Số hiệu: | 03-LCTN | Loại văn bản: | Luật |
Nơi ban hành: | Quốc hội | Người ký: | Lê Đức Anh |
Ngày ban hành: | 08/10/1992 | Ngày hiệu lực: | 10/10/1992 |
Ngày công báo: | 15/12/1992 | Số công báo: | Số 23 |
Lĩnh vực: | Bộ máy hành chính | Tình trạng: |
Hết hiệu lực
12/04/2002 |
Trong phạm vi trách nhiệm của mình, Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với các văn bản pháp quy của các Bộ, các cơ quan ngang Bộ, các cơ quan khác thuộc Chính phủ, các cơ quan chính quyền địa phương; kiểm sát việc chấp hành pháp luật khi phát hiện có vi phạm pháp luật, nhằm bảo đảm:
1- Các văn bản pháp quy của các cơ quan nói trên phù hợp với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, nghị quyết, nghị định của Chính phủ, quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ;
2- Việc chấp hành pháp luật của các cơ quan, tổ chức, đơn vị và công dân được nghiêm chỉnh và thống nhất.
Khi thực hiện công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với các cơ quan quy định tại Điều 8 của Luật này, các tổ chức, đơn vị và cá nhân, Viện kiểm sát nhân dân có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1- Yêu cầu các cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ trang cùng cấp và cấp dưới, các đơn vị cơ sở trực thuộc cấp trên đóng tại địa phương:
a/ Thông báo cho Viện kiểm sát nhân dân về hành vi vi phạm pháp luật trong cơ quan, tổ chức, đơn vị mình và kết quả xử lý;
b/ Cung cấp các văn bản pháp quy, tài liệu cần thiết cho việc xác định vi phạm pháp luật;
c/ Kiểm tra việc làm vi phạm pháp luật trong cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp dưới và thông báo kết quả cho Viện kiểm sát nhân dân;
d/ Giải trình các vấn đề có liên quan đến vi phạm pháp luật;
2- Yêu cầu cơ quan thanh tra cùng cấp thanh tra việc làm vi phạm pháp luật và thông báo kết quả cho Viện kiểm sát nhân dân;
3- Yêu cầu viên chức Nhà nước, nhân viên tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, quân nhân và công dân trả lời và cung cấp tài liệu về việc làm vi phạm pháp luật có liên quan đến họ;
4- Trực tiếp kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại cơ quan, tổ chức, đơn vị khi phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc khi các yêu cầu của Viện kiểm sát nhân dân quy định tại các khoản 1 và 2 Điều này không được thực hiện hoặc đã được thực hiện nhưng chưa đáp ứng yêu cầu.
Cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân có liên quan có trách nhiệm thực hiện yêu cầu quy định tại các khoản 1, 2, và 3 Điều này trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu.
1- Khi kết luận có vi phạm pháp luật, Viện kiểm sát nhân dân kháng nghị với cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang cùng cấp và cấp dưới, các đơn vị cơ sở trực thuộc cấp trên đóng tại địa phương yêu cầu đình chỉ việc thi hành, sửa đổi hoặc bãi bỏ các văn bản, chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật; loại trừ nguyên nhân gây ra vi phạm pháp luật; yêu cầu xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính đối với người vi phạm. Nếu có dấu hiệu tội phạm thì Viện kiểm sát khởi tố về hình sự. Trong trường hợp do pháp luật quy định thì khởi tố về dân sự và áp dụng các biện pháp theo quy định của pháp luật để bảo đảm thu hồi tài sản và bồi thường thiệt hại do vi phạm pháp luật gây ra.
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền ra quyết định đình chỉ và buộc phải sửa chữa những hành vi vi phạm pháp luật có thể gây hậu quả nghiêm trọng và chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình.
2- Cơ quan, tổ chức và đơn vị hữu quan có trách nhiệm trả lời kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân quy định tại khoản 1 Điều này trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được kháng nghị. Trong trường hợp cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan cấp trên nhận được kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân đối với cấp dưới của mình thì thời hạn trả lời là ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được kháng nghị. Nếu cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan không nhất trí với nội dung kháng nghị thì đề nghị Viện kiểm sát nhân dân cấp trên trực tiếp xem xét lại. Viện Kiểm sát nhân dân cấp trên trực tiếp phải xem xét và trả lời trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được đề nghị.
3- Khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật, Viện kiểm sát nhân dân kiến nghị với cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa vi phạm pháp luật.
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao cùng Tổng thanh tra Nhà nước xác định phạm vi hoạt động cụ thể của mỗi ngành.
Tình trạng hiệu lực: Hết hiệu lực