Chương 4 Nghị định 200/2004/NĐ-CP: Các giải pháp cụ thể
Số hiệu: | 200/2004/NĐ-CP | Loại văn bản: | Nghị định |
Nơi ban hành: | Chính phủ | Người ký: | Phan Văn Khải |
Ngày ban hành: | 03/12/2004 | Ngày hiệu lực: | 04/01/2005 |
Ngày công báo: | 20/12/2004 | Số công báo: | Số 20 |
Lĩnh vực: | Bộ máy hành chính, Tài nguyên - Môi trường | Tình trạng: |
Hết hiệu lực
01/02/2015 |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo giải quyết các nội dung về đất đai sau đây:
1. Phối hợp các cơ quan chức năng, rà soát đất đai của các lâm trường quốc doanh đang quản lý, sử dụng trên địa bàn thuộc tỉnh.
2. Xử lý, giải quyết dứt điểm các trường hợp tranh chấp và vi phạm pháp luật về đất đai (đất lâm trường bị lấn chiếm, có tranh chấp, vi phạm), giải quyết dứt điểm đối với từng trường hợp cụ thể theo quy định của pháp luật.
3. Rà soát điều chỉnh lại cho phù hợp quy hoạch sử dụng đất của các lâm trường quốc doanh: căn cứ quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; quy hoạch, kế hoạch phát triển lâm nghiệp của địa phương và kết quả rà soát đất đai của các lâm trường quốc doanh, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xác định hoặc điều chỉnh lại diện tích, ranh giới các loại đất giao cho các Công ty Lâm nghiệp, Ban Quản lý rừng dự kiến thành lập.
4. Thực hiện giao đất, cho thuê đất.
Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ quy hoạch sử dụng đất của lâm trường quốc doanh đã được xác định để quyết định việc giao đất, cho thuê đối với các tổ chức theo quy định sau đây:
a) Giao đất không thu tiền sử dụng đất đối với: Ban Quản lý rừng phòng hộ, rừng đặc dụng; lâm trường chuyển đổi sang loại hình đơn vị sự nghiệp có thu; đất để làm dịch vụ sản xuất giống, xây dựng mô hình ứng dụng và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cho nông dân trong vùng và đất sử dụng vào mục đích công cộng trong các Công ty Lâm nghiệp.
b) Cho thuê đất hoặc giao đất có thu tiền sử dụng đất đối với diện tích đất của các Công ty Lâm nghiệp sử dụng vào mục đích kinh doanh.
c) Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức thực hiện việc đo đạc, lập hồ sơ địa chính và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các Công ty Lâm nghiệp, Ban Quản lý rừng và các tổ chức theo quy định của pháp luật về đất đai.
Ngân sách địa phương bảo đảm kinh phí để thực hiện việc rà soát đất, cắm mốc ranh giới, giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các Ban Quản lý rừng và các Công ty Lâm nghiệp.
5. Đối với diện tích đất không nằm trong quy hoạch để giao cho các Công ty Lâm nghiệp và Ban Quản lý rừng thì Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thu hồi và ưu tiên giao diện tích đất này cho đồng bào dân tộc tại chỗ chưa có hoặc chưa đủ đất sản xuất và đất ở theo mức bình quân chung tại địa phương. Việc quản lý và sử dụng những diện tích đất được thu hồi phải theo đúng quy định của pháp luật về đất đai.
6. Giải quyết đất ở, đất sản xuất cho các hộ gia đình, cá nhân là cán bộ, công nhân viên Công ty Lâm nghiệp.
Uỷ ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân là cán bộ, công nhân viên Công ty Lâm nghiệp trong các trường hợp sau:
a) Về đất ở: đối với các hộ gia đình, cá nhân (bao gồm cả những người đang làm việc, người nghỉ mất sức, người nghỉ hưu và những người xin thôi việc) có hộ khẩu hợp pháp trên địa bàn, chưa được cấp đất ở.
Đối với những hộ gia đình, cá nhân đã được lâm trường giao đất ở trước đây (đã định cư, sinh sống ổn định), nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì Uỷ ban nhân dân cấp huyện sở tại có trách nhiệm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở cho các trường hợp này.
b) Về đất sản xuất: hộ gia đình, cá nhân là cán bộ, công nhân viên Công ty Lâm nghiệp không còn việc làm do sắp xếp lại tổ chức, được ưu tiên giao đất để sử dụng ổn định vào mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản.
Mức đất giao cho hộ gia đình, cá nhân là cán bộ, công nhân viên Công ty Lâm nghiệp bằng mức diện tích đất bình quân giao cho nhân khẩu của các hộ nông dân tại địa phương do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quy định.
c) Quỹ đất để giao đất ở, đất sản xuất cho hộ gia đình, cá nhân là cán bộ, công nhân viên Công ty Lâm nghiệp lấy trong quỹ đất hiện có của địa phương, trường hợp địa phương không còn quỹ đất thì lấy quỹ đất của lâm trường sau khi điều chỉnh lại quy hoạch để giao.
Các lâm trường quốc doanh có trách nhiệm bàn giao toàn bộ hồ sơ về quỹ đất bị thu hồi cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh nơi có đất.
1. Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các Bộ, ngành, Tổng công ty chỉ đạo các cơ quan chức năng rà soát và xác định rõ diện tích, ranh giới, trạng thái các loại rừng của các lâm trường quốc doanh đang quản lý trên bản đồ và thực địa; đối với rừng trồng phải xác định giá trị của rừng để làm cơ sở xây dựng phương án sắp xếp, đổi mới và phát triển lâm trường quốc doanh.
2. Bàn giao rừng: căn cứ vào phương án sắp xếp, đổi mới và phát triển lâm trường quốc doanh, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh phối hợp với các Bộ, ngành, Tổng công ty có lâm trường quốc doanh bàn giao rừng cho các Công ty Lâm nghiệp và Ban Quản lý rừng.
3. Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh thu hồi và có phương án quản lý, sử dụng các khu rừng không nằm trong quy hoạch giao cho các Công ty Lâm nghiệp, Ban Quản lý rừng.
Các lâm trường quốc doanh có trách nhiệm bàn giao đầy đủ hồ sơ về diện tích rừng và đất lâm nghiệp bị thu hồi cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh nơi có rừng.
4. Việc quản lý, sử dụng rừng thực hiện theo quy định tại Quyết định số 08/2001/QĐ-TTg ngày 11 tháng 01 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế quản lý rừng phòng hộ, rừng đặc dụng và rừng sản xuất là rừng tự nhiên.
1. Các lâm trường quốc doanh tổ chức kiểm kê, đánh giá lại tài sản và vốn hiện có, xử lý nợ tồn đọng theo quy định như đối với các doanh nghiệp nhà nước thực hiện việc sắp xếp, đổi mới.
2. Các lâm trường quốc doanh bàn giao cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh (hoặc các đơn vị được Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ủy quyền quản lý) các tài sản do lâm trường đầu tư xây dựng, hiện đang quản lý, sử dụng để phục vụ nhu cầu chung trên địa bàn bao gồm: đường giao thông, công trình thuỷ lợi, trường học, bệnh xá. Đồng thời bàn giao cho Tổng công ty Điện lực Việt Nam quản lý hệ thống điện do lâm trường đã đầu tư xây dựng để phục vụ chung cho dân cư trên địa bàn.
Việc bàn giao đường giao thông, hệ thống điện, công trình thuỷ lợi, trường học, bệnh xá của lâm trường về địa phương quản lý thực hiện theo Quyết định số 255/2003/QĐ-TTg ngày 01 tháng 12 năm 2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc bàn giao xử lý vốn vay và đầu tư tài sản đường giao thông, hệ thống điện, công trình thuỷ lợi, trường học, bệnh xá của lâm trường về địa phương và Tổng công ty Điện lực Việt Nam quản lý.
3. Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn các tổ chức, cá nhân nhận bàn giao, nhận nợ từ lâm trường các tài sản, diện tích rừng hình thành bằng nguồn vốn vay ngân hàng.
Trường hợp tài sản diện tích rừng hình thành từ nguồn vốn tín dụng khi lâm trường bàn giao cho các ban quản lý (đơn vị sự nghiệp) nếu có khó khăn thì nhà nước sẽ xem xét hỗ trợ như cơ chế quy định tại Điều 2 Quyết định số 255/2003/QĐ-TTg ngày 01 tháng 12 năm 2003 của Thủ tướng Chính phủ.
4. Bộ Tài chính hướng dẫn việc bàn giao tài sản, rừng cây, vườn cây lâu năm, giá trị đầu tư khai hoang cải tạo đất giữa các lâm trường và các bên có liên quan.
5. Hàng năm, căn cứ kế hoạch, nhiệm vụ trồng, quản lý, bảo vệ rừng phòng hộ và rừng đặc dụng được cấp có thẩm quyền giao, ngân sách nhà nước đảm bảo kinh phí để thực hiện theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước và các văn bản pháp luật hiện hành.
6. Tiền bán gỗ và lâm sản khác khai thác từ rừng tự nhiên, Công ty Lâm nghiệp được sử dụng vào các mục đích sau:
a) Thanh toán chi phí tạo rừng của Công ty Lâm nghiệp (hợp đồng khoán cho hộ gia đình, cá nhân và tổ chức nhận khoán gây trồng, bảo vệ, nuôi dưỡng rừng theo hợp đồng khoán), trang trải chi phí cho việc khai thác, vận chuyển và tiêu thụ lâm sản.
b) Thực hiện nghĩa vụ tài chính với Nhà nước.
c) Trích lập các quỹ theo quy định của pháp luật.
7. Các Công ty Lâm nghiệp còn phải đảm nhận một phần chức năng, nhiệm vụ xã hội, an ninh, quốc phòng và các nhiệm vụ công ích khác thì phần chức năng, nhiệm vụ đó được Nhà nước cấp kinh phí theo dự án, kế hoạch được duyệt và phải hạch toán riêng.
8. Các Công ty Lâm nghiệp được giao quản lý những diện tích rừng sản xuất là rừng tự nhiên nghèo kiệt, đang trong thời kỳ nuôi dưỡng, phục hồi, chưa được phép khai thác gỗ (địa bàn công ty đóng ở vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số) thì được Nhà nước hỗ trợ kinh phí để quản lý, bảo vệ các khu rừng này theo cơ chế như đối với rừng phòng hộ.
1. Lâm trường quốc doanh tiến hành rà soát lại số cán bộ, nhân viên và lao động hiện có đến thời điểm sắp xếp, đổi mới. Xây dựng phương án bố trí cán bộ, công nhân viên, lao động của lâm trường theo hướng sử dụng tối đa phù hợp với năng lực, sở trường của người lao động.
2. Giải quyết lao động dôi dư: trong quá trình sắp xếp, tổ chức lại sản xuất, những cán bộ, công nhân viên lâm trường không bố trí được việc làm được giải quyết chính sách theo quy định tại Nghị định số 41/2002/NĐ-CP ngày 11 tháng 4 năm 2002 của Chính phủ về chính sách đối với người lao động dôi dư do sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước. Riêng đối với các chức danh Giám đốc, Phó Giám đốc, Kế toán trưởng được thực hiện theo quy định tại Nghị quyết số 09/2003/NQ-CP ngày 28 tháng 7 năm 2003 của Chính phủ bổ sung Nghị quyết số 16/2000/NQ-CP ngày 18 tháng 10 năm 2000 của Chính phủ về việc tinh giản biên chế trong các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp.
3. Cán bộ, công nhân viên trong danh sách của Công ty Lâm nghiệp, đang làm việc, có hưởng lương từ công ty hoặc không hưởng lương từ công ty nhưng có thu nhập từ kết quả sản xuất do nhận khoán đất, nhận khoán rừng, vườn cây của công ty thì công ty có trách nhiệm thực hiện các quy định có liên quan của pháp luật về bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế.
4. Đối với số cán bộ, công nhân viên nhận khoán, nếu vẫn hưởng lương theo cấp bậc công việc thì công việc khoán đó phải được thể hiện trong hợp đồng lao động theo quy định hiện hành. Nếu tiền công được tính vào kết quả khoán thì phải được quy định rõ hình thức trả lương trong hợp đồng lao động.
1. Các Công ty Lâm nghiệp được Nhà nước hỗ trợ để phát triển, đẩy mạnh ứng dụng các tiến bộ khoa học - công nghệ mới, công nghệ cao vào sản xuất, chế biến, nhất là về giống cây trồng rừng có năng suất, chất lượng cao; xây dựng các cơ sở nhân giống mới bằng mô, hom để cung cấp cho trồng rừng nguyên liệu công nghiệp; chuyển giao, tiến bộ khoa học - công nghệ mới và làm dịch vụ khuyến lâm, thông tin thị trường cho nông dân trong vùng.
2. Khuyến khích rộng rãi việc hợp tác, liên doanh, liên kết giữa Công ty Lâm nghiệp với các nhà đầu tư, các viện, trường, trung tâm, cơ sở nghiên cứu khoa học của trung ương, vùng, địa phương để bảo vệ nguồn gen, chọn lọc, lai tạo và sản xuất những giống cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng cao, có sức cạnh tranh lớn trên thị trường.