Chương 7 Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân 1983: Kết quả bầu cử
Số hiệu: | 13-LCT/HĐNN7 | Loại văn bản: | Luật |
Nơi ban hành: | Quốc hội | Người ký: | Trường Chinh |
Ngày ban hành: | 26/12/1983 | Ngày hiệu lực: | 02/01/1984 |
Ngày công báo: | 31/01/1984 | Số công báo: | số 2 |
Lĩnh vực: | Bộ máy hành chính | Tình trạng: | Hết hiệu lực |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
Việc kiểm phiếu phải được tiến hành tại phòng bỏ phiếu ngay sau khi cuộc bỏ phiếu kết thúc, Tổ bầu cử phải mời hai cử tri không phải là người được giới thiệu ra ứng cử có mặt tại đó chứng kiến việc kiểm phiếu.
Người được giới thiệu ra ứng cử và các phóng viên báo chí, điện ảnh, nhiếp ảnh, đài truyền hình, đài phát thành được xem kiểm phiếu.
Những phiếu sau đây là không hợp lệ:
1- Không phải là phiếu theo mẫu quy định do Tổ bầu cử phát;
2- Không có dấu của Tổ bầu cử;
3- Ghi tên người được giới thiệu ra ứng cử quá số đại biểu được bầu.
Phiếu trắng là phiếu không ghi tên một người nào trong danh sách những người được giới thiệu ra ứng cử hoặc xoá hết tên những người được giới thiệu ra ứng cử đã ghi trên phiếu bầu.
Khi nghi ngờ phiếu nào là phiếu không hợp lệ hoặc là phiếu trắng thì Tổ trưởng Tổ bầu cử phải đưa ra toàn tổ giải quyết.
Những phiếu có ghi tên những người được giới thiệu ra ứng cử cùng với tên những người không được giới thiệu ra ứng cử vẫn được coi là phiếu hợp lệ, song không kể tên những người không được giới thiệu ra ứng cử.
Tổ bầu cử không được xoá hoặc chữa các tên ghi trên phiếu bầu.
Những khiếu nại tại chỗ về việc kiểm phiếu do Tổ bầu cử tiếp nhận, giải quyết và ghi cách giải quyết vào biên bản. Nếu Tổ bầu cử không giải quyết được, thì phải đưa lên Ban bầu cử để giải quyết.
Kiểm phiếu xong, Tổ bầu cử phải lập biên bản ghi rõ:
- Tổng số cử tri của khu vực bỏ phiếu;
- Số cử tri đã đi bầu;
- Số phiếu hợp lệ;
- Số phiếu không hợp lệ;
- Số phiếu trắng;
- Số phiếu bầu cho mỗi người được giới thiệu ra ứng cử;
- Những khiếu nại đã nhận được và cách giải quyết, những khiếu
nại chưa giải quyết được.
Biên bản làm thành hai bản có chữ ký của Tổ trưởng, Thư ký và hai cử tri được mời chứng kiến việc kiểm phiếu. Một bản gửi Ban bầu cử, một bản gửi Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn.
Sau khi nhận được biên bản của các Tổ bầu cử, Ban bầu cử kiểm tra các biên bản đó và lập biên bản xác định kết quả bầu cử ở đơn vị bầu cử của mình.
Biên bản phải ghi rõ:
- Số đại biểu Hội đồng nhân dân ấn định cho đơn vị bầu cử;
- Số người được giới thiệu ra ứng cử;
- Tổng số cử tri trong đơn vị bầu cử;
- Số cử tri đã đi bầu, số cử tri không đi bầu, tỷ lệ số cử tri
đã đi bầu so với tổng số cử tri;
- Số phiếu hợp lệ;
- Số phiếu không hợp lệ;
- Số phiếu trắng;
- Số phiếu bầu cho mỗi người được giới thiệu ra ứng cử;
- Danh sách những người trúng cử;
- Những khiếu nại do Tổ bầu cử đã giải quyết;
- Những khiếu nại do Ban bầu cử đã giải quyết, những khiếu nại
chuyển lên Hội đồng bầu cử giải quyết.
Biên bản làm thành hai bản, có chữ ký của Trưởng ban, Phó trưởng ban và thư ký, một bản gửi Hội đồng bầu cử, một bản gửi Uỷ ban nhân dân cùng cấp với Ban bầu cử.
Những người được giới thiệu ra ứng cử được quá nửa số phiếu hợp lệ và được nhiều phiếu hơn thì trúng cử. Nếu có nhiều người được số phiếu ngang nhau thì người nhiều tuổi hơn được trúng cử.
Trong cuộc bầu cử đầu tiên, nếu số người trúng cử chưa đủ số đại biểu đã quy định cho đơn vị bầu cử, thì Ban bầu cử phải ghi rõ điểm đó vào biên bản và báo cáo ngay cho Hội đồng bầu cử để quyết định ngày bầu thêm số đại biểu còn thiếu, chậm nhất là mười lăm ngày sau cuộc bầu cử đầu tiên. Trong cuộc bầu thêm, cử tri chỉ chọn bầu trong danh sách những người được giới thiệu ra ứng cử nhưng không trúng cử kỳ đầu. Nếu bầu thêm mà vẫn chưa đủ số đại biểu, thì không tổ chức bầu thêm lần thứ hai.
ở đơn vị bầu cử nào, nếu số cử tri đi bầu chưa được quá nửa số cử tri ghi trong danh sách, thì Ban bầu cử phải ghi rõ điểm đó vào biên bản và báo cáo ngay cho Hội đồng bầu cử để quyết định ngày bầu lại, chậm nhất là mười lăm ngày sau cuộc bầu cử đầu tiên. Trong cuộc bầu cử lại, cử tri chỉ chọn bầu trong danh sách những người đã được giới thiệu ra ứng cử kỳ đầu.
Việc bầu thêm hoặc bầu lại vẫn căn cứ vào danh sách cử tri đã lập trong cuộc bầu cử đầu tiên và theo những điều đã quy định trong Luật này.
Sau khi nhận được biên bản của các Ban bầu cử và giải quyết những khiếu nại nếu có, Hội đồng bầu cử làm biên bản tổng kết cuộc bầu cử.
Hội đồng bầu cử tuyên bố kết quả cuộc bầu cử chậm nhất là:
- Ba ngày sau ngày bầu cử đối với Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn, thị xã;
- Năm ngày sau ngày bầu cử đối với Hội đồng nhân dân huyện miền xuôi, quận và thành phố thuộc tỉnh;
- Bảy ngày sau ngày bầu cử đối với Hội đồng nhân dân huyện miền núi, hải đảo, thành phố trực thuộc trung ương, tỉnh miền xuôi và đặc khu Vũng tàu - Côn đảo;
- Chín ngày sau ngày bầu cử đối với Hội đồng nhân dân tỉnh miền núi.
Biên bản tổng kết phải ghi rõ:
- Tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân;
- Tổng số người được giới thiệu ra ứng cử;
- Tổng số cử tri;
- Số cử tri đã đi bầu, số cử tri không đi bầu, tỷ lệ số cử tri
đã đi bầu so với tổng số cử tri;
- Số phiếu hợp lệ;
- Số phiếu không hợp lệ;
- Số phiếu trắng;
- Danh sách những người trúng cử và số phiếu bầu cho mỗi người;
- Các việc quan trọng đã xẩy ra và cách giải quyết.
Biên bản làm thành hai bản, có chữ ký của Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và Thư ký Hội đồng bầu cử; một bản gửi Uỷ ban nhân dân cấp bầu Hội đồng nhân dân, một bản gửi Uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp. Nếu là cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương đương thì biên bản làm thành ba bản, một bản gửi Uỷ ban nhân dân, một bản gửi Hội đồng bộ trưởng và một bản gửi Hội đồng Nhà nước.
Hội đồng Nhà nước quyết định huỷ bỏ cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân nào có những vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Hội đồng bộ trưởng ấn định ngày bầu cử lại Hội đồng nhân dân ấy.
Tình trạng hiệu lực: Hết hiệu lực