Số hiệu: | 108-CP | Loại văn bản: | Nghị định |
Nơi ban hành: | Chính phủ | Người ký: | Phạm Văn Đồng |
Ngày ban hành: | 12/06/1973 | Ngày hiệu lực: | 27/06/1973 |
Ngày công báo: | 15/06/1973 | Số công báo: | Số 9 |
Lĩnh vực: | Doanh nghiệp | Tình trạng: | Không còn phù hợp |
Công tác quản lý tài chính của hợp tác xã sản xuất muối phải theo đúng nguyên tắc dân chủ, công khai, quản lý thống nhất và phải từng bước thực hiện chế độ hạch toán kinh tế.
Việc sử dụng các nguồn vốn và thực hiện các khoản thu chi của hợp tác xã phải theo đúng kế hoạch do đại hội xã viên duyệt và có sổ sách chứng từ đầy đủ; phải chấp hành đúng chế độ, thể lệ về quản lý tài chính và tiền tệ của Nhà nước đã quy định như chế độ quản lý tiền mặt, chế độ kế toán, tài vụ, chế độ kiểm kê, xử lý tài sản v.v... triệt để thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tham ô, làm thiệt hại đến của cải của hợp tác xã hoặc của Nhà nước.
Kế hoạch tài vụ hàng năm của hợp tác xã phải được đại hội xã viên xét duyệt cùng với kế hoạch sản xuất; hàng vụ và hết năm, Ban quản trị phải báo cáo tài chính công khai trước đại hội xã viên và phải niêm yết ở trụ sở hợp tác xã để mọi người cùng biết.
Mỗi hợp tác xã, ngoài phó chủ nhiệm phụ trách tài vụ, phải có một kế toán trưởng và những người chuyên trách về kế toán, giữ kho, giữ quỹ. Những người này phải có công tâm, có ý thức tiết kiệm của công và ý thức phát triển sản xuất, được học về nghiệp vụ, chuyên môn cần thiết. Các hợp tác xã phải tùy theo quy mô lớn, nhỏ mà sử dụng hợp lý số nhân viên kế toán, giữ kho, giữ quỹ.
Kế toán trưởng do Đại hội xã viên bầu và Ủy ban hành chính huyện xét duyệt. Kế toán trưởng là người chịu trách nhiệm, chỉ đạo công tác kế toán trong hợp tác xã, bảo đảm các nguyên tắc, chế độ kế toán của hợp tác xã trước xã viên và trước các cơ quan chính quyền về mặt quản lý và kiểm tra tài chính. Kế toán trưởng tham dự các cuộc họp của Ban quản trị và có tham dự các cuộc họp của Ban quản trị và có quyền từ chối không ký vào lệnh xuất tiền, xuất kho của Ban quản trị nếu thấy lệnh ấy không đúng với kế hoạch hoặc trái với nguyên tắc, chế độ quản lý của Nhà nước. Nếu Ban quản trị vẫn quyết định chi thì kế toán trưởng phải lý lệnh xuất, đồng thời phải báo cáo ngay Ủy ban hành chính xã hoặc Ủy ban hành chính huyện để xem xét.
Kế toán trưởng chỉ bầu lại khi đại hội xã viên thấy cần phải thay và được Ủy ban hành chính huyện đồng ý.
Các nhân viên, kế toán, thủ quỹ, thủ kho chỉ được xuất kho, xuất tiền khi lệnh xuất có chữ ký của kế toán trưởng.
Hợp tác xã phải thống nhất quản lý và thống nhất phân phối các khoản thu nhập. Việc phân phối trong hợp tác xã phải bảo đảm nguyên tắc phân phối theo lao động; bảo đảm quan hệ đúng đắn giữa tích lũy và tiêu dùng; giữa lợi ích của hợp tác xã và lợi ích của Nhà nước.
Tất cả các khoản thu nhập của hợp tác xã trong năm, sau khi trừ chi phí sản xuất, trích khấu hao trả chi phí quản lý, trả nợ cho Nhà nước, số còn lại sẽ phân phối như sau:
a. Để quỹ tích lũy từ 10 đến 12%, quỹ này không chia, chỉ dành cho việc ở rộng sản xuất;
b. Để quỹ công ích từ 2 đến 5%, quỹ này chi dùng vào việc mở mang các sự nghiệp văn hóa xã hội (cứu tế, phụ câấ sinh đẻ...);
c. Số còn lại phải chia hết cho xã viên theo lao động.
Trường hợp được mùa hoặc mất mùa có thể điều chỉnh tỷ lệ giữa tích lũy và tiêu dùng cho hợp lý.
Phương án phân phối thu nhập phải do đại hội hoặc đại hội đại biểu xã viên quyết định và phải niêm yết công khai.
Hợp tác xã trả công cho xã viên bằng tiền theo nguyên tắc trả công theo kết quả lao động cho mỗi người một cách công bằng, sòng phẳng và kịp thời.
Hợp tác xã phải xây dựng định mức lao động và đơn giá tính công sát với từng loại công việc để thực hiện rộng rãi chế độ khoán sản lượng trong sản xuất, khoán khối lượng công việc trong tu sửa và xây dựng cơ bản cho các tổ sản xuất và trả công theo sản phẩm cho các xã viên.
Các cán bộ hợp tác xã phải dành thời giờ để tham gia lao động sản xuất. Những thời gian làm công việc chung của hợp tác xã sẽ được hợp tác xã phụ cấp. Những cán bộ chủ chốt, bận làm công việc chung, ngoài tiền công phải do lao động sản xuất mà có, còn được hợp tác xã cấp về thời gian phải làm công việc chung, bảo đảm thu nhập của họ về cả hai nguồn tiên tiến trong hợp tác xã. Ủy ban hành chính tỉnh tùy theo điều kiện sản xuất từng vùng sẽ quy định cụ thể số ngày công được phụ cấp cho các loại cán bộ của hợp tác xã.
Việc trả công cho các ngành nghề phụ trong hợp tác xã phải tùy theo tính chất công việc và thu nhập của ngành nghề đó, nhưng phải chú ý quan hệ thích đáng với tiền công sản xuất muối.
Tình trạng hiệu lực: Không còn phù hợp