Chương V: Kỳ họp Quốc Hội
Số hiệu: | 66-LCT/HĐNN8 | Loại văn bản: | Luật |
Nơi ban hành: | Quốc hội | Người ký: | Võ Chí Công |
Ngày ban hành: | 15/04/1992 | Ngày hiệu lực: | 18/04/1992 |
Ngày công báo: | 15/06/1992 | Số công báo: | Số 11 |
Lĩnh vực: | Bộ máy hành chính | Tình trạng: |
Hết hiệu lực
07/01/2002 |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
Quốc hội họp thường lệ mỗi năm hai kỳ.
Trong các trường hợp do Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội yêu cầu hoặc theo quyết định của mình Uỷ ban thương vụ Quốc hội triệu tập kỳ họp bất thường.
Uỷ ban thường vụ Quốc hội dự kiến chương trình làm việc của các kỳ họp quốc hội; Uỷ ban thường vụ Quốc hội khoá trước dự kiến chương trình làm việc của kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khoá mới.
Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định triệu tập kỳ họp Quốc hội thường lệ chậm nhất là ba mươi ngày; kỳ họp Quốc hội bất thường chậm nhất là bảy ngày, trước ngày khai mạc kỳ họp.
Dự kiến chương trình làm việc của kỳ họp được gửi đến đại biểu Quốc hội cùng với quyết định triệu tập kỳ họp.
Kỳ họp thứ nhất của mỗi khoá Quốc hội do Uỷ ban thường vụ Quốc hội khoá trước triệu tập, chậm nhất là sáu mươi ngày, kể từ ngày bầu cử đại biểu Quốc hội.
Kỳ họp thứ nhất của mỗi khoá Quốc hội do Chủ tịch Quốc hội khoá trước khai mạc và chủ toạ cho đến khi Quốc hội bầu Chủ tịch Quốc hội khoá mới.
Chương trình làm việc của kỳ họp Quốc hội do Quốc hội quyết định.
Đại biểu Quốc hội có quyền đề nghị sửa đổi, bổ sung chương trình kỳ họp đã được thông qua. Việc sửa đổi, bổ sung chương trình kỳ họp phải được quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành.
Quốc hội họp công khai.
Trong trường hợp cần thiết, theo đề nghị của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng chính phủ hoặc của một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội, Quốc hội quyết định họp kín.
Các vấn đề trong chương trình kỳ họp Quốc hội được thảo luận và quyết định tại các phiên họp toàn thể. Trong trường hợp cần thiết, Quốc hội quyết định thảo luận tại Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban, tại các tổ đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu quốc hội.
Thành viên chính phủ không phải là đại biểu Quốc hội được mời tham dự các phiên họp toàn thể của Quốc hội; được phát biểu ý kiến về vấn đề thuộc ngành, lĩnh vực mà thành viên đó phụ trách, theo yêu cầu của Quốc hội hoặc được Quốc hội đồng ý theo đề nghị của thành viên đó.
Đại diện cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang, cơ quan báo chí, công dân và khách quốc tế có thể được mời dự các phiên họp công khai của Quốc hội.
Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận, các đại biểu Quốc hội có quyền trình dự án luật ra trước Quốc hội.
Quyền trình dự án luật được thực hiện bằng việc trình dự án luật mới, dự án luật sửa đổi, bổ sung luật hiện hành.
Đại biểu Quốc hội thực hiện quyền kiến nghị về luật thông qua việc kiến nghị ban hành luật mới hoặc sửa đổi, bổ sung luật hiện hành.
Quốc hội quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của cả khoá quốc hội và chương trình hàng năm theo đề nghị của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Các dự án luật trước khi trình ra Quốc hội phải được Hội đồng dân tộc hoặc Uỷ ban hữu quan của Quốc hội thẩm tra, Uỷ ban thường vụ Quốc hội cho ý kiến và được gửi đến đại biểu Quốc hội chậm nhất là hai mươi ngày, trước ngày khai mạc kỳ họp.
Quốc hội xem xét dự án luật sau khi đã nghe thuyết trình của cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân trình dự án; báo cáo thẩm tra của Hội đồng hoặc Uỷ ban chủ trì thẩm tra và biểu quyết thông qua sau khi Quốc hội đã thảo luận. Căn cứ vào ý kiến thảo luận của đại biểu Quốc hội, chủ toạ phiên họp đề nghị các vấn đề cần biểu quyết và cách biểu quyết để Quốc hội quyết định. Quốc hội thông qua dự án luật bằng cách biểu quyết từng điều, từng chương, sau đó biểu quyết toàn bộ hoặc biểu quyết toàn bộ dự án một lần.
Quốc hội quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội dài hạn và hàng năm của đất nước; chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, dự toán ngân sách và phân bổ ngân sách Nhà nước.
Chính phủ trình Quốc hội dự án kế hoạch, dự toán ngân sách và phân bổ ngân sách của năm sau tại kỳ họp Quốc hội cuối năm trước.
Quốc hội phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước do Chính phủ trình chậm nhất là một năm, sau khi năm ngân sách kết thúc.
Các dự án phải được gửi đến đại biểu Quốc hội chậm nhất là mười ngày, trước ngày khai mạc kỳ họp.
Quốc hội xem xét các dự án sau khi nghe thuyết trình của Chính phủ, báo cáo thẩm tra của Hội đồng hoặc Uỷ ban hữu quan và biểu quyết thông qua sau khi Quốc hội đã thảo luận.
Quốc hội thông qua các dự án bằng cách biểu quyết từng vấn đề, sau đó biểu quyết toàn bộ, hoặc biểu quyết toàn bộ một lần.
Quốc hội xem xét, thảo luận báo cáo công tác của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao tại kỳ họp cuối năm. Tại kỳ họp giữa năm, các cơ quan này gửi báo cáo công tác đến các đại biểu Quốc hội; khi cần thiết, Quốc hội có thể xem xét, thảo luận.
Quốc hội có thể ra nghị quyết về công tác của các cơ quan đã báo cáo.
Tại kỳ họp cuối cùng của mỗi khoá Quốc hội, Quốc hội xem xét, thảo luận báo cáo công tác cả nhiệm kỳ của Quốc hội, Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Báo cáo công tác cả nhiệm kỳ của Quốc hội do Chủ tịch Quốc hội chuẩn bị căn cứ vào báo cáo của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của quốc hội và các Đoàn đại biểu Quốc hội.
Tại phiên họp đầu tiên của kỳ họp thứ nhất mỗi khoá Quốc hội, Quốc hội bầu Uỷ ban thẩm tra tư cách đại biểu Quốc hội gồm Chủ nhiệm, một Phó chủ nhiệm và các ủy viên trong số đại biểu Quốc hội do Chủ tịch Quốc hội khoá trước giới thiệu.
Căn cứ vào báo của Uỷ ban thẩm tra tư cách đại biểu, Quốc hội xác nhận tư cách đại biểu của các đại biểu Quốc hội đã được bầu hoặc tuyên bố những trường hợp cá biệt mà việc bầu cử đại biểu không có giá trị.
Uỷ ban thẩm tra tư cách đại biểu Quốc hội hết nhiệm vụ khi việc thẩm tra tư cách đại biểu đã hoàn thành.
Quốc hội bầu Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội và các Uỷ viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội, trong số các đại biểu Quốc hội theo danh sách đề cử chức vụ từng người do Uỷ ban thường vụ Quốc hội khoá trước giới thiệu.
Số Phó Chủ tịch Quốc hội và các Uỷ viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội do Quốc hội quyết định.
Quốc hội bầu Chủ tịch nước trong số các đại biểu Quốc hội do Uỷ ban thường vụ Quốc hội giới thiệu.
Theo đề nghị của Chủ tịch nước, Quốc hội bầu Phó Chủ tịch nước trong số các đại biểu Quốc hội; phê chuẩn việc thành lập Hội đồng quốc phòng và an ninh.
Quốc hội bầu Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các Uỷ viên Hội đồng dân tộc trong số các đại biểu Quốc hội, theo danh sách đề cử chức vụ từng người, do Chủ tịch Quốc hội giới thiệu.
Số Phó Chủ tịch, Uỷ viên Hội đồng dân tộc và số thành viên làm việc theo chế độ chuyên trách do Quốc hội quyết định.
Quốc hội bầu Chủ nhiệm, các Phó Chủ nhiệm và các Uỷ viên của mỗi Uỷ ban của Quốc hội trong số các đại biểu Quốc hội, theo danh sách đề cử chức vụ từng người do Chủ tịch Quốc hội giới thiệu.
Số Phó Chủ nhiệm, Uỷ viên của mỗi Uỷ ban và số thành viên làm việc theo chế độ chuyên trách do Quốc hội quyết định.
Quốc hội bầu Thủ tướng Chính phủ trong số các đại biểu Quốc hội do chủ tịch nước giới thiệu.
Quốc hội phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm các Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ theo danh sách đề cử chức vụ từng người.
Quốc hội bầu Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, trong số các đại biểu Quốc hội do Chủ tịch nước giới thiệu.
Quốc hội bầu Đoàn thư ký kỳ họp của mỗi khoá Quốc hội, gồm Trưởng đoàn thư ký và các thư ký trong số các đại biểu Quốc hội theo danh sách do Chủ tịch quốc hội giới thiệu.
Đoàn thư ký có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1- Làm biên bản mỗi phiên họp, biên bản kỳ họp, chuẩn bị thông cáo về phiên họp của Quốc hội; tổng hợp ý kiến của đại biểu Quốc hội tại kỳ họp Quốc hội;
2- Phối hợp với Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội và các cơ quan hữu quan để chỉnh lý các dự án luật, dự thảo nghị quyết trình Quốc hội;
3- Thực hiện những công tác khác do Chủ tịch Quốc hội giao. Chủ tịch Quốc hội khoá trước chỉ định Thư ký lâm thời các phiên họp của kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khoá mới cho đến khi Quốc hội bầu Đoàn thư ký.
Tại kỳ họp thứ nhất của mỗi khoá Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao báo cáo công tác từ kỳ họp cuối cùng của Quốc hội khoá trước đến kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khoá mới.
Luật, nghị quyết của Quốc hội phải được quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Trong trường hợp bãi nhiệm đại biểu quốc hội, rút ngắn hoặc kéo dài nhiệm kỳ của Quốc hội hoặc sửa đổi Hiến pháp, thì phải được ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành.
Luật, nghị quyết của Quốc hội phải được Chủ tịch Quốc hội ký chứng thực và Chủ tịch nước công bố chậm nhất là mười lăm ngày, kể từ ngày thông qua.
Tình trạng hiệu lực: Hết hiệu lực