or second-time violations involving extenuating circumstances, for less serious violations of tax procedures;
- Violations of tax procedures committed by minors aged between full 14 and under 16 years old.
b/ Fine:
Fine is specified for every act of tax-law violation as follows:
- Fine with an absolute sum of money for acts of violating the tax procedures, the maximum fine level must not exceed VND 100 million. The specific fine level for an act of violating the tax procedures is the average of the fine bracket set for such act; if extenuating circumstances are involved, the fine level may be reduced, but not lower than the minimum level of the fine bracket; if aggravating circumstances are involved, the fine level may be raised but not beyond the maximum level of the fine bracket;
- A fine of 0.05% of the late paid tax amount each day, for acts of delayed payment of tax or fine money;
- A fine of 10% of the outstanding tax amount, for acts of making false declarations which lead to lower payable tax amount or higher refunded tax amount;
- A fine corresponding to the money amount not remitted into state budget accounts, for violation acts defined at Point b, Clause 1, Article 114 of the Law on Tax Administration;
- A fine of one to three times the evaded tax amount, for acts of tax evasion or tax fraud.
Upon determination of fine levels against taxpayers who commit violations involving both aggravating circumstances and extenuating circumstances, the reduction of aggravating circumstances will be considered on the principle that an aggravating circumstance is reduced if there appear two extenuating circumstances. If after the reduction under the above principle, there still exist one aggravating circumstance and one extenuating circumstance, depending on the nature and severity of violations and the remedies taken by violators, the persons with handling competence will take into account the fine level applied to cases involving one aggravating circumstance or cases involving no aggravating circumstances and no extenuating circumstances. For acts of violating the tax procedures, each aggravating or extenuating circumstance will lead to an increase or decrease of 20% of the average fine level of the fine bracket.
2. Depending on the nature and severity of violations, organizations and individuals violating tax law may also be liable to the application of the additional sanctioning form of confiscation of material evidences and means used for commission of tax-law violations.
3. Remedies:
Apart from the sanctioning forms defined in this Article, taxpayers that violate provisions of Section 2 of this Chapter may also be liable to the application of following remedies:
a/ Compulsory full payment of the outstanding tax amounts, the evaded tax amounts or the fraudulent tax amounts into the state budget if the statute of limitations provided in Article 5 of this Decree has expired;
b/ Coerced destruction of invoices, vouchers and accounting books which are printed and distributed in contravention of provisions of law, excluding invoices, vouchers and accounting books which are material evidences and must be kept for use as proofs for handling of violations.
Section 2. SANCTIONING OF TAX-LAW VIOLATIONS COMMITTED BY TAXPAYERS
Article 7.- Sanctioning of acts of submitting tax registration dossiers, or notifying information changes later than schedule
1. Caution or a fine of between VND 100,000 and 1,000,000, for acts of submitting tax registration dossiers or notifying changes of information in tax registration dossiers to tax agencies from 10 to 20 days later than schedule.
2. A fine of between VND 200,000 and 2,000,000 for acts of submitting tax registration dossiers or notifying changes of information in tax registration dossiers to tax agencies more than 20 days later than schedule.
Article 8.- Sanctioning of acts of incompletely declaring the contents in tax dossiers
For acts of falsely or incompletely declaring the contents in tax declaration dossiers defined in Article 31 of the Law on Tax Administration (except the cases in which taxpayers can make additional declarations according to regulations), which are detected beyond the time limit set for submission of tax declaration dossiers:
1. Caution or a fine of between VND 100,000 and 1,000,000, for acts of making tax declaration dossiers with incomplete or false statement of details on the lists of goods, services purchased or sold or on other documents related to tax obligations.
2. Caution or a fine of between VND 150,000 and 1,500,000, for acts of making tax declaration dossiers with incomplete or false statement of details on invoices. economic contracts and vouchers related to tax obligations.
3. A fine of between VND 200,000 and 2,000,000, for acts of making tax declaration dossiers with incomplete or false statement of details on tax declaration forms or tax settlement forms.
4. A fine of between VND 500,000 and 3,000,000, for cases involving many violations defined in Clauses 1, 2 and 3 of this Article.
Article 9.- Sanctioning of acts of submitting tax declaration dossiers later than schedule
1. Caution or a fine of between VND 100,000 and 1,000,000, for acts of submitting tax declaration dossiers 5 to 10 days later than schedule.
2. A fine of between VND 200,000 and 2,000,000, for acts of submitting tax declaration dossiers over 10 to 20 days later than schedule.
3. A fine of between VND 300,000 and 3,000,000, for acts of submitting tax declaration dossiers over 20 to 30 days later than schedule.
4. A fine of between VND 400,000 and 4,000.000, for acts of submitting tax declaration dossiers over 30 to 40 days later than schedule.
5. A fine of between VND 500,000 and 5,000,000, for acts of submitting tax declaration dossiers over 40 to 90 days later than schedule.
6. The tax declaration dossier submission time limits specified in this Article also cover the extension of tax declaration dossier submission provided in Article 33 of the Law on Tax Administration.
7. The fine levels specified in this Article are not applicable to cases of extension of tax payment under the provisions of tax administration law.
Article 10.- Sanctioning of acts of violating the regulations on supply of information related to tax obligation determination
Acts of violating the regime of supplying information related to tax obligation determination other than the cases of inadequate tax declaration, tax evasion or tax fraud, shall, depending on such acts and severity of violation, be sanctioned as follows:
1. Caution or a fine of between VND 100,000 and 1,000,000, for one of the following acts:
a/ Supplying information, documents, legal records related to tax registration under notices of tax agencies 5 working days or more later than schedule;
b/ Supplying information, documents, accounting books related to tax obligation determination under notices of tax agencies 5 working days or more later than schedule;
c/ Falsely supplying information, documents or accounting books related to tax obligation determination later than the schedule required by tax agencies.
2. A fine of between VND 200,000 and 2,000,000, for one of the following acts:
a/ Inadequately or inaccurately supplying information, documents or accounting books related to tax obligation determination within the tax declaration duration; account numbers, deposit account balances to competent bodies, when so requested;
b/ Failing to supply adequate, accurate norms and figures related to tax obligations to be registered according to regulations, which are detected but do not reduce the obligations toward the state budget;
c/ Inadequately or inaccurately supplying information or documents related to deposit accounts at banks, other credit institutions or state treasuries within 3 working days after being so requested by tax agencies.
Article 11.- Sanctioning of acts of violating the provisions on compliance with decisions on tax examination or inspection, enforcement of tax-related administrative decisions and violating the regimes of invoices and vouchers for goods transported en route
1. A fine of between VND 200,000 and 2,000,000, for one of the following acts:
a/ Declining to receive decisions on tax examination or inspection, decisions on enforcement of tax-related administrative decisions;
b/ Failing to abide by decisions on tax examination or inspection, decisions on enforcement of tax-related administrative decisions within 3 working days, counting from the date of compliance with decisions of competent bodies;
c/ Rejecting, delaying or shirking the supply of dossiers, documents, invoices, vouchers, accounting books related to tax obligations within 6 working hours after the receipt of requests of competent bodies during tax examination or inspection at the head offices of taxpayers;
d/ Inaccurately supplying information, documents, accounting books related to tax obligation determination at the request of competent bodies during tax examination or inspection at the head offices of taxpayers.
2. A fine of between VND 500,000 and 5,000,000, for one of the following acts:
a/ Failing to supply figures, documents, accounting books related to tax obligation determination when so requested by competent bodies during the tax examination or inspection at the head offices of taxpayers;
b/ Failing to execute or improperly executing decisions on sealing off dossiers, safes, warehouses of goods, supplies, raw materials, machinery, equipment, workshops, which serve as bases for verification of tax obligations;
c/ Arbitrarily removing or altering seals legally established by competent bodies as bases for verification of tax obligations;
d/ Declining to sign examination or inspection records within 5 working days after the end of examination or inspection;
e/ Declining to abide by tax examination or inspection conclusions or enforcement of tax-related administrative decisions of competent bodies.
3. Violations of invoice, voucher regimes for goods transported en route shall be sanctioned as follows:
a/ A fine of between VND 200,000 and 2,000,000, for cases of failing to supply valid invoices or vouchers of lots of transported goods within 12 hours, counting from the time competent bodies inspect and detect violation acts;
b/ A fine of between VND 300,000 and 3,000,000, for cases of failing to supply valid invoices or vouchers of lots of transported goods within 12 to 24 hours, counting from the time competent bodies inspect and detect violation acts;
c/ A fine of between VND 1,000,000 and 5,000,000, for cases of failing to supply valid invoices, vouchers of lots of transported goods after 24 hours, counting from the time competent bodies inspect and detect the violation acts but have not yet issued sanctioning decisions.
If invoices or vouchers can be supplied after tax agencies have issued sanctioning decisions or cannot be supplied after the expiration of the time limit prescribed at this Point, the violators shall be sanctioned for acts of tax evasion; if they can supply vouchers of tax payment for lots of transported goods within the statute of limitations for settlement of complaints, they shall be fined only according to the levels provided for at this Point and not sanctioned for acts of tax evasion.
Article 12.- Sanctioning of acts of delaying tax payment
1. Violations sanctioned for delayed tax payment by taxpayers include:
a/ Paying tax later than schedule, than the extended time limit for tax payment, the time limit stated in tax agencies’ notices or decisions on handling of tax-law violations;
b/ Paying tax in deficit due to wrong declaration of tax amounts to be paid, to be exempted, to be reduced or to be refunded of the previous tax declaration periods, but the taxpayers have themselves detected the errors and voluntarily paid the full deficit tax amounts into the state budget before receiving the tax examination or inspection decisions of competent bodies.
2. The fine level is 0.05% of the late paid tax amount for each day, for violations defined in Clause 1 of this Article.
The number of days of delayed tax payment covers public holidays and weekends according to the prescribed regime and is counted from the date following the last day of the tax payment time limit, the extended time limit for tax payment, the time limit stated in notices of handling decisions of tax agencies to the date the taxpayers have voluntarily paid the deficit tax amounts into the state budget.
3. When taxpayers can themselves determine the fine amounts for late tax payment, they shall themselves declare and pay the fine amounts into the state budget according to Clause 2 of this Article.
If taxpayers cannot themselves determine or wrongly determine the fine amounts for late tax payment, tax agencies shall determine the fine amounts for late tax payment and notify them to taxpayers.
4. If within 30 days after the tax payment deadline taxpayers still fail to pay the delayed tax and fine amounts, tax agencies shall notify them of such amounts.
5. Taxpayers are not subject to a fine for delayed payment of outstanding tax in the extended tax payment time limit.
Article 13.- Sanctioning of acts of making incorrect declarations which lead to lower payable tax amounts or higher refundable tax amounts
1. Cases of incorrect declarations, which lead to lower payable tax amounts or higher refundable tax amounts, include:
a/ Acts of making incorrect declarations, which lead to lower payable tax amounts or higher refundable tax amounts, higher exempted or reduced tax amounts, but taxpayers have promptly, fully and honestly noted down economic operations giving rise to tax obligations on accounting books, invoices or vouchers;
b/ Acts of making incorrect declarations by taxpayers, which lead to lower payable tax amounts or higher refundable, exempted or reduced tax amounts, which do not fall into the cases defined at Point a, Clause 1 of this Article, but when they are detected by competent bodies, the violators voluntarily pay the full tax amounts not declared into the state budget before the time tax agencies make tax examination records or tax inspection conclusions;
c/ Acts of making incorrect declarations by taxpayers, which lead to lower payable tax amounts or higher refundable, exempted or reduced tax amounts, for which competent bodies have made tax examination records or tax inspection conclusions confirming false declarations for tax evasion, but if the taxpayers have committed them for the first time with extenuating circumstances and voluntarily paid the full tax amounts into the state budget before the time the competent bodies issue handling decisions, tax agencies shall make records to re-affirm acts of making inadequate tax declarations;
d/ Using invalid invoices or vouchers to account the value of purchased goods or services, thus reducing the payable tax amounts or increasing the refundable, exempted or reduced tax amounts, but when they are detected by tax agencies, the purchasers can prove that the sellers have used invalid invoices and they have made full payment according to regulations.
2. The fine levels for violation acts defined in Clause 1 of this Article are 10% of the tax amounts declared lower or the refundable, exempted or reduced tax amounts higher than the levels prescribed by tax law.
3. Tax agencies determine the deficit tax amounts, fine amounts, the number of days of delayed tax payment, the fine amounts for delayed tax payment and issue decisions to fine taxpayers.
Article 14.- Sanctioning of acts of tax evasion, tax fraud
Taxpayers that commit acts of tax evasion or tax fraud defined in Article 108 of the Law on Tax Administration shall, apart from fully paying the evaded or fraudulent tax amounts, be fined with times calculated on the evaded or fraudulent tax amounts as follows:
1. A fine of one time the evaded or fraudulent tax amounts on taxpayers that commit first-time violations not defined in Article 13 of this Decree or second-time violations involving two or more extenuating circumstances for one of the following acts of violation:
a/ Failing to submit tax registration dossiers; failing to submit tax declaration dossiers or submitting tax declaration dossiers 90 days after the expiration of the tax declaration submission time limit defined in Clauses 1, 2, 3 and 5, Article 32 of the Law on Tax Administration or after the expiration of the extended time limit for tax declaration dossier submission defined in Article 33 of the Law on Tax Administration;
For cases of submitting the quarterly temporarily calculated tax declaration dossiers 90 days later than the general schedule but still within the annual tax settlement dossier submission time limit, a fine shall be imposed not for acts of tax evasion defined in this Article but for acts of tax declaration defined in Article 9 of this Decree.
b/ Failing to supply valid invoices or vouchers or supplying them after the time limit prescribed for goods transported en route;
c/ Using invalid invoices, vouchers to account value of input goods or raw materials, thus reducing the payable tax amounts or increasing the exempted, reduced, deductible or refundable tax amounts;
d/ Carrying out procedures, making dossiers for unreal destruction of supplies or goods, thus reducing the payable tax amounts or increasing the refundable, exempted or reduced tax amounts;
e/ Making goods or service sale invoices with incorrect quantities or value to declare tax amounts lower than actual tax amounts;
f/ Using fake invoices, expired invoices, invoices of other individuals or organizations for goods sale or service provision and failing to declare full payable tax amounts, which, however, do not fall into the cases defined at Points a, b and c, Clause 1, Article 13 of this Decree;
g/ Failing to enter accounting books revenues or expenditures related to the determination of payable tax amounts;
h/ Failing to issue goods or service sale invoices or writing the value on sale invoices lower than the actual payment value of sold goods or services, which are detected after the tax declaration dossier submission time limit;
i/ Using invalid invoices, vouchers to account an unreal value of purchased goods or services, thus reducing the payable tax amounts or increasing the exempted, reduced or refundable tax amounts;
j/ Using tax-exempt goods (including tax-free goods) in contravention of the prescribed purposes without making tax declarations;
k/ Modifying, erasing accounting vouchers or accounting books, thus reducing the payable tax amounts or increasing the refundable, exempted or reduced tax amounts;
l/ Destroying accounting vouchers, accounting books, thus reducing the payable tax amounts or increasing the refundable, exempted or reduced tax amounts;
m/ Using invalid invoices, vouchers or documents in other cases to determine wrong payable or refundable tax amounts.
2. A fine of 1.5 times the evaded or fraudulent tax amounts on taxpayers who commit one of the acts specified in Clause 1 of this Article, if it is a first-time violation involving aggravating circumstances or a second-time violation involving one extenuating circumstance.
3. A fine of 2 times the evaded tax amounts on taxpayers who commit one of the acts defined in Clause 1 of this Article, if it is a second-time violation without extenuating circumstances or a third-time violation involving one extenuating circumstance.
4. A fine of 2.5 times the evaded tax amounts on taxpayers who commit one of the acts defined in Clause 1 of this Article, if it is a second-time violation involving one aggravating circumstance or a third-time violation without extenuating circumstances.
5. A fine of 3 times the evaded tax amounts on taxpayers who commit one of the acts defined in Clause 1 of this Article, if it is a second-time violation involving two or more aggravating circumstances or a third-time violation involving aggravating circumstances or a fourth-time violation onward.
6. The determination of the number of aggravating and extenuating circumstances for application of fine levels specified in Clauses 2, 3, 4 and 5 of this Article complies with the principles provided at Point b, Clause 1, Article 6 of this Decree.
The evaded tax amounts specified in Clauses 1, 2, 3, 4 and 5 of this Clause are the tax amounts which must be paid into the state budget under law but are not paid by taxpayers who commit one of the acts of tax evasion or tax fraud defined in Article 108 of the Law on Tax Administration, which are detected by competent bodies and identified in tax examination records or tax inspection conclusions.
Violation acts defined in this Article, which are detected in or after the tax declaration dossier submission time limit but do not reduce the payable tax amounts or increase the refundable, exempted or reduced tax amounts, shall only be sanctioned for violations of tax procedures.
Section 3. HANDLING OF TAX-LAW VIOLATIONS COMMITTED BY TAX AGENCIES, TAX OFFICERS, BANKS, CREDIT INSTITUTIONS AND RELATED ORGANIZATIONS AND INDIVIDUALS
Article 15.- Handling of tax-law violations committed by tax agencies, tax officers
1. Tax-law violations committed by tax agencies or tax officers shall be handled under the provisions of Articles 112 and 113 of the Law on Tax Administration.
2. The Finance Ministry shall guide the order and procedures of handling tax-law violations committed by tax agencies or tax officers provided for in Clause 1 of this Article.
Article 16.- Handling of violations by commercial banks, other credit institutions, tax payment guarantors
1. Commercial banks and other credit institutions which fail to fulfill their responsibility to deduct tax amounts and tax-law violation fine amounts to be paid at the request of tax agencies from taxpayers’ accounts and transfer them into state budget accounts, shall be handled on a case-by-case basis as follows:
a/ Commercial banks or other credit institutions may not be sanctioned if by that time the taxpayers’ deposit accounts see no balance or they have transferred the whole account balance of taxpayers into state budget accounts, which are, however, still lower than the tax amounts and the tax-violation fine amounts to be paid by taxpayers;
b/ Commercial banks or other credit institutions shall be handled for violations if by that time, taxpayers’ deposit account balance is equal to or greater than the tax and tax-law violation fine amounts to be paid by taxpayers, but such commercial banks or credit institutions fail to deduct all or part equal to the amounts to be paid by taxpayers; within 10 days after the expiration of the time limit for deduction of money from taxpayers’ deposit account opened at such commercial banks or credit institutions, tax agencies shall make records of the violations and issue decisions to fine the commercial banks or credit institutions an amount equal to the money amounts not deducted and transferred into state budget accounts. In this case, tax agencies shall also apply measures to fully collect the tax and fine amounts from taxpayers.
2. Tax obligation performance guarantors shall pay tax and fine amounts on behalf of the guaranteed taxpayers if the latter fail to pay tax into state budget accounts or violate tax law.
Article 17.- Handling of tax-law violations by related organizations or individuals
1. Related organizations or individuals that commit acts of colluding with or covering up taxpayers who commit tax evasion or tax fraud, decline to comply with tax-related coercive administrative decisions, depending on the nature and severity of their violations, are subject to a fine of between VND 2,000,000 and 8,000,000. Where their violations show signs of crime, they shall be examined for penal liability according to law.
2. Organizations or individuals that fail to fulfill their responsibilities defined in Articles 89, 98 and 100 of the Law on Tax Administration shall, depending on the nature and severity of their violations, be administratively handled or examined for penal liability according to law.
State treasuries which fail to deduct and transfer taxpayers’ tax and fine amounts into state budget accounts at the request of tax agencies shall be sanctioned as in the cases specified at Point b, Clause 1, Article 16 of this Decree.
Section 4. COMPETENCE AND PROCEDURES FOR HANDLING OF TAX-TAX VIOLATIONS AND COMPLIANCE WITH HANDLING DECISIONS
Article 18.- Tax agencies’ competence to handle tax-law violations
1. Tax officers on duty have the rights to impose:
a/ Caution;
b/ A fine of up to VND 100,000, for acts of violating tax procedures defined in this Decree.
2. Tax station heads or tax team leaders, within the ambit of their functions and tasks, have the rights to impose:
a/ Caution;
b/ A fine of up to VND 2,000,000, for acts of violating tax procedures defined in this Decree.
3. District-level tax department heads, within geographical areas under their respective management, have the rights:
a/ To serve caution;
b/ To impose fine of up to VND 10,000,000, for violation acts specified in Articles 7, 8, 9, 10 and 11 of this Decree;
c/ To impose fines for violation acts defined in Articles 12, 13, 14, 16 and 17 of this Decree;
d/ To confiscate material evidences and means used for commission of tax-law violations;
e/ To apply remedial measures defined in Clause 3, Article 6 of this Decree.
4. Provincial-level department directors, within geographical areas under their respective management, have the rights:
a/ To serve caution;
b/ To impose a fine of up to VND 100,000,000, for acts of violating tax procedures defined in Articles 7, 8, 9, 10 and 11 of this Decree;
c/ To impose fines for violation acts defined in Articles 12, 13, 14, 16 and 17 of this Decree;
d/ To confiscate material evidences and means used for commission of tax-law violations;
e/ To apply remedial measures defined in Clause 3, Article 6 of this Decree.
Article 19.- Competence of presidents of People’s Committees at different levels to sanction tax-law violations
The tax-law violation sanctioning competence of presidents of People’s Committees at different levels comply with the provisions of law on handling of administrative violations.
Article 20.- Authorization, division of competence to sanction tax-law violations
The authorization and division of competence to sanction tax-law violations comply with the provisions of law on handling of administrative violations.
Article 21.- Stoppage of violation acts
When detecting tax-law violations, persons competent to handle violations shall issue decisions to immediately stop such violation acts. Stoppage decisions may be made in writing or other forms, depending on specific cases of violation. Where cases of violation do not fall under, or go beyond, their handling competence, violation detectors must make written records thereof in the prescribed form and promptly transfer them to competent persons to issue decisions to stop the violations and proceed with the handling according to this Decree.
Article 22.- Making written records of tax-law violations
The making of written records of tax-law violations is provided for as follows:
1. The competent person who is performing official duty and detects a tax-law violation shall make written a written record thereof in the set form and promptly transfer it to a person with sanctioning competence. Such a record must contain all signatures required by the law on handling of administrative violations; if the violator refuses to sign the violation record, the record maker shall clearly write the reason therefor in the record and take responsibility before law for the contents written in the record;
2. Where the record maker has no sanctioning competence, his/her boss is the person having the sanctioning competence who must also sign his/her name in the record; if necessary, he/her may conduct verification before signing the record;
3. Cases in which records are not required to be made upon issuance of sanctioning decisions:
a/ Tax-law violations committed by taxpayers have been examined, inspected, detected and noted down in examination records or inspection conclusions by tax agencies;
b/ The delayed tax payment by taxpayers have been written in tax agencies’ notices on delayed tax and fine amounts.
Article 23.- Time limit for issuance of sanctioning decisions
The time limit for issuance of sanctioning decisions is provided for as follows:
1. For simple cases and manifest violation acts which require no further verification, sanctioning decisions must be issued within 10 days as from the date the records of tax-law violations are made;
2. For cases involving many complicated circumstances where material evidences and means need to be examined, violators or other complicated circumstances need to be clearly identified, the time limit for issuance of sanctioning decisions is 30 days from the date the records are made;
3. Where it deems necessary to have more time to verify and collect evidences, within no more than 10 days after the expiry of the time limit specified in Clause 2 of this Article, the persons with sanctioning competence shall report thereon to their immediate bosses in writing, asking for extension; the extension must be made in writing and the extension duration must not exceed 30 days;
4. Except for decisions to apply the sanctioning form of expulsion, competent persons may not issue sanctioning decisions in the following cases:
a/ The time limit specified in Clause 1 of this Article has expired;
b/ The time limit for issuance of sanctioning decisions, specified in Clause 2 of this Article has expired but the extension thereof is not applied for or the extension has been applied for but rejected by competent authorities;
c/ The extension duration permitted by competent authorities has expired.
Article 24.- Decisions to sanction tax-law violations
Tax-law violation-sanctioning decisions must be made in writing.
The forms, contents, order and procedures for promulgation of tax-law violation-sanctioning decisions comply with the provisions of law on handling of administrative violations.
Article 25.- Exemption from fines for tax-law violations and competent to exempt fines
1. Taxpayers sanctioned for tax-law violations may request exemption from fines for their tax-law violations in cases where they have met with natural calamities, fires, unexpected accidents or other force majeure cases. The maximum fine exemption level does not exceed the value of damaged properties and goods.
2. Dossier of request for exemption from fine for a tax-law violation comprises:
a/ A written request for fine exemption, clearly stating the reason for fine exemption;
b/ Documents determining the value of properties or goods damaged by natural calamities, fires, unexpected accidents or other force majeure circumstances;
c/ The record of inventory of the value of damaged properties or goods, which is made by a lawful representative of organizations or individuals suffering from damage, and jointly examined and certified by police offices or presidents of commune-level People’s Committees.
The records of inventory of the damage value must clearly identify the value of damaged properties or goods, the causes of damage, responsibilities of organizations and individuals for the damage; the quantities, categories and value which can be recovered.
d/ The dossier on damage compensation (if any) accepted by an insurer;
e/ Dossiers providing the responsibilities of organizations and individuals to pay damage compensations (if any).
3. Heads of tax agencies shall consider the exemption from fines for tax-law violations when receiving taxpayers’ dossiers of request for fine exemption, for cases falling under the handling jurisdiction of their own or their subordinates according to the provisions of law on handling of administrative violations.
4. Tax-law violation fines are not exempted for the cases in which the tax-law violation-sanctioning decisions were completely served or the law-prescribed statute of limitations for settlement of complaints or denunciations has expired.
Article 26.- Compliance with decisions to sanction tax-law violations
Compliance with decisions to sanction tax-law violations is provided for as follows:
1. Unless otherwise provided for by law, sanctioned individuals and organizations must comply with decisions on sanctioning of tax-law violations within 10 days after they are handed over the sanctioning decisions. After issuing sanctioning decisions, persons with sanctioning competence shall hand over the decisions to the sanctioned persons or notify them to come and take the decisions; the time when the sanctioned persons receive the sanctioning decisions is considered the time they are handed over the decisions;
Where individuals are subject to a fine of VND 500,000 or more and are meeting with exceptional economic difficulties, persons competent to issue sanctioning decisions may decide to postpone the compliance with sanctioning decisions for not more than 3 months after the issuance of the sanctioning decisions.
The Finance Ministry shall guide the handling procedures serving as a basis to secure compliance with sanctioning decisions in cases where the sanctioned persons refuse to receive the decisions on sanctioning tax-law violations, and the procedures to postpone compliance with sanctioning decisions as provided for in this Clause.
2. If past one year competent persons cannot hand over the sanctioning decisions to sanctioned persons as the latter fail to come to take them and their addresses cannot be identified or due to other objective reasons, the persons who have issued the sanctioning decisions shall issue decisions to suspend the application of sanctions and remedies stated in the decisions against such persons, except for the form of confiscation of material evidences and means used for commission of tax-law violations; temporarily seized material evidences and means shall be handled under the provisions of law on handling of administrative violations. Expenses for application of these measures are paid with the state budget or deducted from the proceeds from the sale of confiscated material evidences and means (if any).
Article 27.- Decisions on remedies to be taken in cases of non-issuance of decisions on sanctioning tax-law violations
Decisions on remedies must be issued in writing.
The form, contents, order and procedures for promulgation of decisions to sanction tax-law violations must comply with the provisions of law on handling of administrative violations.
Article 28.- Transfer of tax-law violation- sanctioning decisions for compliance
The transfer of tax-law violation-sanctioning decisions is provided for as follows:
1. Where violating individuals or organizations belong to administrative units of one province but reside or are located in another province and have no conditions to comply with the sanctioning decisions at the place of sanctioning, the decisions shall be transferred to the tax agencies at the same level at the places where such individuals reside or such organizations are located for compliance;
1. Where violations occur in districts of mountain provinces, islands or other remote and far-flung areas where travel is difficult and the violating individuals or organizations have no conditions to comply with the sanctioning decisions at the place of sanctioning, the decisions shall be transferred to agencies of the same level with sanctioning decision-issuing agencies at places where those individuals reside or such organizations are located for compliance.
Article 29.- Transfer of dossiers on violators that commit tax-law violations with signs of crime for penal liability examination
1. In the course of handling tax-law violations, if deeming that tax-law violating organizations or individuals show signs of crime, competent persons shall transfer dossiers to competent criminal proceedings-conducting bodies within 10 days after the detection of signs of crime.
2. Where decisions to handle tax-law violations were issued, but later the violation acts are detected as showing signs of crime while the time limit for penal liability examination has not yet expired, the persons who issued the decisions shall cancel such decisions and transfer the violation-handling dossiers to competent criminal proceedings-conducting bodies within 3 days after the cancellation of such decisions.
Tax agencies shall transfer the original dossier sets on tax-law violation cases to legal proceedings-conducting bodies within 5 days after the receipt of notices on decisions to institute the criminal cases.
3. Where tax agencies have transferred dossiers to criminal proceedings-conducting bodies, but within 3 days after the expiry of the time limit for issuance of decisions to institute or not to institute criminal cases under the provisions of Article 103 of the Criminal Procedures Code, the tax agencies have not yet received the notices of agencies competent to examine penal liability on the institution or non-institution of criminal cases, the persons competent to sanction tax-law violations shall issue sanctioning decisions according to the Law on Tax Administration.
Article 30.- Return of violation case dossiers for sanctioning of tax-law violations
1. Where dossiers on tax-law violation cases were transferred to criminal proceedings- conducting bodies, if competent persons of criminal proceedings-conducting bodies find that the violation acts do not show enough signs to constitute offenses, they shall issue decisions not to institute the criminal cases under the provisions of Article 103 of the Criminal Procedures Code. Within 3 days after the issuance of decisions not to institute the cases, the criminal proceedings- conducting bodies shall transfer the decisions on non-institution of the cases together with the violation case dossiers to competent tax agencies for handling of tax-law violations.
2. Where individuals against whom legal proceedings were instituted, prosecution is taken or trial according to criminal procedures is decided, but later decisions are issued to suspend the investigation or suspend the cases, within 3 days after the issuance of decisions to suspend the investigation or suspend the cases, the criminal proceedings-conducting bodies shall transfer such decisions together with the violation case dossiers to competent tax agencies for handling of tax-law violations.
3. After receiving the violation case dossiers as provided for in Clauses 1 and 2 of this Article, the tax agencies with sanctioning competence shall issue sanctioning decisions against all cases under the provisions of Article 23 of this Decree.
ENFORCEMENT OF TAX-RELATED ADMINISTRATIVE DECISIONS
Section 1. GENERAL PROVISIONS ON ENFORCEMENT OF TAX-RELATED ADMINISTRATIVE DECISIONS
Article 31.- Governing scope and subjects of application
1. Governing scope: This Chapter provides for the principles, competence, order and procedures for implementation of provisions on enforcement of tax-related administrative decisions against organizations or individuals beyond the time limit for compliance with or for postponement of compliance with tax-related administrative decisions under the provisions of the Law on Tax Administration, except for the measure of ceasing to carry out customs procedures for imported goods.
Tax-related administrative decisions to be enforced include notices on outstanding tax and fine amounts; notice on assessment of tax amounts; decisions on tax-related administrative sanction; decisions on application of remedial measures under the provisions of law on handling of tax-related administrative violations; decisions on damage compensation; and other tax-related administrative decisions as provided for by law.
2. Subjects of application:
a/ Taxpayers who are coerced to comply with tax-related administrative decisions according to the Law on Tax Administration;
b/ Tax agencies and tax officers that are coerced to comply with tax-related administrative decisions;
c/ Persons who have competence and responsibility to enforce tax-related administrative decisions;
d/ State bodies, organizations and other individuals that are related to the enforcement of tax-related administrative decisions.
Article 32.- Cases of enforcement of tax-related administrative decisions
1. Cases of enforcement of tax-related administrative decisions against taxpayers defined in Article 92 of the Law on Tax Administration.
2. Commercial banks, other credit institutions and tax payment guarantors that fail to comply with decisions on sanctioning of tax-law violations under the provisions of the Law on Tax Administration.
3. Persons who guarantee the performance of tax and fine payment obligations on behalf of taxpayers in cases the latter do not pay tax into state budget accounts or violate the provisions of Clause 2, Article 114 of the Law on Tax Administration.
4. State treasuries which fail to deduct money from violators’ accounts for payment into the state budget under tax agencies’ decisions on sanctioning of tax-law violations.
5. Related organizations or individuals that fail to comply with competent bodies’ decisions on handling of tax-law violations.
Article 33.- Enforcement measures
Measures for enforcement of tax-related administrative decisions include:
1. Deducting money from accounts of violators coerced to comply with tax-related administrative decisions at state treasuries, commercial banks or other credit institutions; requesting blockage of accounts.
2. Deducting part of salaries or incomes.
3. Distraining properties, auctioning distrained properties according to law to collect outstanding tax and fine amounts into the state budget.
4. Collecting money and other assets of violators coerced to comply with tax-related administrative decisions, which are being held by other organizations or individuals.
5. Confiscating material evidences and means used for commission of tax-law violations.
6. Withdrawing tax identification numbers; suspending the use of invoices.
7. Revoking business certificates; establishment and operation licenses, practicing licenses.
Article 34.- Sources of deducted money and distrained properties for organizations coerced to comply with tax-related administrative decisions
Sources of deducted money and distrained properties for organizations coerced to comply with tax-related administrative decisions comply with the provisions of law on handling of administrative violations and other relevant law.
Article 35.- Competence to decide on enforcement
The following persons have the competence to decide on one of the measures for enforcement of tax-related administrative decisions defined in Article 33 of this Decree and the tasks to organize the enforcement of the sanctioning decisions of their own or their subordinates:
1. Heads of tax agencies at different levels have the competence to issue decisions on enforcement of tax-related administrative decisions defined in Clauses 1, 2, 3, 4, 5 and 6, Article 33 of this Decree.
2. Presidents of district- or provincial-level People’s Committees have the right to issue decisions on enforcement of decisions on sanctioning of tax-law violations in areas under their charge.
3. Where violators are subject to measures defined in Clause 7, Article 33 of this Decree, the tax agencies handling the cases shall make dossiers, documents, notices and transfer them to competent bodies for handling according to regulations.
Article 36.- Principles for issuance of enforcement decisions and organization of enforcement of tax-related administrative decisions of subordinates
Competent persons defined in Clauses 3 and 4, Article 18 of this Decree have the competence to issue enforcement decisions and organize the enforcement of tax-related administrative decisions of their subordinates in the following cases:
1. The subordinates have no competence to issue enforcement decisions.
2. The subordinates have the competence to issue enforcement decisions but have no conditions in terms of personnel and forces for organization of the execution of enforcement decisions and send written requests to their superiors for issuance of enforcement decisions.
3. The execution of enforcement decisions involves many localities, organizations and individuals.
Article 37.- Enforcement decisions
1. Enforcement of tax-related administrative decisions is carried out only when competent persons defined in Article 35 of this Decree issue decisions to enforce tax-related administrative decisions.
2. A decision on enforcement of a tax-related administrative decision has the following principal contents: date of issue; grounds for issue of the decision; full name, position and unit of the issuer; full name, residence place or head office of the violator; reason and measures for enforcement; time and venue for enforcement; agency assuming the prime responsibility for execution of the enforcement decision; coordinating agency(ies); signature of the issuer; and stamp of the issuing agency.
3. Decisions on enforcement of tax-related administrative decisions must be sent to the violators concerned and related organizations and individuals 5 working days before the enforcement is conducted; enforcement decisions must be sent to immediate superior tax agencies; in cases of enforcement by measures defined in Clause 3, Article 33 of this Decree, the decisions must be sent to presidents of People’s Committees of communes, wards or townships where the enforcement is conducted before they are executed.
Article 38.- Responsibilities to organize the execution of enforcement decisions
1. Persons who issue decisions to enforce tax-related administrative decisions have the task to organize the execution of those decisions.
2. People’s Committees of communes, wards or townships where the violators stay shall direct related agencies to coordinate with tax agencies in enforcing tax-related administrative decisions.
3. People’s police forces have the responsibility to maintain order and safety and support tax agencies in the course of enforcement when so requested by persons who issue decisions on enforcement of tax-related administrative decisions.
4. Organizations and individuals related to violators coerced to comply with tax-related administrative decisions shall coordinate in conducting the enforcement when so requested by enforcement decision issuers.
Article 39.- Statute of limitations for execution of enforcement decisions
1. A decision on enforcement of a tax-related administrative decision is valid for one year from the date of issue.
2. Where violators deliberately shirk or delay compliance with enforcement decisions, the statute of limitations for enforcement is re-counted from the time the shirking or delaying acts terminate.
3. Measures for enforcement of tax-related administrative decisions defined in Clause 1 of this Article will cease to be effective from the time when the tax and fine money has been fully paid into the state budget. The grounds for termination of the effect of tax-related enforcement decisions are vouchers on full payment of tax and fine amounts into the state budget by the violators with certification by state treasuries or agencies permitted to collect tax, commercial banks or other credit institutions that have deducted money from the violators’ accounts.
Section 2. ENFORCEMENT BY DEDUCTING MONEY FROM DEPOSIT ACCOUNTS
Article 40.- Violators subject to the enforcement measure of deducting money from deposit accounts
Enforcement by deducting money from deposit accounts applies to individuals and organizations that do not voluntarily comply with sanctioning decisions, remedial decisions or fail to pay enforcement expenses when:
1. The violating individuals deposit money at state treasuries, commercial banks or other credit institutions in Vietnam.
2. The violating organizations deposit money at state treasuries, commercial banks or other credit institutions in Vietnam.
Article 41.- Verification of information on accounts of violators
1. Persons competent to issue enforcement decisions to deduct money from deposit accounts at banks, state treasuries or other credit institutions may gather, verify and request banks, state treasuries, other credit institutions or financial organizations to supply information on accounts and account balances of violating individuals and organizations. At the same time, the persons competent to issue enforcement decisions have the responsibility to keep confidential the information on accounts of violators, which is supplied by banks, other credit institutions or financial organizations.
2. Violators have the responsibility to notify persons competent to issue enforcement decisions of the names of the banks, state treasuries, credit institutions or financial organizations where their accounts are opened, numbers and codes of their accounts at banks, other credit institutions or financial organizations, when so requested.
3. State treasuries, commercial banks or other credit institutions where violators open their accounts shall notify persons competent to issue enforcement decisions to deduct money from accounts of the units where accounts are opened and numbers of accounts of violators when so requested.
Article 42.- Decisions on enforcement by deducting money from deposit accounts
1. A decision on enforcement by deducting money from deposit account must clearly state the date of issue; grounds for issue of the decision; full name, position and working unit of the issuer; deducted money amount (stated in the decision on administrative handling and enforcement expenses calculated up to the end of the 5-day time limit before the enforcement is conducted); reasons for deduction; full name, tax identification number and account number of the violating individual or organization subject to deduction; name and address of the bank, credit institution or financial organization where the violator opens an account; name, address and number of the state budget account opened at the state treasury, mode of transferring the deducted money amount from the bank or credit institution to the state treasury; the enforcement time limit. The decision must contain the signature of the issuer and the stamp of the issuing agency.
2. Decisions on enforcement by deducting money from deposit accounts shall be sent to violating individuals or organizations subject to deduction, state treasuries, banks or other credit institutions where the violating organizations or individuals open their accounts and related bodies 5 days before the enforcement is conducted.
Article 43.- Responsibilities of state treasuries, commercial banks and other credit institutions in Vietnam where violating individuals and organizations open their accounts
1. To supply necessary information on the numbers and balances of accounts opened at their units by violating individuals or organizations within 3 days after receipt of requests of the persons competent to issue decisions to enforce the deduction of money from deposit accounts.
2. To immediately freeze accounts of violators upon receipt of enforcement decisions of competent persons.
3. To transfer money amounts of violating organizations and individuals into the state budget accounts opened at state treasuries stated in the decisions on enforcement of the deduction of tax and fine money, enforcement expenses within 5 days after the receipt of enforcement decisions; at the same time to notify the agencies which have issued the enforcement decisions and the violating individuals or organizations thereof.
4. To notify in writing the agencies which have issued enforcement decisions of the time when the enforcement decisions expire while the money amounts in the accounts of violating individuals or organizations are not enough for deduction for payment into the state budget.
5. Within the time limits for execution of enforcement decisions, if the accounts of violating individuals or organizations see a balance but they fail to deduct it for payment into the state budget under the enforcement decisions, they shall be sanctioned for tax-law violations under the provisions of this Decree.
Article 44.- Procedures for collection of deducted money
1. The deduction of money from accounts of violating individuals or organizations is carried out on the basis of vouchers of collection under current regulations. Collection vouchers used for deduction of money from accounts must be sent to the concerned parties.
2. After collection of money, the state treasuries which receive the deducted money shall notify the persons competent to issue the enforcement decisions thereof.
Section 3. ENFORCEMENT BY PARTIAL SALARY OR INCOME DEDUCTION
Article 45.- Violators subject to enforcement by partial salary or income deduction
The measure of partial salary or income deduction applies to taxpayers coerced to comply with tax-related administrative decisions in the following cases:
1. Violating individuals are public servants or working individuals who enjoy wages or incomes at agencies or organizations under labor contracts with a term of 6 months or longer;
2. Violating individuals enjoy monthly pensions or working capacity loss allowances.
Article 46.- Enforcement decisions on partial salary or income deduction against individuals
1. A decision on enforcement by partial salary or income deduction against an individual must clearly state the date of issue; grounds for the issue; full name, position and working unit of the decision issuer; full name and address of the violating individual; name and address of the agency or organization managing salaries or incomes of the violating individual; the deducted amount (stated in the decision on administrative handling and enforcement expenses calculated up to the end of the 5-day time limit before the date of enforcement), reasons for deduction; name and address of the state treasury receiving the deducted money, mode of transferring the deducted money to the state treasury; the enforcement duration; signature of the decision issuer and stamp of the decision-issuing agency.
2. Enforcement decisions must be sent to violating individuals, agencies or organizations directly managing the salaries or incomes of the violating individuals, and related bodies.
Article 47.- Percentages of partial deduction of individuals’ salaries or incomes
1. Only a salary or income part equal to the money amount stated in the sanctioning decisions of competent persons may be deducted.
2. The percentage of deduction of individuals’ salaries, pensions or working capacity loss allowances is not lower than 10% and higher than 30% of their respective total monthly salaries or allowances; for other income amounts, the deduction percentage depends on actual incomes but does not exceed 50% of the total income amounts.
Article 48.- Responsibilities of agencies, organizations and employers managing salaries or incomes of violating individuals
Agencies and organizations managing salaries or incomes of violating individuals have the responsibilities:
1. To partially deduct the salaries or incomes of violating individuals and transfer the deducted money amounts into state budget accounts at state treasuries according to the decisions on enforcement of tax-related administrative decisions, from the nearest the salary or income payment period until the time the tax and fine amounts stated in decisions on enforcement of tax-related administrative decisions are fully deducted, and at the same time notify the enforcement decision issuers and the violating individuals thereof;
2. Upon the nearest salary or income payment period, agencies, organizations or persons managing salaries or incomes of violating individuals shall partially deduct salaries or incomes of these individuals according to the enforcement decisions and transfer the deducted money amounts into accounts of the state treasuries stated in the enforcement decisions, and at the same time notify persons competent to issue the enforcement decisions thereof;
3. Where tax and fine amounts are not yet fully deducted under enforcement decisions while the labor contracts of the violating individuals terminate, the employing agencies or organizations must notify the enforcement decision issuers thereof within 5 working days after the labor contracts terminate;
4. Agencies and organizations managing salaries or incomes of individuals coerced to comply with tax-related administrative decisions, which deliberately decline to comply with the enforcement decisions, shall be sanctioned for tax-law violations according to Article 17 of this Decree.
Section 4. ENFORCEMENT BY DISTRAINING PROPERTIES AND AUCTIONING DISTRAINED PROPERTIES
Article 49.-Violators subject to the measure of distraining valuable properties for auction
Individuals and organizations are subject to the measure of distraining properties for auction when they do not voluntarily abide by the sanctioning decisions and fail to pay enforcement expenses, including:
1. Individuals being self-employed laborers without fixed agencies or organizations to manage their wages or incomes;
2. Individuals and organizations that do not have accounts or have money deposited in accounts at banks or credit institutions, which is, however, not enough for application of the measure of partial salary or income deduction or account deposit deduction;
3. Individuals and organizations against whom the enforcement measures specified at Points a and b, Clause 1, Article 93 of the Law on Tax Administration cannot be applied or have been applied but the outstanding tax and fine amounts are not yet fully collected;
4. The measure of distraining properties is not applied to individual taxpayers who are hospitalized.
Article 50.- The following properties may not be distrained
1. For individuals coerced to comply with tax-related administrative decisions:
a/ The only dwelling house of the violating individual and his/her family;
b/ Curative medicines, food, foodstuff in service of essential needs of the violating individual and his/her family;
c/ Necessary common working tools used as main or unique means of livelihood of the individual and his/her family;
d/ Clothing and essential daily-life things of the violating individual and his/her family;
e/ Worshiping objects; relics, orders, medals, diplomas of merit.
2. For production and business establishments:
a/ Curative medicines, means, instruments, assets of medical examination and treatment establishments, excluding assets in circulation for business; food, foodstuff, tools and assets in service of employees’ mid-shift meals;
b/ Kindergartens, schools and their equipment, means and tools which are not assets in circulation for enterprises’ business;
c/ Equipment, means, tools for labor safety, explosion and fire prevention and fighting, environmental pollution prevention and fighting;
d/ Infrastructure in service of public interests, security and defense;
e/ Raw materials and materials, finished products, semi-finished products which are toxic chemicals not permitted for circulation;
f/ Quantities of raw materials, materials and semi-finished products which are included in the enclosed production chains.
3. For state agencies, political organizations, socio-political organizations, socio-professional organizations (collectively referred to as agencies and organizations), which operate with state budget capital, their assets procured with state budget capital may not be distrained, but those agencies and organizations are requested to file written requests for financial supports from competent bodies for execution of enforcement decisions.
If agencies and organizations earn revenues from other lawful activities, their assets procured with capital from such revenue sources must be distrained for execution of enforcement decisions, excluding the following assets:
a/ Curative medicines, means, instruments and assets of medical examination and treatment establishments, except where these assets are in circulation for business; food, foodstuff, tools and assets in service of mid-shift meals of officials and public servants;
b/ Kindergartens and schools and their equipment, means and instruments, if such things are not assets in circulation for agencies’ or organizations’ business activities;
c/ Equipment, means and tools for labor safety, explosion and fire prevention and fighting, environmental pollution prevention and fighting;
d/ Working offices.
Article 51.- Decisions on enforcement by property distraint
1. A decision on enforcement by property distraint must clearly state the date of issue; grounds for the issue; full name, position (rank) and working unit of the issuer; full name, residence place of the individual subject to property distraint, head office of the organization subject to property distraint; the fine amount; venue for distraint; signature of the decision issuer and stamp of the decision-issuing agency.
2. Property distraint must be notified to individuals or organizations subject to property distraint, People’s Committees of communes where those persons reside or those organizations are located, or agencies employing those individuals 5 days before the enforcement is conducted, except for cases in which the notification may obstruct the distraint.
Article 52.- Property distraint procedures
1. Property distraint must be conducted during daytime and working hours applicable at localities where properties are distrained.
2. Enforcement decision issuers or persons assigned to execute the enforcement decisions assume the prime responsibility for the distraint.
3. When property distraint is conducted, the individuals subject to property distraint or adult members of their families, representatives of organizations subject to property distraint, representatives of local administrations and witnesses must be present.
If individuals coerced to comply with the enforcement decisions or adult members of their families are deliberately absent, the property distraint still proceeds in the presence of representatives of local administrations and witnesses.
4. Individuals and organizations subject to property distraint may suggest property items to be distrained first, and the persons assigned to take charge of the distraint shall accept their suggestions if finding that they do not affect the enforcement.
If individuals or organizations subject to property distraint do not specify which property items to be distrained first, property items under personal ownership must be distrained first.
5. Property jointly owned by individuals subject to property distraint and other persons may be distrained only if the individuals subject to property distraint do not have own property or their own property is not enough for execution of enforcement decisions. Property in dispute may be still distrained and co-owners of the distrained property are given explanations of their rights to initiate lawsuits according to civil procedures.
Agencies conducting the distraint shall publicly notify the distraint time and venue to co-owners. If past the 3-month time limit, counting from the distraint date, no lawsuits are initiated, the distrained property will be auctioned according to the provisions of law on property auction.
6. Within 30 days from the distraining date, if violators coerced to comply with tax-related administrative decisions fail to fully pay the outstanding tax and fine amounts, the tax agencies may auction the distrained property for full collection of the outstanding tax and fine amounts.
Article 53.- Property distraint records
1. Property distraint must be recorded in writing. A record must state the distraint time and venue; full name and position of the person taking charge of the distraint; the representative of the organization subject to property distraint, the individual subject to property distraint or their lawful representatives; witnesses, representatives of local administration (or the agency employing the violating individual); description of conditions and characters of every distrained property.
2. Persons taking charge of distraint; representatives of organizations subject to property distraint, individuals subject to property distraint or their lawful representatives; witnesses; representatives of local administrations (or agencies of individuals subject to property distraint) shall sign the records. If a person is absent or refuses to sign the record, this fact must be written in the record and the reason therefor must be clearly stated.
3. A distraint record must be made in 2 copies, one copy to be kept by the enforcement decision-issuing agency, and one copy to be handed to the individual subject to property distraint or the representative of the organization subject to property distraint immediately after the distraint record is completely made.
Article 54.- Assignment of distrained property for preservation
1. Persons taking charge of the distraint may select one of the following forms for preservation of distrained property:
a/ Assigning the property to the persons subject to property distraint, their relatives or current managers or users of such property for preservation;
b/ Assigning the property under joint ownership to a co-owner for preservation;
c/ Assigning the property to an organization or individual with conditions for preservation.
2. For properties being gold, silver, precious metals, germs, foreign currencies, they may be temporarily assigned to state treasuries for management; for industrial explosives, support tools, objects of historical or cultural value, national treasures, antiques, rare and precious forest products, they may be temporarily assigned to specialized state management bodies for management.
3. When assigning distrained property for preservation, persons taking charge of the distraint shall make a record thereof, clearly stating the date of property handover for preservation; full names of person taking charge of the enforcement, the individual subject to property distraint, the representative of the organization subject to property distraint, the person assigned to preserve the property, witnesses; quantities, conditions (quality) of the property; rights and obligations of the person assigned to preserve the property.
Persons taking charge of the distraint, persons assigned to preserve distrained property, individuals subject to property distraint, representatives of organizations subject to property distraint and witnesses shall sign in the records. Where a person is absent or refuses to sign the record, this fact must be stated in the record together with the reason therefor.
Records shall be handed to persons assigned to preserve distrained property, individuals subject to property distraint, representatives of organizations subject to property distraint, witnesses and persons taking charge of the distraint, each with one copy.
4. Persons assigned to preserve distrained property are entitled to actual reasonable expenses for preservation of the property, excluding those defined at Point a, Clause 1 of this Article.
5. If persons assigned to preserve distrained property let the property decay, be fraudulently exchanged, lost or destroyed, they shall pay compensations and shall, depending on the nature and severity of their violations, be handled according to the provisions of this Decree or examined for penal liability in accordance with the criminal law.
Article 55.- Pricing of distrained property
1. The pricing of distrained property is carried out at the houses of individuals or head offices of organizations subject to distraint or at places where the distrained property is kept (except where a pricing council is required).
2. Distrained property is valued under the agreement between persons taking charge of execution of enforcement decisions and representatives of organizations subject to property distraint or individuals subject to property distraint and co-owners in cases where property under joint ownership is distrained. The time for the parties to agree on prices must not exceed 5 working days from the date the property is distrained.
For a distrained property valued at under VND 500,000 or easy to decay, if the parties fail to reach agreement on its prices, the person competent to issue enforcement decisions shall price it.
3. Where a distrained property is valued at VND 500,000 or more, which is difficult to be priced or the parties cannot reach agreement on its price, within 15 days after the property is distrained, the person who has issued the enforcement decision shall propose a competent body to set up a pricing council with the person who has issued the enforcement decision acting as president, representatives of the finance agency and related professional agencies as members.
Within 7 working days its setting up, the pricing council shall conduct the pricing. Individuals or representatives of organizations that are subject to property distraint may contribute their opinions to the pricing, but the right to decide the prices belongs to the pricing council.
The pricing of property is based on market prices at the time of pricing. For property with prices controlled by the State, the pricing is based on prices set by the State.
4. The pricing of property shall be made in a written record, clearly stating the time and venue of pricing, participants in the pricing, names and values of the priced property; it must contain signatures of all pricing participants and property owner.
Article 56.- Competence to set up property pricing councils
1. Presidents of district-level People’s Committees shall decide to set up pricing councils for cases of administrative enforcement under the jurisdiction of state management bodies at district or commune level.
2. Presidents of provincial-level People’s Committees shall decide to set up pricing councils for cases of administrative enforcement under the jurisdiction of state management bodies at provincial level.
3. The setting up of pricing councils at central agencies shall be decided by heads of the managing ministries after reaching agreement with the Finance Minister and concerned ministries and branches.
Article 57.- Tasks of a pricing council
1. To study and propose the organization and agenda of its meetings.
2. To prepare documents necessary for the pricing.
3. To conduct the pricing.
4. To make a record of pricing.
Article 58.- Transfer of distrained property for auction
1. For property distrained for auction, based on the property value determined under the provisions of Article 55 of this Decree, within 30 days after the issue of distraint decisions, the persons taking charge of the enforcement shall sign contracts on auction authorization with organizations having the auctioning function to organize auction of the property according to the following regulations:
a/ For distrained property valued at under VND 10,000,000 each, the person taking charge of the enforcement shall sign an auction authorization contract with the district-level finance agency to organize the auction;
b/ For distrained property valued at over VND 10,000,000 each, the person taking charge of the enforcement shall sign a auction authorization contract with the provincial-level auction service center to organize the auction.
2. The Finance Minister shall guide the determination of reserve prices for auction of property defined at Points a and b, Clause 1 of this Article.
3. Transfer of distrained property to agencies responsible for auction must be recorded in writing, Such a record must clearly state the date of transfer; the transferor and transferee; signatures of transferors and transferees; quantities and conditions of the property. A dossier of handover of distrained property to the agency responsible for the auction comprises: the decision on coercive distraint; papers and documents relating to ownership rights, lawful use rights (if any); property pricing documents, and the record of the property handover.
4. Where distrained property is cumbersome or in a great quantity, which the provincial-level auction service center or district-level finance agency has no place to store, after the completion of handover procedures, it may sign a property preservation contract with the current keepers of the property. Expenses for performance of a preservation contract are paid from the proceeds from the auction of the property.
5. When distrained property is transferred to an agency responsible for auction, the procedures for auction of such property are carried out under the current provisions of law on auction.
6. For property under joint ownership, when it is auctioned, sale priority is given first to its co-owners.
7. Where the proceeds from auction are greater than the sum stated in the sanctioning decisions plus enforcement expenses, within 10 days from the date of auction, the agency taking the measure of distraining property for auction shall carry out procedures to return the difference to the violating person or organization concerned.
Article 59.- Transfer of property ownership rights
1. Distrained property buyers have their ownership rights to such property recognized and protected by law.
2. Competent state agencies shall carry out procedures for transfer of ownership rights to the buyers in accordance with law.
3. A dossier on transfer of ownership rights comprises:
a/ A copy of the decision on administrative enforcement by distraining property for auction;
b/ The property auction record;
c/ Other papers related to the property (if any).
Section 5. ENFORCEMENT BY COLLECTING MONEY AND PROPERTY OF VIOLATORS WHICH ARE BEING HELD BY OTHER ORGANIZATIONS OR INDIVIDUALS
Article 60.- Scope of application of the enforcement measure of collecting money and property of violators which are being held by a third party
The collection of money and property of violators which are being held by other organizations or individuals (hereinafter referred to as a third party) is applied when the following conditions are fully met:
1. Tax agencies cannot apply the enforcement measures defined at Points a, b and c, Clause 1, Article 93 of the Law on Tax Administration or have applied such measures but fail to fully collect the outstanding tax and fine amounts;
2. Tax agencies have grounds to determine that the third party is owing a debt amount to, or holding money and property of the violator.
Article 61.- Principles for collection of money and assets from third parties that are holding the property of violators
1. The third parties owe due debts which must be paid to the violators or are holding money, property or goods of the violators.
2. Where money and property of coerced violators, which are being held by the third parties, are objects of secured transaction or fall into cases of bankruptcy settlement, the collection of money and assets from the third parties must comply with the provisions of law.
3. Money amounts which the third parties have paid into the state budget on behalf of the violators are determined as sums already paid for the coerced violators.
Based on vouchers of collection of money and assets from the third parties, agencies competent to conduct enforcement shall notify the violators and related agencies thereof.
Article 62.- Responsibilities of third parties that are owing debts to or holding money and assets of violators
1. To supply tax agencies with information on debt amounts or money amounts or assets of violators which they are holding, clearly stating the money amounts, the debt payment time limit, types, quantity and conditions of property.
2. Upon receipt of written requests of tax agencies, not to return money and property to the violators until they pay the money into the state budget or transfer property to tax agencies for carrying out procedures for auction.
3. If they cannot comply with the requests of tax agencies, they must send written explanations to the tax agencies within 5 working days, counting from the date of receiving the written requests of tax agencies.
4. Organizations and individuals that are owing debts to or holding money and assets of violators liable to enforcement of tax-related administrative decisions but fail to pay the tax amounts for the violators within 15 days counting from the date of receiving written requests of tax agencies, are subject to enforcement measures defined in Clause 1, Article 93 of the Law on Tax Administration.
Section 6. ENFORCEMENT BY WITHDRAWING TAX IDENFICATION NUMBERS, SUSPENDING THE USE OF INVOICES; REVOKING BUSINESS REGISTRATION CERTIFICATES OR ESTABLISHMENT AND OPERATION LICENSES, PRACTICING LICENSES
Article 63.- Order of enforcement
1. Enforcement measures provided for in this Section are applied when tax agencies have applied the enforcement measures defined at Points a, b, c and d, Clause 1, Article 93 of the Law on Tax Administration but still fail to fully collect the outstanding tax and fine amounts.
2. When applying enforcement measures defined in this Section, competent state management agencies shall publicly announce such on the mass media.
Article 64.- Enforcement by withdrawing tax identification numbers, suspending the use of invoices
Heads of tax agencies at all levels may apply the enforcement measures of withdrawing tax identification numbers and suspending the use of invoices according to the provisions of Article 94 of the Law on Tax Administration. When applying these enforcement measures, heads of tax agencies at all levels shall notify the violators thereof within 3 working days before withdrawing their tax identification numbers and issue decisions on withdrawal of tax identification numbers or decisions on suspension of the use of invoices within 10 days counting from the date of handing notices to the violators.
Article 65.- Enforcement by revoking business registration certificates or establishment and operation licenses, practicing licenses
When applying the enforcement measure of withdrawing business registration certificates, establishment and operation licenses or practicing licenses against taxpayers, tax agencies shall send written requests to competent state management bodies for revocation of business registration certificates, establishment and operation licenses or practicing licenses within 3 days counting from the date of identifying the violators subject to the enforcement measure.
Within 10 days after receiving the notices of tax agencies, competent state management bodies must issue decisions to revoke business registration certificates, establishment and operation licenses or practicing licenses or notify the tax agencies of the non-revocation thereof.
Article 66.- Implementation effect
1. This Decree takes effect on July 1, 2007. Where treaties to which the Socialist Republic of Vietnam is a contracting party contain provisions on handling of tax-law violations and enforcement of tax-related administrative decisions different from those of this Decree, the provisions of such treaties prevail.
2. To cancel the Government’s Decree No.100/2004/ND-CP of February 25, 2004, on sanctioning of tax-law violations.
3. Tax-law violations committed before the effective date of this Decree shall be handled under the provisions of law effective at that time.
Where the sanctioning level prescribed in this Decree for the same act is lighter than the sanctioning level prescribed in legal documents promulgated before the effective date of this Decree, the sanctioning level prescribed by this Decree is applied, including the cases where violation acts have been recorded in writing but competent bodies have not yet issued handling decisions or have issued the handling decisions but within the statute of limitations for lodging complaints.
4. Other issues in the handling of tax-law violations and enforcement of tax-related administrative decisions which are not defined in this Decree comply with the provisions of law on handling of administrative violations and other relevant laws.
Article 67.- Guidance for and organization of implementation
The Finance Ministry shall guide and organize the implementation of this Decree and coordinate with state bodies, political organizations, socio-political organizations, social organizations and socio-professional organizations in propagating, educating and mobilizing people to implement and supervise the implementation of this Decree.
Article 68.- Implementation responsibility
Ministers, heads of ministerial-level agencies, heads of government-attached agencies, presidents of provincial/municipal People’s Committees, and relevant organizations and individuals shall implement this Decree.
|
GOVERMENT |
Tình trạng hiệu lực: Hết hiệu lực