Chương III Luật Tổ chức Quốc hội 1992: Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc Hội
Số hiệu: | 66-LCT/HĐNN8 | Loại văn bản: | Luật |
Nơi ban hành: | Quốc hội | Người ký: | Võ Chí Công |
Ngày ban hành: | 15/04/1992 | Ngày hiệu lực: | 18/04/1992 |
Ngày công báo: | 15/06/1992 | Số công báo: | Số 11 |
Lĩnh vực: | Bộ máy hành chính | Tình trạng: |
Hết hiệu lực
07/01/2002 |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội là những cơ quan của Quốc hội có nhiệm vụ thẩm tra dự án luật, kiến nghị về luật, dự án pháp lệnh và các dự án khác; thẩm tra những báo cáo được Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội giao; trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội ý kiến về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; thực hiện quyền giám sát, kiến nghị những vấn đề trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Hội đồng dân tộc có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1- Thẩm tra các dự án luật, kiến nghị về luật, dự án pháp lệnh và các dự án khác liên quan đến vấn đề dân tộc;
2- Giám sát việc thực hiện luật, pháp lênh, nghị quyết của Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội thuộc lĩnh vực dân tộc, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội miền núi, vùng có đồng bào dân tộc thiểu số và việc thực hiện ngân sách trong lĩnh vực này;
3- Kiến nghị với Quốc hội những vấn đề thuộc chính sách dân tộc, về phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi và vùng có đồng bào dân tộc thiểu số.
Quốc hội thành lập các Uỷ ban sau đây:
1- Uỷ ban pháp luật;
2- Uỷ ban kinh tế và ngân sách;
3- Uỷ ban quốc phòng và an ninh;
4- Uỷ ban văn hoá, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng;
5- Uỷ ban về các vấn đề xã hội;
6- Uỷ ban khoa học, công nghệ và môi trường;
7- Uỷ ban đối ngoại.
Khi xét thấy cần thiết, Quốc hội thành lập Uỷ ban lâm thời để nghiên cứu, thẩm tra một dự án hoặc điều tra về một vấn đề nhất định.
Uỷ ban pháp luật có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1- Thẩm tra dự án luật, kiến nghị về luật, dự án pháp lệnh về tổ chức bộ máy Nhà nước, về hình sự, dân sự, hành chính, chương trình xây dựng luật, pháp lệnh và các dự án khác do Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội giao; tham gia thẩm tra các dự án do Hội đồng dân tộc hoặc Uỷ ban khác của Quốc hội thẩm tra nhằm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật;
2- Thẩm tra đề án thành lập, bãi bỏ các bộ và cơ quan ngang bộ; nhập, chia, thành lập mới, điều chỉnh địa giới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
3- Giám sát việc thực hiện luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội thuộc các lĩnh vực tổ chức bộ máy Nhà nước, về hình sự, dân sự, hành chính; giám sát việc ban hành nghị quyết, nghị định của chính phủ, quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ; các văn bản của Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn việc áp dụng pháp luật trong hoạt động kiểm sát, xét xử; giám sát hoạt động của Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
4- Kiến nghị các biện pháp cần thiết nhằm hoàn chỉnh hệ thống pháp luật.
Uỷ ban kinh tế và ngân sách có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1- Thẩm tra dự án luật, kiến nghị về luật, dự án pháp lệnh và các dự án khác thuộc lĩnh vực quản lý kinh tế, hoạt động kinh doanh, ngân sách, tài chính và tiền tệ;
2- Thẩm tra dự án, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách Nhà nước và phân bổ ngân sách Nhà nước; các báo cáo của chính phủ về việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, ngân sách Nhà nước và quyết toán ngân sách Nhà nước;
3- Giám sát việc thực hiện luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội thuộc lĩnh vực quản lý kinh tế, hoạt động kinh doanh, ngân sách, tài chính và tiền tệ; giám sát hoạt động của Chính phủ trong việc thực hiện kế hoạch Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách Nhà nước;
4- Kiến nghị với Quốc hội các vấn đề về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, về quản lý kinh tế, ngân sách, tài chính và tiền tệ.
Uỷ ban quốc phòng và an ninh có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1- Thẩm tra các dự án luật, kiến nghị về luật, dự án pháp lệnh và các dự án khác thuộc lĩnh vực quốc phòng và an ninh;
2- Giám sát việc thực hiện luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội thuộc lĩnh vực quốc phòng, an ninh; giám sát việc thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và việc thực hiện ngân sách trong lĩnh vực này;
3- Kiến nghị với Quốc hội các vấn đề về chính sách quốc phòng, an ninh, những biện pháp cần thiết nhằm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh.
Uỷ ban văn hoá, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1- Thẩm tra dự án luật, kiến nghị về luật, dự án pháp lệnh và các dự án khác thuộc lĩnh vực văn hoá, giáo dục, thông tin, thể thao, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng;
2- Giám sát việc thực hiện luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội thuộc các lĩnh vực văn hoá, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng; giám sát việc thực hiện chính sách văn hoá - giáo dục trong các kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; chính sách đối với thanh niên, thiếu niên và nhi đồng và việc thực hiện ngân sách trong các lĩnh vực này;
3- Kiến nghị với Quốc hội về các vấn đề phát triển văn hoá - giáo dục của đất nước; chính sách đối với thanh niên, thiếu niên và nhi đồng.
Uỷ ban về các vấn đề xã hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1- Thẩm tra dự án luật, kiến nghị về luật, dự án pháp lệnh và các dự án khác thuộc lĩnh vực các vấn đề xã hội;
2- Giám sát việc thực hiện luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội thuộc lĩnh vực các vấn đề xã hội; giám sát việc thực hiện các chính sách xã hội trong các kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và việc thực hiện ngân sách trong lĩnh vực này;
3- Kiến nghị với quốc hội các biện pháp để giải quyết các vấn đề về xã hội.
Uỷ ban khoa học, công nghệ và môi trường có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1- Thẩm tra dự án luật, kiến nghị về luật, dự án pháp lệnh và các dự án khác thuộc lĩnh vực khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường sinh thái;
2- Giám sát việc thực hiện luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội thuộc lĩnh vực khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường sinh thái; giám sát việc thực hiện chính sách phát triển khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường sinh thái trong các kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và việc thực hiện ngân sách trong lĩnh vực này;
3- Kiến nghị với Quốc hội về chính sách đầu tư phát triển khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường sinh thái.
Uỷ ban đối ngoại có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1- Thẩm tra dự án luật, kiến nghị về luật, dự án pháp lệnh và các dự án khác thuộc lĩnh vực hoạt động đối ngoại của Nhà nước, công pháp và tư pháp quốc tế; báo cáo của Chính phủ về công tác đối ngoại trình Quốc hội;
2- Giám sát việc thực hiện luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội thuộc lĩnh vực đối ngoại; giám sát hoạt động của Chính phủ trong việc thực hiện chính sách đối ngoại của Nhà nước; hoạt động đối ngoại của các ngành và địa phương;
3- Thực hiện và giúp Quốc hội thực hiện quan hệ đối ngoại với Quốc hội các nước và Liên minh Quốc hội thế giới;
4- Kiến nghị với Quốc hội những vấn đề thuộc chính sách đối ngoại của Nhà nước, về quan hệ với Quốc hội các nước, với Liên minh Quốc hội thế giới và với các tổ chức quốc tế.
Chương trình hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội do hội đồng và Uỷ ban quyết định, căn cứ vào Hiến pháp, luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và theo sự chỉ đạo, điều hoà của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội có quyền yêu cầu các thành viên chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và những viên chức Nhà nước hữu quan cung cấp tài liệu hoặc đến trình bày những vấn đề mà Hội đồng hoặc Uỷ ban xem xét, thẩm tra. Người nhận được yêu cầu của Hội đồng hoặc Uỷ ban của Quốc hội phải đáp ứng yêu cầu đó.
Khi cần thiết, Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội cử các thành viên của mình đến cơ quan, tổ chức hữu quan để điều tra, xem xét về vấn đề mà Hội đồng hoặc Uỷ ban quan tâm. Cơ quan, tổ chức hữu quan có trách nhiệm tạo điều kiện để thành viên của Hội đồng hoặc Uỷ ban thực hiện nhiệm vụ.
Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội có quyền kiến nghị với Thủ tướng Chính phủ và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương về những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng, Uỷ ban. Người nhận được kiến nghị có trách nhiệm xem xét và trả lời trong thời hạn chậm nhất là mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được kiến nghị. Quá thời hạn này mà người nhận được kiến nghị không trả lời hoặc trong trường hợp Hội đồng, Uỷ ban không tán thành với nội dung trả lời, thì Hội đồng hoặc Uỷ ban có quyền kiến nghị với Chủ tịch Quốc hội yêu cầu trả lời tại phiên họp Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc tại kỳ họp Quốc hội gần nhất.
Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội thành lập các tiểu ban để nghiên cứu, chuẩn bị các vấn đề thuộc lĩnh vực hoạt động của Hội đồng, Uỷ ban. Trưởng tiểu ban phải là thành viên của Hội đồng hoặc Uỷ ban, các thành viên khác có thể không phải là thành viên của Hội đồng, Uỷ ban hoặc không phải là đại biểu Quốc hội.
Tình trạng hiệu lực: Hết hiệu lực