Chương 4: Luật bảo vệ và phát triển rừng 1991 :Phát triển rừng , sử dụng rừng và đất trồng rừng
Số hiệu: | 58-LCT/HĐNN8 | Loại văn bản: | Luật |
Nơi ban hành: | Quốc hội | Người ký: | Võ Chí Công |
Ngày ban hành: | 12/08/1991 | Ngày hiệu lực: | 19/08/1991 |
Ngày công báo: | 15/10/1991 | Số công báo: | Số 19 |
Lĩnh vực: | Tài nguyên - Môi trường | Tình trạng: |
Hết hiệu lực
01/04/2005 |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
Rừng phòng hộ được sử dụng chủ yếu để bảo vệ nguồn nước, bảo vệ đất, chống xói mòn, hạn chế thiên tai, điều hoà khí hậu, góp phần bảo vệ môi trường sinh thái.
Rừng phòng hộ được phân thành các loại: rừng phòng hộ đầu nguồn; rừng phòng hộ chắn gió, chắn cát bay; rừng phòng hộ chắn sóng, lấn biển; rừng phòng hộ bảo vệ môi trường sinh thái.
Nhà nước có chính sách điều hoà, huy động, thu hút các nguồn vốn của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước để đầu tư xây dựng rừng phòng hộ ổn định, lâu dài.
Ở mỗi khu rừng phòng hộ phải thành lập Ban quản lý.
Ban quản lý khu rừng phòng hộ phải lập và trình cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét duyệt phương án quản lý, sử dụng rừng, đất trồng rừng và thực hiện phương án đã được duyệt.
Việc quản lý, sử dụng rừng phòng hộ phải tuân theo quy định sau đây:
1- Có kế hoạch, biện pháp bảo vệ, nuôi dưỡng rừng hiện có, gây trồng rừng trên đất trống, đồi núi trọc, kinh doanh đặc sản rừng, động vật rừng và kết hợp sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản;
Rừng phòng hộ đầu nguồn phải xây dựng rừng thành rừng tập trung, liên vùng, rừng nhiều tầng;
Rừng phòng hộ chắn gió, chắn cát bay, chắn sóng, lấn biển, bảo vệ môi trường sinh thái phải được xây dựng thành các đai rừng phù hợp với điều kiện tự nhiên ở từng vùng;
2- Trong quá trình bảo vệ, nuôi dưỡng, gây trồng rừng phòng hộ, việc tận thu lâm sản và sản xuất kinh doanh kết hợp không được gây hại đến tác dụng phòng hộ của rừng; mọi trường hợp khai thác lâm sản, phải theo đúng phương án quản lý, sử dụng rừng phòng hộ đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét duyệt và chấp hành quy phạm, quy trình kỹ thuật lâm nghiệp;
3- Tổ chức, cá nhân được giao hoặc nhận khoán bảo vệ, gây trồng và chăm sóc rừng phòng hộ được hưởng sản phẩm do mình kết hợp làm ra.
Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khi xét duyệt phương án quản lý, sử dụng các khu rừng phòng hộ mà có liên quan đến lĩnh vực quản lý của ngành khác, thì phải tham khảo ý kiến của cơ quan quản lý cùng cấp của ngành đó.
Rừng đặc dụng được sử dụng chủ yếu để bảo tồn thiên nhiên, mẫu chuẩn hệ sinh thái rừng của quốc gia, nguồn gien thực vật, động vật rừng; nghiên cứu khoa học; bảo vệ di tích lịch sử, văn hoá và danh lam thắng cảnh; phục vụ nghỉ ngơi, du lịch.
Rừng đặc dụng được phân thành các loại: vườn quốc gia; khu rừng bảo tồn thiên nhiên; khu rừng văn hoá - xã hội, nghiên cứu thí nghiệm.
Ranh giới của khu rừng đặc dụng phải được xác định bằng hệ thống biển báo, mốc kiên cố.
Nhà nước có chính sách điều hoà, huy động, thu hút các nguồn vốn của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước để đầu tư xây dựng, bảo tồn lâu dài các khu rừng đặc dụng.
Ở mỗi khu rừng đặc dụng phải thành lập Ban quản lý.
Ban quản lý khu rừng đặc dụng phải lập và trình cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét duyệt phương án quản lý, sử dụng và thực hiện phương án đã được duyệt.
Việc quản lý, sử dụng rừng đặc dụng phải tuân theo quy chế rừng đặc dụng. Ban quản lý khu rừng đặc dụng được tiến hành một số hoạt động dịch vụ về nghiên cứu khoa học, văn hoá, xã hội và du lịch theo quy định của pháp luật.
Tổ chức, cá nhân tiến hành các hoạt động ở khu rừng đặc dụng phải được phép của Ban quản lý khu rừng và phải tuân theo nội quy bảo vệ khu rừng đó.
Các khu vực bảo tồn nguyên vẹn thuộc các vườn quốc gia, khu rừng bảo tồn thiên nhiên phải được quản lý, bảo vệ nghiêm ngặt; nghiêm cấm mọi hành vi gây tác hại đến rừng.
Việc tiến hành các hoạt động tham quan, nghiên cứu khoa học trong khu vực bảo tồn nguyên vẹn phải được phép của Ban quản lý khu rừng và phải tuân theo quy định sau đây:
1- Không được làm thay đổi cảnh quan tự nhiên của khu rừng;
2- Không được mang hoá chất độc hại, chất nổ, chất dễ cháy vào rừng và không được đốt lửa ở trong rừng;
3- Không được gây ô nhiễm môi trường sinh thái;
4- Khi cần lấy mẫu thực vật rừng, động vật rừng, khoáng vật ở trong rừng để phục vụ nghiên cứu khoa học, phải được cơ quan quản lý Nhà nước về lâm nghiệp có thẩm quyền cho phép.
Rừng sản xuất được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh gỗ, các lâm nghiệp khác, đặc sản rừng, động vật rừng và kết hợp phòng hộ, bảo vệ môi trường sinh thái.
Rừng sản xuất được Nhà nước giao cho tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế có đủ điều kiện quy định tại điểm 3, Điều 10 của Luật này để sản xuất, kinh doanh theo hướng thâm canh, nông - lâm - ngư nghiệp kết hợp.
Nhà nước khuyến khích và giúp đỡ tổ chức, cá nhân nhận đất gây trồng rừng ở những vùng đất trống, đồi núi trọc; có chính sách hỗ trợ nhân dân ở nơi có nhiều khó khăn trong việc gây trồng rừng, tổ chức sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm, xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng.
Bộ Lâm nghiệp và cơ quan quản lý Nhà nước về lâm nghiệp ở địa phương có nhiệm vụ quy hoạch và xây dựng hệ thống rừng giống quốc gia và khu vực để chọn lọc, lai tạo, nhân giống và nhập nội các loại giống cần thiết, bảo đảm cung cấp giống tốt cho cả nước.
Chủ rừng được Nhà nước giao rừng tự nhiên, khi tiến hành sản xuất, kinh doanh, phải tuân theo quy định sau đây:
1- Lập và trình cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét duyệt phương án sản xuất, kinh doanh và chịu trách nhiệm trước Nhà nước về vốn rừng được giao; tổ chức bảo vệ, nuôi dưỡng, khai thác hợp lý, duy trì và phát triển vốn rừng đó;
2- Những diện tích rừng nghèo kiệt, phải khoanh đóng bảo vệ, nuôi dưỡng làm giầu rừng hoặc trồng lại rừng;
3- Khai thác rừng phải có thiết kế khai thác được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét duyệt và chấp hành quy phạm, quy trình kỹ thuật lâm nghiệp; sau khai thác phải đóng cửa rừng và tổ chức bảo vệ, nuôi dưỡng cho đến kỳ khai thác sau.
Chủ rừng được Nhà nước giao đất trồng rừng, khi tiến hành sản xuất, kinh doanh, phải tuân theo quy định sau đây:
1- Có kế hoạch gây trồng, chăm sóc, bảo vệ phù hợp với quy hoạch lâm nghiệp từng vùng;
2- Khai thác rừng đủ tuổi khai thác;
3- Sau khai thác phải trồng lại rừng vào thời vụ trồng ngay sau đó hoặc thực hiện biện pháp tái sinh tự nhiên ngay trong quá trình khai thác.
Việc khai thác các loại đặc sản rừng ở rừng sản xuất cũng như ở các loại rừng khác phải tuân theo quy định của Nhà nước về quản lý, bảo vệ, phát triển và sử dụng đặc sản rừng.
Tình trạng hiệu lực: Hết hiệu lực