Chương 2 Nghị định 67/2006/NĐ-CP: Xác định danh mục doanh nghiệp đặc biệt và việc áp dụng luật phá sản đối với doanh nghiệp đặc biệt
Số hiệu: | 67/2006/NĐ-CP | Loại văn bản: | Nghị định |
Nơi ban hành: | Chính phủ | Người ký: | Nguyễn Tấn Dũng |
Ngày ban hành: | 11/07/2006 | Ngày hiệu lực: | 08/08/2006 |
Ngày công báo: | 24/07/2006 | Số công báo: | Từ số 21 đến số 22 |
Lĩnh vực: | Doanh nghiệp, Thủ tục Tố tụng | Tình trạng: |
Hết hiệu lực
01/07/2016 |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
Doanh nghiệp đặc biệt trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh áp dụng quy định của Nghị định này là những doanh nghiệp đáp ứng các tiêu chí sau đây:
1. Được thành lập để trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ mang tính ổn định, thường xuyên trong những lĩnh vực, địa bàn trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh và bảo đảm bí mật quốc gia.
2. Do Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ.
3. Được Nhà nước đặt hàng hoặc giao kế hoạch ổn định, thường xuyên sản xuất cung ứng một hoặc một số sản phẩm, dịch vụ công ích, thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh quy định tại Danh mục A Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số 31/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 3 năm 2005 của Chính phủ về sản xuất và cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích.
4. Có vị trí quan trọng và việc phá sản đối với doanh nghiệp đó có ảnh hưởng trực tiếp đến quốc phòng, an ninh, trật tự xã hội.
Các doanh nghiệp, hợp tác xã thuộc danh mục thường xuyên, trực tiếp cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu được áp dụng quy định của Nghị định này phải đáp ứng các tiêu chí sau đây:
1. Trực tiếp cung ứng sản phẩm, dịch vụ thiết yếu đối với đời sống kinh tế - xã hội của đất nước, cộng đồng dân cư của một khu vực lãnh thổ. Trường hợp cung ứng sản phẩm dịch vụ thiết yếu đối với cộng đồng dân cư của một khu vực lãnh thổ thì phải đáp ứng thêm điều kiện không có doanh nghiệp, hợp tác xã khác cung ứng sản phẩm, dịch vụ đó tại địa bàn.
2. Được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đặt hàng, giao kế hoạch theo giá hoặc phí do nhà nước quy định.
1. Căn cứ vào các tiêu chí quy định tại Điều 3 và Điều 4 của Nghị định này, định kỳ hàng năm hoặc trong trường hợp cần thiết:
a) Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an, Trưởng ban Ban Cơ yếu Chính phủ lập và công bố danh mục doanh nghiệp đặc biệt; bổ sung hoặc xoá tên doanh nghiệp trong danh mục doanh nghiệp đặc biệt trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh, cơ yếu;
b) Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ quản lý ngành, lĩnh vực, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh lập và công bố danh mục doanh nghiệp đặc biệt; bổ sung hoặc xoá tên doanh nghiệp trong danh mục doanh nghiệp, hợp tác xã thường xuyên, trực tiếp cung ứng sản phẩm dịch vụ công ích thiết yếu thuộc ngành, lĩnh vực hoặc địa bàn do mình quản lý.
Đối với các doanh nghiệp thành viên thuộc tổng công ty nhà nước, công ty con thuộc nhóm công ty mẹ - công ty con hoặc tập đoàn kinh tế thì Hội đồng quản trị của tổng công ty nhà nước hoặc của công ty mẹ thuộc nhóm công ty mẹ - công ty con hoặc tập đoàn kinh tế lập danh sách các doanh nghiệp thường xuyên, trực tiếp cung ứng sản phẩm dịch vụ công ích thiết yếu và đề nghị Bộ trưởng bộ quản lý các ngành, lĩnh vực, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh công nhận là doanh nghiệp đặc biệt.
1. Khi có đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của các đối tượng quy định tại các Điều 13, 14, 15, 16, 17 và 18 của Luật Phá sản đối với doanh nghiệp đặc biệt, Toà án nhận đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản phải thông báo cho:
a) Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Ban Cơ yếu Chính phủ, nếu là doanh nghiệp đặc biệt trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh, cơ yếu;
b) Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, nếu là doanh nghiệp, hợp tác xã thường xuyên, trực tiếp cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu do mình đặt hàng hoặc giao kế hoạch;
c) Chủ sở hữu của doanh nghiệp đặc biệt (trừ trường hợp người nộp đơn là đại diện hợp pháp của doanh nghiệp).
2. Khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ, nếu nhận thấy doanh nghiệp đặc biệt không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn thì Toà án, Viện kiểm sát, cơ quan thanh tra, cơ quan quản lý vốn, tổ chức kiểm toán hoặc cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp mà không phải là chủ sở hữu nhà nước của doanh nghiệp này phải thông báo bằng văn bản cho các đối tượng quy định tại khoản 1 Điều này.
1. Khi nhận được thông báo của Toà án, của các cơ quan nhà nước có liên quan về việc mất khả năng thanh toán của các doanh nghiệp, hợp tác xã do mình đưa vào danh mục các doanh nghiệp đặc biệt hoặc có thông tin về nguy cơ mất khả năng thanh toán của các doanh nghiệp này, các đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 6 của Nghị định này có trách nhiệm như sau:
a) Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an, Trưởng ban Ban Cơ yếu Chính phủ yêu cầu doanh nghiệp đặc biệt trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh, cơ yếu lập báo cáo bằng văn bản về nguy cơ mất khả năng thanh toán của doanh nghiệp;
b) Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ quản lý ngành, lĩnh vực, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã thường xuyên, trực tiếp cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu do mình đặt hàng hoặc giao kế hoạch phải lập báo cáo bằng văn bản về nguy cơ mất khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
2. Trường hợp nhận thấy nguy cơ mất khả năng thanh toán, trước khi quyết định việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, doanh nghiệp đặc biệt phải lập báo cáo bằng văn bản về nguy cơ không có khả năng thanh toán của doanh nghiệp do đại diện hợp pháp của doanh nghiệp ký và gửi cho chủ sở hữu và cơ quan quản lý nhà nước có liên quan quy định tại khoản 1 Điều 6 của Nghị định này.
3. Báo cáo về nguy cơ mất khả năng thanh toán được lập theo quy định của Nghị định này và quy định có liên quan của pháp luật, nhưng tối thiểu phải có các nội dung sau đây:
a) Thực trạng tài chính của doanh nghiệp;
b) Nguyên nhân dẫn đến nguy cơ mất khả năng thanh toán và các biện pháp đã áp dụng để khắc phục;
c) Dự kiến các biện pháp cần được áp dụng để khắc phục, bao gồm cả biện pháp chuyển giao toàn bộ các hoạt động cho doanh nghiệp tương ứng khác hoặc sáp nhập vào doanh nghiệp khác;
d) Trách nhiệm của các cá nhân liên quan.
1. Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được báo cáo, căn cứ vào thẩm quyền do pháp luật quy định và các quy định tại Nghị định này:
a) Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an, Trưởng ban Ban Cơ yếu Chính phủ phải quyết định áp dụng hoặc không áp dụng các biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật nhằm phục hồi khả năng thanh toán nợ đến hạn và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đặc biệt trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh, cơ yếu. Trong trường hợp việc áp dụng các biện pháp cần thiết phục hồi khả năng thanh toán nợ đến hạn và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp vượt quá khả năng, thẩm quyền của Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Ban Cơ yếu Chính phủ thì Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an, Trưởng ban Ban Cơ yếu Chính phủ phải báo cáo để Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định các biện pháp cần thiết nhằm phục hồi khả năng thanh toán nợ đến hạn và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp;
b) Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ quản lý ngành, lĩnh vực, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, chủ sở hữu doanh nghiệp, hợp tác xã thường xuyên, trực tiếp cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu phải quyết định áp dụng hoặc không áp dụng các biện pháp cần thiết nhằm phục hồi khả năng thanh toán nợ đến hạn và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã này.
2. Trường hợp quyết định chấm dứt áp dụng các biện pháp cần thiết nhằm phục hồi khả năng thanh toán nợ đến hạn và hoạt động kinh doanh hoặc sau khi đã áp dụng các biện pháp cần thiết phục hồi khả năng thanh toán và hoạt động kinh doanh mà doanh nghiệp vẫn không phục hồi được và không thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an, Trưởng ban Ban Cơ yếu Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ quản lý ngành, lĩnh vực, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, chủ sở hữu doanh nghiệp hoặc hợp tác xã, Hội đồng quản trị của tổng công ty nhà nước hoặc của công ty mẹ có doanh nghiệp thành viên hoặc công ty con là doanh nghiệp đặc biệt phải thông báo bằng văn bản cho Toà án, đối tượng nộp đơn và các chủ nợ biết về việc không áp dụng hoặc chấm dứt áp dụng các biện pháp phục hồi khả năng thanh toán và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã.
Tòa án chỉ thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp đặc biệt sau khi đã nhận được văn bản thông báo của các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân sau đây:
1. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an, Trưởng ban Ban cơ yếu Chính phủ thông báo không áp dụng hoặc chấm dứt áp dụng các biện pháp phục hồi khả năng thanh toán và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đặc biệt trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh, cơ yếu mà doanh nghiệp đó vẫn không phục hồi được và không có khả năng thanh toán nợ đến hạn.
2. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ quản lý ngành, lĩnh vực, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Hội đồng quản trị tổng công ty nhà nước hoặc của công ty mẹ có doanh nghiệp thành viên hoặc công ty con là doanh nghiệp đặc biệt, chủ sở hữu doanh nghiệp, hợp tác xã thông báo không áp dụng hoặc chấm dứt áp dụng các biện pháp phục hồi khả năng thanh toán và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã thường xuyên, trực tiếp cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu mà doanh nghiệp, hợp tác xã đó vẫn không phục hồi được và không có khả năng thanh toán nợ đến hạn.
Sau khi nhận được thông báo không áp dụng hoặc chấm dứt áp dụng các biện pháp phục hồi khả năng thanh toán và hoạt động kinh doanh theo quy định tại Điều 8 và Điều 9 của Nghị định này và thực hiện các thủ tục quy định tại Điều 22 và Điều 23 Luật Phá sản thì Thẩm phán phải quyết định theo một trong hai trường hợp sau:
1. Quyết định mở thủ tục phá sản và thực hiện các trình tự, thủ tục phá sản theo quy định của Luật Phá sản, Nghị định này và các quy định pháp luật khác có liên quan đối với các trường hợp sau:
a) Doanh nghiệp đặc biệt không được nhà nước áp dụng biện pháp cần thiết để phục hồi khả năng thanh toán và hoạt động kinh doanh;
b) Doanh nghiệp đặc biệt đã được nhà nước áp dụng biện pháp cần thiết để phục hồi khả năng thanh toán và hoạt động kinh doanh mà vẫn không phục hồi được và không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn nhưng có quá nửa số chủ nợ không có bảo đảm đại diện cho từ hai phần ba tổng số nợ không có bảo đảm trở lên đề nghị tổ chức Hội nghị chủ nợ.
2. Quyết định mở thủ tục phá sản và thực hiện ngay thủ tục thanh lý tài sản của doanh nghiệp đối với trường hợp doanh nghiệp đặc biệt đã được Nhà nước áp dụng biện pháp cần thiết để phục hồi khả năng thanh toán và hoạt động kinh doanh, nhưng vẫn không phục hồi được, không thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu và không có đủ quá nửa số chủ nợ không có bảo đảm đại diện cho từ 2/3 (hai phần ba) tổng số nợ không có bảo đảm trở lên đề nghị tổ chức Hội nghị chủ nợ. Thủ tục thanh lý và tuyên bố phá sản được thực hiện theo quy định của Luật Phá sản, Nghị định này và các quy định pháp luật khác có liên quan.
Khi tiến hành thủ tục phá sản, Tổ trưởng của Tổ quản lý, thanh lý tài sản được thành lập theo quy định tại Điều 16 của Nghị định này phải tham khảo ý kiến của Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Ban Cơ yếu Chính phủ về việc công khai thông tin phá sản đối với doanh nghiệp đặc biệt trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh. Trường hợp việc công khai thông tin không có lợi cho hoạt động quốc phòng, an ninh thì Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản có trách nhiệm đề nghị Thẩm phán quyết định không niêm yết thông tin phá sản doanh nghiệp này như đối với vụ phá sản thông thường.
1. Việc thanh lý tài sản của doanh nghiệp đặc biệt thực hiện theo phương thức và thứ tự ưu tiên như sau:
a) Bán đấu giá toàn bộ doanh nghiệp cho đối tượng hoạt động trong cùng ngành nghề lĩnh vực để tiếp tục kinh doanh;
b) Bán đấu giá toàn bộ doanh nghiệp cho các đối tượng khác trong trường hợp không có đối tượng hoạt động trong cùng ngành nghề lĩnh vực tham gia đấu giá mua doanh nghiệp để tiếp tục kinh doanh;
c) Bán theo phương thức trực tiếp toàn bộ doanh nghiệp cho đối tượng hoạt động trong cùng ngành nghề lĩnh vực để tiếp tục kinh doanh trong trường hợp chỉ có một người đăng ký mua;
d) Bán đấu giá từng tài sản riêng lẻ được thực hiện trong trường hợp không thực hiện được theo phương thức bán đấu giá toàn bộ doanh nghiệp;
đ) Bán tài sản theo phương thức trực tiếp được thực hiện trong trường hợp không thực hiện được theo phương thức bán đấu giá từng tài sản hoặc giá trị tài sản dưới mức phải bán theo phương thức đấu giá theo quy định của pháp luật.
2. Những doanh nghiệp hoặc tài sản trong lĩnh vực quốc phòng an ninh, cơ yếu không được bán đấu giá thì bán trực tiếp cho đối tượng hoạt động trong cùng ngành nghề lĩnh vực để tiếp tục kinh doanh. Danh mục doanh nghiệp hoặc tài sản không bán đấu giá cho các đối tượng hoạt động ngoài lĩnh vực quốc phòng, an ninh, cơ yếu do Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Ban Cơ yếu Chính phủ quy định.
3. Việc bán toàn bộ doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước thực hiện theo quy định về bán doanh nghiệp theo Nghị định số 80/2005/NĐ-CP ngày 22 tháng 6 năm 2005 của Chính phủ về giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê công ty nhà nước; bán đấu giá công ty nhà nước theo Quyết định số 330/2005/QĐ-TTg ngày 13 tháng 12 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ. Việc bán toàn bộ doanh nghiệp không thuộc sở hữu nhà nước theo hướng dẫn của Bộ Tài chính. Việc bán đấu giá tài sản thực hiện theo quy định tại Nghị định số 05/2005/NĐ-CP ngày 18 tháng 01 năm 2005 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản.
Doanh nghiệp đặc biệt phải thực hiện các nghĩa vụ về tài sản sau đây trước khi phân chia giá trị tài sản của doanh nghiệp:
1. Thanh toán các khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản thế chấp hoặc cầm cố được xác lập trước khi Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản cho các chủ nợ có bảo đảm theo quy định tại Điều 35 của Luật Phá sản.
2. Hoàn trả lại cho nhà nước giá trị tài sản đã được sử dụng khi áp dụng biện pháp cần thiết để phục hồi khả năng thanh toán và hoạt động kinh doanh theo quy định tại Điều 36 của Luật Phá sản.
IDENTIFICATION OF SPECIAL ENTERPRISES AND APPLICATION OF THE BANKRUPTCY LAW THERETO
Article 3.- Criteria for identifying special enterprises directly serving defense and security
Special enterprises directly serving defense and security which are regulated by this Decree are those meeting the following criteria:
1. Being established to directly perform stable and regular tasks in domains or geographical areas in direct service of defense, security or assurance of national secrets.
2. Having 100% of their charter capital owned by the State.
3. Receiving stable and regular orders or plans from the State for the production of one or several public products or the provision of one or several public services to perform defense and security tasks on List A in the Annex to the Government's Decree No. 31/2005/ND-CP of March 11, 2005, on production of public products and provision of public services.
4. Holding an important position and their bankruptcy likely to directly affect defense, security or social order.
Article 4.- Criteria for identifying enterprises and cooperatives regularly and directly supplying essential public products or services
Enterprises and cooperatives identified as those regularly and directly supplying essential public products and services and governed by this Decree should meet the following criteria:
1. Directly supplying essential products or services for the socio-economic life of the country or a population community in a geographical area. In case of supply of essential products or services for a population community in a geographical area, an additional condition that there are no other enterprises or cooperatives supplying the same products or services in the area should also be satisfied.
2. Receiving from competent state agencies supply orders or plans with prices or charges set by the State.
Article 5.- Making and promulgation of lists of special enterprises
1. On the basis of criteria specified in Article 3 and Article 4 of this Decree, annually or in case of necessity:
a/ The Minister of Defense, the Minister of Public Security and the director of the Government Cipher Commission shall make and promulgate lists of special enterprises; add or delete enterprise names to/from lists of enterprises directly serving defense, security and cipher.
b/ Ministers, heads of ministerial-level agencies and heads of government-attached agencies managing branches or domains, presidents of provincial-level People's Committees shall make and promulgate lists of special enterprises; add or delete enterprise names to/from lists of enterprises or cooperatives regularly and directly supplying essential public products or services in branches, domains or localities under their respective management.
2. For member enterprises of state corporations, subsidiary companies of groups of parent and subsidiary companies or economic conglomerates, the boards of management of state corporations or parent companies of groups of parent and subsidiary companies or economic conglomerates shall make lists of enterprises regularly and directly supplying essential public products or services and propose ministers managing branches or domains or presidents of provincial-level People's Committees to recognize such enterprises as special ones.
Article 6.- Notification of petitions for institution of bankruptcy proceedings
1. Upon receiving petitions for institution of bankruptcy proceedings with respect to special enterprises from subjects defined in Articles 13, 14, 15, 16, 17 and 18 of the Bankruptcy Law, the court shall notify such to:
a/ The Ministry of Defense, the Ministry of Public Security or the Government Cipher Commission, for special enterprises directly serving defense, security or cipher;
b/ Ministries, ministerial-level agencies or government-attached agencies performing state management of branches or domains or provincial-level People's Committees, for enterprises or cooperatives regularly and directly supplying essential public products or services under supply orders or plans of such ministries, ministerial-level agencies or government-attached agencies;
c/ Owners of special enterprises (except where petitioners are lawful representatives of the enterprises).
2. When performing its functions and tasks, if seeing that the special enterprise in question is incapable of paying off due debts, the court, procuracy, inspection agency, capital management agency, audit organization or enterprise establishment-deciding agency other than the state owner of this enterprise shall issue written notifications to the subjects defined in Clause 1 of this Article.
Article 7.- Responsibilities of state agencies and special enterprises
1. Upon receiving notifications of the court or concerned state agencies on the insolvency of enterprises or cooperatives listed as special enterprises or information on the risk of insolvency of these enterprises, the subjects defined in Clause 1, Article 6 of this Decree shall have the following responsibilities:
a/ The Minister of Defense, the Minister of Public Security or the director of the Government Cipher Commission shall request special enterprises directly serving defense, security or cipher to make reports on their risk of insolvency;
b/ Ministers, heads of ministerial-level agencies or government-attached agencies performing state management of branches or domains or presidents of provincial-level People's Committees shall request enterprises or cooperatives regularly and directly supplying essential public products or services under supply orders or plans of such ministries, ministerial-level agencies or government-attached agencies to make reports on their risk of insolvency.
2. In case of perceiving the risk of insolvency or before deciding to file a petition for institution of bankruptcy proceedings, a special enterprise shall make a report on its risk of insolvency signed by its lawful representative and send it to the owner and related state management agency defined in Clause 1, Article 6 of this Decree.
3. A report on the risk of insolvency shall be made in accordance with the provisions of this Decree and relevant provisions of law and contain at least the following contents:
a/ The enterprise's actual financial status;
b/ Causes of the risk of insolvency and measures already applied to redress such risk;
c/ Expected measures to be applied to redress the risk, including transfer of all of the enterprise's activities to another similar enterprise or merger into another enterprise;
d/ Responsibilities of related individuals.
Article 8.- Application of necessary measures to restore solvency and business operations
1. Within 15 days after receiving the report, basing themselves on their powers prescribed by law and the provisions of this Decree:
a/ The Minister of Defense, the Minister of Public Security or the director of the Government Cipher Commission shall make decision whether or not to apply necessary measures as provided for by law to restore the solvency and business operations of special enterprises directly serving defense, security or cipher. If the application of such measures falls beyond the capability and competence of the Ministry of Defense, the Ministry of Public Security or the Government Cipher Commission, the Minister of Defense, the Minister of Public Security or the director of the Government Cipher Commission shall report such to the Prime Minister for consideration and decision on the application of such measures.
b/ Ministers, heads of ministerial-level agencies or government-attached agencies performing state management of branches or domains, presidents of provincial-level People's Committees or owners of enterprises or cooperatives regularly and directly supplying essential public products or services shall make decision whether or not to apply necessary measures as provided for by law to restore the solvency and business operations of such enterprises or cooperatives.
2. In case of deciding to terminate the application of necessary measures to restore solvency and business operations or after having applied necessary measures to restore solvency and business operations but the enterprises still cannot restore their solvency and pay their due debts upon request of creditors, the Minister of Defense, the Minister of Public Security, the director of the Government Cipher Commission, other ministers, heads of ministerial-level agencies or government-attached agencies performing state management of branches or domains or presidents of provincial-level People's Committees, owners of the enterprises or cooperatives, chairmen of the boards of management of state corporations with member enterprises or parent companies with subsidiary companies being special enterprises shall notify in writing the court, petitioners and creditors of the non-application or termination of the application of measures to restore solvency and business operations of the enterprises or cooperatives concerned.
Article 9.- Acceptance of petitions for institution of bankruptcy proceedings with respect to special enterprises
The court shall accept petitions for institution of bankruptcy proceedings with respect to special enterprises after receiving written notifications of the following agencies, organizations or individuals:
1. Notifications of the Minister of Defense, the Minister of Public Security or the director of the Government Cipher Commission on the non-application or termination of the application of measures to restore solvency and business operations of special enterprises directly serving defense, security or cipher since such enterprises still cannot restore their solvency and pay their due debts.
2. Notifications of ministers, heads of ministerial-level agencies or government-attached agencies performing state management of branches or domains or presidents of provincial-level People's Committees, chairmen of the boards of management of state corporations with member enterprises or parent companies with subsidiary companies being special enterprises or owners of the enterprises or cooperatives on the non-application or termination of the application of measures to restore solvency and business operations of enterprises or cooperatives regularly and directly supplying essential public products or services since such enterprises or cooperatives still cannot restore their business operations and pay their due debts.
Article 10.- Bankruptcy proceedings
After receiving notifications on the non-application or termination of the application of measures to restore solvency and business operations as stipulated in Article 8 and Article 9 of this Decree and carrying out proceedings specified in Article 22 and Article 23 of the Bankruptcy Law, judges shall make either of the following decisions:
1. To institute and carry out bankruptcy proceedings as provided for in the Bankruptcy Law, this Decree and relevant laws in the following circumstances:
a/ The special enterprise is not entitled to the application of necessary measures by the State to restore its solvency and business operations;
b/ The special enterprise has been subjected by the State to necessary measures to restore its solvency and business operations but it still cannot restore its business operation and pay its due debts while more than half of its unsecured creditors representing two-thirds or more of total unsecured debts request organization of a creditors' meeting.
2. To open bankruptcy proceedings and immediately carry out proceedings for liquidating enterprise assets, for special enterprises which have been subjected by the State to necessary measures to restore their solvency and business operations but still cannot restore their business operation and pay their due debts upon request of creditors and when less than half of their unsecured creditors representing two-thirds or more of total unsecured debts request organization of a creditors' meeting. The procedures for liquidation and bankruptcy declaration shall comply with the provisions of the Bankruptcy Law, this Decree and other relevant provisions of law.
Article 11.- Disclosure of information on special enterprises directly serving defense and security
When carrying out bankruptcy proceedings with respect to special enterprises directly serving defense or security, the head of the asset management and liquidation team set up under Article 16 of this Decree shall consult the Ministry of Defense, the Ministry of Public Security and the Government Cipher Commission on the disclosure of information thereon. In case such disclosure may place defense and security activities at a disadvantage, the head of the asset management and liquidation team shall have to propose the judge to make a decision not to disclose information on the bankruptcy of such enterprises as in ordinary cases of bankruptcy.
Article 12.- Liquidation of assets of special enterprises
1. The liquidation of assets of a special enterprise shall be carried out according to the following procedures and in the following priority order:
a/ Auctioning the whole enterprise to an entity operating in the same business line for continued business;
b/ Auctioning the whole enterprise to other entities in case there is no entity operating in the same business line which participates in the auction to buy the enterprise for continued business;
c/ Selling the whole enterprise directly to the entity operating in the same business line for continued business in case such entity is the sole registered buyer;
d/ Auctioning assets one by one in case the auction of the whole enterprise fails;
e/ Selling assets directly to buyers in case the auction of assets one by one fails or when the value of such assets is lower than the level subject to auction as prescribed by law.
2. Enterprises or assets in the defense, security and cipher domains which are not allowed to be put up for auction shall be sold directly to the entities operating in the same business line for continued business operation. The lists of enterprises or assets not allowed to be put up for auction to entities operating outside the defense, security or cipher domain shall be stipulated by the Ministry of Defense, the Ministry of Public Security and the Government Cipher Commission.
3. The sale of the whole of a state enterprise shall comply with the provisions on the sale of enterprises in the Government's Decree No. 80/2005/ND-CP of June 22, 2005, on assignment, sale, business contracting and lease of state companies; and on the auction of state companies in the Prime Minister's Decision No. 330/2005/QD-TTg of December 13, 2005. The sale of the whole of a non-state enterprise shall comply with the guidance of the Ministry of Finance. The sale of assets shall comply with the provisions of the Government's Decree No. 05/2005/ND-CP of January 18, 2005, on property auction.
Article 13.- Payment of secured debts and return of assets to the State
Special enterprises shall perform the following property liabilities before dividing the value of their assets:
1. To pay debts secured with the asset mortgage or pledge which was established before the court accepts the petition for institution of bankruptcy proceedings to secured creditors under the provisions of Article 35 of the Bankruptcy Law.
2. To return to the State the value of assets used upon the application of necessary measures to restore solvency and business operations under the provisions of Article 36 of the Bankruptcy Law.
Article 14.- Order of division of assets
After discharging property liabilities mentioned in Article 13 of this Decree, the value of assets of special enterprises shall be divided in the order specified in Article 37 of the Bankruptcy Law.
Tình trạng hiệu lực: Hết hiệu lực