Danh sách câu hỏi

Có 3,464 câu hỏi trên 87 trang

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Plasma và ứng dụng trong y học

(1) Plasma là gì? Plasma là trạng thái thứ 4 của  vật chất (ngoài 3 thể thường gặp  là rắn, lỏng và khí), trong đó các  chất bị ion hóa mạnh. Ví dụ với  nước, một viên nước đá (thể rắn)  đun nóng đến nhiệt độ nhất định  thì  thành  thể  lỏng  (nước),  tăng  nhiệt lên nữa nước sẽ bốc thành  hơi  (thể  khí).  Nếu  tiếp  tục  tăng  nhiệt độ lên cao nữa, các electron  mang điện âm bắt đầu bứt khỏi nguyên tử và chuyển động tự do,  nguyên tử trở thành các ion mang  điện dương. Nhiệt độ càng cao thì  số electron bứt ra khỏi nguyên tử  chất  khí  càng  nhiều,  hiện  tượng  này  gọi  là  sự  ion  hóa  của  chất  khí.  Các  nhà  khoa  học  gọi  thể  khí ion hóa là “trạng thái plasma”.  Plasma  không  phổ  biến  trên  trái  đất,  tuy  nhiên  trên  99%  vật  chất    thấy được trong  vũ trụ  tồn tại  dưới dạng plasma, vì thế trong 4  trạng thái vật chất, plasma được  xem như trạng thái đầu tiên trong  vũ trụ.

(2) Theo tính chất nhiệt động lực  học,  công  nghệ  plasma  hiện  có  plasma  nóng  (thermal  plasma)  được  tạo  thành  ở  nhiệt  độ,  áp  suất  và  năng  lượng  cao;  và  plasma lạnh (cold plasma ) được  tạo thành ở áp suất thường hoặc  chân  khôn g,  cần  ít  năng  lượng  hơn. Trong khoảng hơn 10 năm  trở lại đây, các nước tiên tiến trên  thế giới đã tập trung nhiều nguồn  lực cho việc nghiên cứu ứng dụng  plasma  lạnh  trong  các  lĩnh  vực  như  y  sinh,  hóa  học  hay  nông  nghiệp... Đối với lĩnh vực y học,  plasma lạnh đang chứng tỏ được  tiềm năng rất lớn, được đánh giá  là tác nhân quan trọng tạo ra cuộc  cách mạng mới trong y sinh của  thế kỷ XXI.

(3) Từ  lâu,  tính  năng  diệt  khuẩn  của  plasma  nóng  hay  plasma  lạnh  đã  được  biết  và  sử  dụng  trong vệ sinh dịch tễ và y tế. Tuy  vậy, plasma nóng có thể làm hại  đến  mô  xung  quanh  nên  khá  hạn  chế  dùng  trên  người.  Năm  2005,  plasma  lạnh  áp  suất  khí  quyển  (CAP)  lần  đầu  tiên  được  sử dụng để điều trị lâm sàng tại  CHLB Đức, mở ra kỷ nguyên của  “y học plasma”. Để phát triển các  thiết bị plasma lạnh áp suất khí  quyển cần sự cộng tác liên ngành  của các nhà vật lý, hóa học, sinh  học... và tất nhiên là cả các bác  sỹ lâm sàng.   

(4) Khả năng làm bất hoạt các vi  sinh  vật  trên  bề  mặt  mà  không  làm ảnh hưởng hay ảnh hưởng rất  ít  đến  các  cấu  trúc  xung  quanh  của  plasma  đã  thu  hút  được  sự  quan  tâm  của  các  bác  sỹ.  Trên  thực tế, có rất nhiều bệnh tật gây  ra do nhiễm khuẩn trên da lành  cũng như vết thương. Vì vậy, điều  trị các vết thương chậm liền ở da  trở  thành  một  trong  những  đối  tượng  nghiên  cứu  đầu  tiên  của  plasma y tế. Thiết bị plasma lạnh  đầu  tiên  vượt  qua  thử  nghiệm  lâm sàng pha I và được cho phép  tác động trực tiếp lên con người  là máy MicroPlaster alpha, được  phát  triển  bởi  Viện  Max  Planck  (CHLB  Đức)  và  Công  ty  Công  nghệ Plasma Adtec (Nhật Bản).  

(5) Các thử nghiệm lâm sàng đã  chứng minh, plasma lạnh rất hiệu  quả  khi  điều  trị  các  vết  thương  chậm  liền,  nhiễm  khuẩn.  Sở  dĩ  như vậy vì plasma đã tiêu diệt các  vi sinh vật cản trở quá trình liền  vết thương như: vi khuẩn, virus và  nấm. Khi tiếp xúc với vi sinh vật, plasma có thể phá vỡ màng tế bào  của chúng nhờ sự bắn phá của ion  và electron cũng như sự ăn mòn  của các gốc tự do, hoạt chất. Các  gốc tự do và tia cực tím còn có  thể xuyên qua màng tế bào của  vi sinh vật để làm mất hoạt tính  của protein, khi ến cho vi sinh vật  không thể hoạt động. Không chỉ  tiêu diệt vi khuẩn đơn lẻ, plasma  còn phá hủy màng sinh học do vi  khuẩn  tạo  ra  (màng  giúp  cho  vi  khuẩn chống chịu tốt hơn với điều  kiện bất lợi, khiến cho vết thương  khó lành).  Không chỉ tiêu diệt vi  khuẩn  thường,  plasma  còn  tiêu  diệt được vi khuẩn kháng kháng  sinh  do  plasma  là  tác  nhân  vật  lý, và đa tác nhân nên vi khuẩn  không thể biến đổi để hình thành  khả năng kháng plasma (điều này  rất hữu ích vì như chúng ta biết tốc  độ vi khuẩn phát triển thành kháng  thuốc nhanh hơn rất nhiều so với  tốc độ xuất hiện của thuốc kháng  sinh mới). Bên cạnh đó, plasma  giúp tạo nên một lớp màng protein  trên bề mặt vết thương, chống vi  khuẩn tái xâm nhập. Plasma cũng  giúp cơ thể giải phóng các yếu tố  hỗ trợ liền vết thương nhanh hơn  (như  tăng  lưu  thông  máu,  tăng  sinh tân mạch, tiêu diệt nội độc  tố,  giảm  viêm,  giảm  đau,  tăng  sinh  tế  bào,  tăng  sinh  collagen,  kích thích tái tạo biểu bì). Do đó  có thể dùng plasma điều trị các  vết thương cấp tính như bỏng, vết  mổ, các vết thương mạn tính (loét  do đái tháo đường, loét do tì đè,  loét do nằm lâu...), ứng dụng trong  da liễu (điều trị nấm, chàm...) và  thẩm  mỹ  (chữa  mụn  trứng  cá,  vết thương sau phẫu thuật thẩm  mỹ)...  Các  nghiên  cứu  mới  đây  còn cho thấy plasma có rất nhiều  triển  vọng  trong  chữa  ung  thư,  đặc biệt là ung thư máu.

(6) Hiện  nay,  công  nghệ  plasma  lạnh ứng dụng trong điều trị vết  thương hở đã được áp dụng tại một  số quốc gia:  Đức, Israel, Nga.  Ở  Việt Nam, Công ty Cổ phần Công  nghệ Plasma Việt Nam là đơn vị  đầu tiên nghiên cứu sản xuất máy  phát tia plasma lạnh (PlasmaMed)  ứng dụng cho điều trị vết thương  dựa trên sáng chế “Máy phát tia  plasma  lạnh  ứng  dụng  trong  y  sinh”  số  14627  do  Cục  Sở  hữu  trí tuệ cấp ngày 29/9/2015. Máy  PlasmaMed do Công ty sản xuất  được  nghiên  cứu  và  phát  triển  từ các đề tài KH&CN cấp cơ sở:  “Thiết kế, chế tạo nguồn plasma  jet  phục  vụ  nghiên  cứu  plasma  y  sinh”;  “Nghiên  cứu  khả  năng  điều trị một số bệnh da liễu bằng  plasma lạnh”... do các nhà khoa  học thuộc Viện Vật lý, Viện Hàn  lâm  Khoa  học  và  Công  nghệ  (KH&CN)  Việt  Nam  thực  hiện.  Sản phẩm cũng đã nhận được sự  hỗ trợ của Chương trình Đối tác  đổi mới sáng tạo Việt Nam - Phần  Lan IPP giai đoạn 2 (IPP2) và Dự  án  Đẩy  mạnh  đổi  mới  sáng  tạo  thông  qua  nghiên  cứu,  KH&CN  (FIRST) do Bộ KH&CN quản lý.  

(7) Hiện nay, máy PlasmaMed đã  được  áp  dụng  điều  trị  tại  nhiều  bệnh viện tuyến trung ương như:  Việt  Đức,  Phụ  sản  trung  ương,  Nhi trung ương, Lão khoa, Nội tiết  trung ương, Chợ Rẫy... và nhiều  bệnh  viện  tuyến  dưới,  với  trên  10.000  ca  điều  trị.  Kết  quả  cho  thấy đây là một hướng điều trị vết  thương  cho  hiệu  quả  cao,  giảm  đáng kể chi phí điều trị.

(8) Trên thế giới hiện có ngày càng  nhiều  nghiên  cứu  về  plasma,  cũng như phát triển plasma lạnh.  Ngoài lĩnh vực y học, plasma lạnh  còn có khả năng ứng dụng trong  nhiều  lĩnh  vực  công  nghệ  khác  như chế tạo linh kiện điện tử, xử  lý bề mặt sơn phủ, bảo quản thực  phẩm...  Đây  là  cơ  hội  cho  Việt  Nam tiếp cận với xu hướng phát  triển của thế giới. Đặc biệt là xu  hướng nghiên cứu y học plasma,  một hướng khoa học liên ngành  (vật lý - sinh học - y học) có tiềm  năng  ứng  dụng  rất  lớn,  nhưng  không  đòi  hỏi  trang  thiết  bị  đắt  tiền, sẽ mở ra một cánh cửa để  ngành vật lý plasma ở Việt Nam  có  thể  song  hành  cùng  vật  lý  plasma thế giới.  

(Nguồn: “Plasma và ứng dụng trong y học”, Đỗ Hoàng Tùng, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)

Trong y học, loại plasma nào được lưu ý sử dụng nhiều?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Plasma và ứng dụng trong y học

(1) Plasma là gì? Plasma là trạng thái thứ 4 của  vật chất (ngoài 3 thể thường gặp  là rắn, lỏng và khí), trong đó các  chất bị ion hóa mạnh. Ví dụ với  nước, một viên nước đá (thể rắn)  đun nóng đến nhiệt độ nhất định  thì  thành  thể  lỏng  (nước),  tăng  nhiệt lên nữa nước sẽ bốc thành  hơi  (thể  khí).  Nếu  tiếp  tục  tăng  nhiệt độ lên cao nữa, các electron  mang điện âm bắt đầu bứt khỏi nguyên tử và chuyển động tự do,  nguyên tử trở thành các ion mang  điện dương. Nhiệt độ càng cao thì  số electron bứt ra khỏi nguyên tử  chất  khí  càng  nhiều,  hiện  tượng  này  gọi  là  sự  ion  hóa  của  chất  khí.  Các  nhà  khoa  học  gọi  thể  khí ion hóa là “trạng thái plasma”.  Plasma  không  phổ  biến  trên  trái  đất,  tuy  nhiên  trên  99%  vật  chất    thấy được trong  vũ trụ  tồn tại  dưới dạng plasma, vì thế trong 4  trạng thái vật chất, plasma được  xem như trạng thái đầu tiên trong  vũ trụ.

(2) Theo tính chất nhiệt động lực  học,  công  nghệ  plasma  hiện  có  plasma  nóng  (thermal  plasma)  được  tạo  thành  ở  nhiệt  độ,  áp  suất  và  năng  lượng  cao;  và  plasma lạnh (cold plasma ) được  tạo thành ở áp suất thường hoặc  chân  khôn g,  cần  ít  năng  lượng  hơn. Trong khoảng hơn 10 năm  trở lại đây, các nước tiên tiến trên  thế giới đã tập trung nhiều nguồn  lực cho việc nghiên cứu ứng dụng  plasma  lạnh  trong  các  lĩnh  vực  như  y  sinh,  hóa  học  hay  nông  nghiệp... Đối với lĩnh vực y học,  plasma lạnh đang chứng tỏ được  tiềm năng rất lớn, được đánh giá  là tác nhân quan trọng tạo ra cuộc  cách mạng mới trong y sinh của  thế kỷ XXI.

(3) Từ  lâu,  tính  năng  diệt  khuẩn  của  plasma  nóng  hay  plasma  lạnh  đã  được  biết  và  sử  dụng  trong vệ sinh dịch tễ và y tế. Tuy  vậy, plasma nóng có thể làm hại  đến  mô  xung  quanh  nên  khá  hạn  chế  dùng  trên  người.  Năm  2005,  plasma  lạnh  áp  suất  khí  quyển  (CAP)  lần  đầu  tiên  được  sử dụng để điều trị lâm sàng tại  CHLB Đức, mở ra kỷ nguyên của  “y học plasma”. Để phát triển các  thiết bị plasma lạnh áp suất khí  quyển cần sự cộng tác liên ngành  của các nhà vật lý, hóa học, sinh  học... và tất nhiên là cả các bác  sỹ lâm sàng.   

(4) Khả năng làm bất hoạt các vi  sinh  vật  trên  bề  mặt  mà  không  làm ảnh hưởng hay ảnh hưởng rất  ít  đến  các  cấu  trúc  xung  quanh  của  plasma  đã  thu  hút  được  sự  quan  tâm  của  các  bác  sỹ.  Trên  thực tế, có rất nhiều bệnh tật gây  ra do nhiễm khuẩn trên da lành  cũng như vết thương. Vì vậy, điều  trị các vết thương chậm liền ở da  trở  thành  một  trong  những  đối  tượng  nghiên  cứu  đầu  tiên  của  plasma y tế. Thiết bị plasma lạnh  đầu  tiên  vượt  qua  thử  nghiệm  lâm sàng pha I và được cho phép  tác động trực tiếp lên con người  là máy MicroPlaster alpha, được  phát  triển  bởi  Viện  Max  Planck  (CHLB  Đức)  và  Công  ty  Công  nghệ Plasma Adtec (Nhật Bản).  

(5) Các thử nghiệm lâm sàng đã  chứng minh, plasma lạnh rất hiệu  quả  khi  điều  trị  các  vết  thương  chậm  liền,  nhiễm  khuẩn.  Sở  dĩ  như vậy vì plasma đã tiêu diệt các  vi sinh vật cản trở quá trình liền  vết thương như: vi khuẩn, virus và  nấm. Khi tiếp xúc với vi sinh vật, plasma có thể phá vỡ màng tế bào  của chúng nhờ sự bắn phá của ion  và electron cũng như sự ăn mòn  của các gốc tự do, hoạt chất. Các  gốc tự do và tia cực tím còn có  thể xuyên qua màng tế bào của  vi sinh vật để làm mất hoạt tính  của protein, khi ến cho vi sinh vật  không thể hoạt động. Không chỉ  tiêu diệt vi khuẩn đơn lẻ, plasma  còn phá hủy màng sinh học do vi  khuẩn  tạo  ra  (màng  giúp  cho  vi  khuẩn chống chịu tốt hơn với điều  kiện bất lợi, khiến cho vết thương  khó lành).  Không chỉ tiêu diệt vi  khuẩn  thường,  plasma  còn  tiêu  diệt được vi khuẩn kháng kháng  sinh  do  plasma  là  tác  nhân  vật  lý, và đa tác nhân nên vi khuẩn  không thể biến đổi để hình thành  khả năng kháng plasma (điều này  rất hữu ích vì như chúng ta biết tốc  độ vi khuẩn phát triển thành kháng  thuốc nhanh hơn rất nhiều so với  tốc độ xuất hiện của thuốc kháng  sinh mới). Bên cạnh đó, plasma  giúp tạo nên một lớp màng protein  trên bề mặt vết thương, chống vi  khuẩn tái xâm nhập. Plasma cũng  giúp cơ thể giải phóng các yếu tố  hỗ trợ liền vết thương nhanh hơn  (như  tăng  lưu  thông  máu,  tăng  sinh tân mạch, tiêu diệt nội độc  tố,  giảm  viêm,  giảm  đau,  tăng  sinh  tế  bào,  tăng  sinh  collagen,  kích thích tái tạo biểu bì). Do đó  có thể dùng plasma điều trị các  vết thương cấp tính như bỏng, vết  mổ, các vết thương mạn tính (loét  do đái tháo đường, loét do tì đè,  loét do nằm lâu...), ứng dụng trong  da liễu (điều trị nấm, chàm...) và  thẩm  mỹ  (chữa  mụn  trứng  cá,  vết thương sau phẫu thuật thẩm  mỹ)...  Các  nghiên  cứu  mới  đây  còn cho thấy plasma có rất nhiều  triển  vọng  trong  chữa  ung  thư,  đặc biệt là ung thư máu.

(6) Hiện  nay,  công  nghệ  plasma  lạnh ứng dụng trong điều trị vết  thương hở đã được áp dụng tại một  số quốc gia:  Đức, Israel, Nga.  Ở  Việt Nam, Công ty Cổ phần Công  nghệ Plasma Việt Nam là đơn vị  đầu tiên nghiên cứu sản xuất máy  phát tia plasma lạnh (PlasmaMed)  ứng dụng cho điều trị vết thương  dựa trên sáng chế “Máy phát tia  plasma  lạnh  ứng  dụng  trong  y  sinh”  số  14627  do  Cục  Sở  hữu  trí tuệ cấp ngày 29/9/2015. Máy  PlasmaMed do Công ty sản xuất  được  nghiên  cứu  và  phát  triển  từ các đề tài KH&CN cấp cơ sở:  “Thiết kế, chế tạo nguồn plasma  jet  phục  vụ  nghiên  cứu  plasma  y  sinh”;  “Nghiên  cứu  khả  năng  điều trị một số bệnh da liễu bằng  plasma lạnh”... do các nhà khoa  học thuộc Viện Vật lý, Viện Hàn  lâm  Khoa  học  và  Công  nghệ  (KH&CN)  Việt  Nam  thực  hiện.  Sản phẩm cũng đã nhận được sự  hỗ trợ của Chương trình Đối tác  đổi mới sáng tạo Việt Nam - Phần  Lan IPP giai đoạn 2 (IPP2) và Dự  án  Đẩy  mạnh  đổi  mới  sáng  tạo  thông  qua  nghiên  cứu,  KH&CN  (FIRST) do Bộ KH&CN quản lý.  

(7) Hiện nay, máy PlasmaMed đã  được  áp  dụng  điều  trị  tại  nhiều  bệnh viện tuyến trung ương như:  Việt  Đức,  Phụ  sản  trung  ương,  Nhi trung ương, Lão khoa, Nội tiết  trung ương, Chợ Rẫy... và nhiều  bệnh  viện  tuyến  dưới,  với  trên  10.000  ca  điều  trị.  Kết  quả  cho  thấy đây là một hướng điều trị vết  thương  cho  hiệu  quả  cao,  giảm  đáng kể chi phí điều trị.

(8) Trên thế giới hiện có ngày càng  nhiều  nghiên  cứu  về  plasma,  cũng như phát triển plasma lạnh.  Ngoài lĩnh vực y học, plasma lạnh  còn có khả năng ứng dụng trong  nhiều  lĩnh  vực  công  nghệ  khác  như chế tạo linh kiện điện tử, xử  lý bề mặt sơn phủ, bảo quản thực  phẩm...  Đây  là  cơ  hội  cho  Việt  Nam tiếp cận với xu hướng phát  triển của thế giới. Đặc biệt là xu  hướng nghiên cứu y học plasma,  một hướng khoa học liên ngành  (vật lý - sinh học - y học) có tiềm  năng  ứng  dụng  rất  lớn,  nhưng  không  đòi  hỏi  trang  thiết  bị  đắt  tiền, sẽ mở ra một cánh cửa để  ngành vật lý plasma ở Việt Nam  có  thể  song  hành  cùng  vật  lý  plasma thế giới.  

(Nguồn: “Plasma và ứng dụng trong y học”, Đỗ Hoàng Tùng, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)

Plasma nóng được tạo ra trong điều kiện nào?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Plasma và ứng dụng trong y học

(1) Plasma là gì? Plasma là trạng thái thứ 4 của  vật chất (ngoài 3 thể thường gặp  là rắn, lỏng và khí), trong đó các  chất bị ion hóa mạnh. Ví dụ với  nước, một viên nước đá (thể rắn)  đun nóng đến nhiệt độ nhất định  thì  thành  thể  lỏng  (nước),  tăng  nhiệt lên nữa nước sẽ bốc thành  hơi  (thể  khí).  Nếu  tiếp  tục  tăng  nhiệt độ lên cao nữa, các electron  mang điện âm bắt đầu bứt khỏi nguyên tử và chuyển động tự do,  nguyên tử trở thành các ion mang  điện dương. Nhiệt độ càng cao thì  số electron bứt ra khỏi nguyên tử  chất  khí  càng  nhiều,  hiện  tượng  này  gọi  là  sự  ion  hóa  của  chất  khí.  Các  nhà  khoa  học  gọi  thể  khí ion hóa là “trạng thái plasma”.  Plasma  không  phổ  biến  trên  trái  đất,  tuy  nhiên  trên  99%  vật  chất    thấy được trong  vũ trụ  tồn tại  dưới dạng plasma, vì thế trong 4  trạng thái vật chất, plasma được  xem như trạng thái đầu tiên trong  vũ trụ.

(2) Theo tính chất nhiệt động lực  học,  công  nghệ  plasma  hiện  có  plasma  nóng  (thermal  plasma)  được  tạo  thành  ở  nhiệt  độ,  áp  suất  và  năng  lượng  cao;  và  plasma lạnh (cold plasma ) được  tạo thành ở áp suất thường hoặc  chân  khôn g,  cần  ít  năng  lượng  hơn. Trong khoảng hơn 10 năm  trở lại đây, các nước tiên tiến trên  thế giới đã tập trung nhiều nguồn  lực cho việc nghiên cứu ứng dụng  plasma  lạnh  trong  các  lĩnh  vực  như  y  sinh,  hóa  học  hay  nông  nghiệp... Đối với lĩnh vực y học,  plasma lạnh đang chứng tỏ được  tiềm năng rất lớn, được đánh giá  là tác nhân quan trọng tạo ra cuộc  cách mạng mới trong y sinh của  thế kỷ XXI.

(3) Từ  lâu,  tính  năng  diệt  khuẩn  của  plasma  nóng  hay  plasma  lạnh  đã  được  biết  và  sử  dụng  trong vệ sinh dịch tễ và y tế. Tuy  vậy, plasma nóng có thể làm hại  đến  mô  xung  quanh  nên  khá  hạn  chế  dùng  trên  người.  Năm  2005,  plasma  lạnh  áp  suất  khí  quyển  (CAP)  lần  đầu  tiên  được  sử dụng để điều trị lâm sàng tại  CHLB Đức, mở ra kỷ nguyên của  “y học plasma”. Để phát triển các  thiết bị plasma lạnh áp suất khí  quyển cần sự cộng tác liên ngành  của các nhà vật lý, hóa học, sinh  học... và tất nhiên là cả các bác  sỹ lâm sàng.   

(4) Khả năng làm bất hoạt các vi  sinh  vật  trên  bề  mặt  mà  không  làm ảnh hưởng hay ảnh hưởng rất  ít  đến  các  cấu  trúc  xung  quanh  của  plasma  đã  thu  hút  được  sự  quan  tâm  của  các  bác  sỹ.  Trên  thực tế, có rất nhiều bệnh tật gây  ra do nhiễm khuẩn trên da lành  cũng như vết thương. Vì vậy, điều  trị các vết thương chậm liền ở da  trở  thành  một  trong  những  đối  tượng  nghiên  cứu  đầu  tiên  của  plasma y tế. Thiết bị plasma lạnh  đầu  tiên  vượt  qua  thử  nghiệm  lâm sàng pha I và được cho phép  tác động trực tiếp lên con người  là máy MicroPlaster alpha, được  phát  triển  bởi  Viện  Max  Planck  (CHLB  Đức)  và  Công  ty  Công  nghệ Plasma Adtec (Nhật Bản).  

(5) Các thử nghiệm lâm sàng đã  chứng minh, plasma lạnh rất hiệu  quả  khi  điều  trị  các  vết  thương  chậm  liền,  nhiễm  khuẩn.  Sở  dĩ  như vậy vì plasma đã tiêu diệt các  vi sinh vật cản trở quá trình liền  vết thương như: vi khuẩn, virus và  nấm. Khi tiếp xúc với vi sinh vật, plasma có thể phá vỡ màng tế bào  của chúng nhờ sự bắn phá của ion  và electron cũng như sự ăn mòn  của các gốc tự do, hoạt chất. Các  gốc tự do và tia cực tím còn có  thể xuyên qua màng tế bào của  vi sinh vật để làm mất hoạt tính  của protein, khi ến cho vi sinh vật  không thể hoạt động. Không chỉ  tiêu diệt vi khuẩn đơn lẻ, plasma  còn phá hủy màng sinh học do vi  khuẩn  tạo  ra  (màng  giúp  cho  vi  khuẩn chống chịu tốt hơn với điều  kiện bất lợi, khiến cho vết thương  khó lành).  Không chỉ tiêu diệt vi  khuẩn  thường,  plasma  còn  tiêu  diệt được vi khuẩn kháng kháng  sinh  do  plasma  là  tác  nhân  vật  lý, và đa tác nhân nên vi khuẩn  không thể biến đổi để hình thành  khả năng kháng plasma (điều này  rất hữu ích vì như chúng ta biết tốc  độ vi khuẩn phát triển thành kháng  thuốc nhanh hơn rất nhiều so với  tốc độ xuất hiện của thuốc kháng  sinh mới). Bên cạnh đó, plasma  giúp tạo nên một lớp màng protein  trên bề mặt vết thương, chống vi  khuẩn tái xâm nhập. Plasma cũng  giúp cơ thể giải phóng các yếu tố  hỗ trợ liền vết thương nhanh hơn  (như  tăng  lưu  thông  máu,  tăng  sinh tân mạch, tiêu diệt nội độc  tố,  giảm  viêm,  giảm  đau,  tăng  sinh  tế  bào,  tăng  sinh  collagen,  kích thích tái tạo biểu bì). Do đó  có thể dùng plasma điều trị các  vết thương cấp tính như bỏng, vết  mổ, các vết thương mạn tính (loét  do đái tháo đường, loét do tì đè,  loét do nằm lâu...), ứng dụng trong  da liễu (điều trị nấm, chàm...) và  thẩm  mỹ  (chữa  mụn  trứng  cá,  vết thương sau phẫu thuật thẩm  mỹ)...  Các  nghiên  cứu  mới  đây  còn cho thấy plasma có rất nhiều  triển  vọng  trong  chữa  ung  thư,  đặc biệt là ung thư máu.

(6) Hiện  nay,  công  nghệ  plasma  lạnh ứng dụng trong điều trị vết  thương hở đã được áp dụng tại một  số quốc gia:  Đức, Israel, Nga.  Ở  Việt Nam, Công ty Cổ phần Công  nghệ Plasma Việt Nam là đơn vị  đầu tiên nghiên cứu sản xuất máy  phát tia plasma lạnh (PlasmaMed)  ứng dụng cho điều trị vết thương  dựa trên sáng chế “Máy phát tia  plasma  lạnh  ứng  dụng  trong  y  sinh”  số  14627  do  Cục  Sở  hữu  trí tuệ cấp ngày 29/9/2015. Máy  PlasmaMed do Công ty sản xuất  được  nghiên  cứu  và  phát  triển  từ các đề tài KH&CN cấp cơ sở:  “Thiết kế, chế tạo nguồn plasma  jet  phục  vụ  nghiên  cứu  plasma  y  sinh”;  “Nghiên  cứu  khả  năng  điều trị một số bệnh da liễu bằng  plasma lạnh”... do các nhà khoa  học thuộc Viện Vật lý, Viện Hàn  lâm  Khoa  học  và  Công  nghệ  (KH&CN)  Việt  Nam  thực  hiện.  Sản phẩm cũng đã nhận được sự  hỗ trợ của Chương trình Đối tác  đổi mới sáng tạo Việt Nam - Phần  Lan IPP giai đoạn 2 (IPP2) và Dự  án  Đẩy  mạnh  đổi  mới  sáng  tạo  thông  qua  nghiên  cứu,  KH&CN  (FIRST) do Bộ KH&CN quản lý.  

(7) Hiện nay, máy PlasmaMed đã  được  áp  dụng  điều  trị  tại  nhiều  bệnh viện tuyến trung ương như:  Việt  Đức,  Phụ  sản  trung  ương,  Nhi trung ương, Lão khoa, Nội tiết  trung ương, Chợ Rẫy... và nhiều  bệnh  viện  tuyến  dưới,  với  trên  10.000  ca  điều  trị.  Kết  quả  cho  thấy đây là một hướng điều trị vết  thương  cho  hiệu  quả  cao,  giảm  đáng kể chi phí điều trị.

(8) Trên thế giới hiện có ngày càng  nhiều  nghiên  cứu  về  plasma,  cũng như phát triển plasma lạnh.  Ngoài lĩnh vực y học, plasma lạnh  còn có khả năng ứng dụng trong  nhiều  lĩnh  vực  công  nghệ  khác  như chế tạo linh kiện điện tử, xử  lý bề mặt sơn phủ, bảo quản thực  phẩm...  Đây  là  cơ  hội  cho  Việt  Nam tiếp cận với xu hướng phát  triển của thế giới. Đặc biệt là xu  hướng nghiên cứu y học plasma,  một hướng khoa học liên ngành  (vật lý - sinh học - y học) có tiềm  năng  ứng  dụng  rất  lớn,  nhưng  không  đòi  hỏi  trang  thiết  bị  đắt  tiền, sẽ mở ra một cánh cửa để  ngành vật lý plasma ở Việt Nam  có  thể  song  hành  cùng  vật  lý  plasma thế giới.  

(Nguồn: “Plasma và ứng dụng trong y học”, Đỗ Hoàng Tùng, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)

Theo tính chất nhiệt động lực học, plasma được chia thành những loại nào?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Plasma và ứng dụng trong y học

(1) Plasma là gì? Plasma là trạng thái thứ 4 của  vật chất (ngoài 3 thể thường gặp  là rắn, lỏng và khí), trong đó các  chất bị ion hóa mạnh. Ví dụ với  nước, một viên nước đá (thể rắn)  đun nóng đến nhiệt độ nhất định  thì  thành  thể  lỏng  (nước),  tăng  nhiệt lên nữa nước sẽ bốc thành  hơi  (thể  khí).  Nếu  tiếp  tục  tăng  nhiệt độ lên cao nữa, các electron  mang điện âm bắt đầu bứt khỏi nguyên tử và chuyển động tự do,  nguyên tử trở thành các ion mang  điện dương. Nhiệt độ càng cao thì  số electron bứt ra khỏi nguyên tử  chất  khí  càng  nhiều,  hiện  tượng  này  gọi  là  sự  ion  hóa  của  chất  khí.  Các  nhà  khoa  học  gọi  thể  khí ion hóa là “trạng thái plasma”.  Plasma  không  phổ  biến  trên  trái  đất,  tuy  nhiên  trên  99%  vật  chất    thấy được trong  vũ trụ  tồn tại  dưới dạng plasma, vì thế trong 4  trạng thái vật chất, plasma được  xem như trạng thái đầu tiên trong  vũ trụ.

(2) Theo tính chất nhiệt động lực  học,  công  nghệ  plasma  hiện  có  plasma  nóng  (thermal  plasma)  được  tạo  thành  ở  nhiệt  độ,  áp  suất  và  năng  lượng  cao;  và  plasma lạnh (cold plasma ) được  tạo thành ở áp suất thường hoặc  chân  khôn g,  cần  ít  năng  lượng  hơn. Trong khoảng hơn 10 năm  trở lại đây, các nước tiên tiến trên  thế giới đã tập trung nhiều nguồn  lực cho việc nghiên cứu ứng dụng  plasma  lạnh  trong  các  lĩnh  vực  như  y  sinh,  hóa  học  hay  nông  nghiệp... Đối với lĩnh vực y học,  plasma lạnh đang chứng tỏ được  tiềm năng rất lớn, được đánh giá  là tác nhân quan trọng tạo ra cuộc  cách mạng mới trong y sinh của  thế kỷ XXI.

(3) Từ  lâu,  tính  năng  diệt  khuẩn  của  plasma  nóng  hay  plasma  lạnh  đã  được  biết  và  sử  dụng  trong vệ sinh dịch tễ và y tế. Tuy  vậy, plasma nóng có thể làm hại  đến  mô  xung  quanh  nên  khá  hạn  chế  dùng  trên  người.  Năm  2005,  plasma  lạnh  áp  suất  khí  quyển  (CAP)  lần  đầu  tiên  được  sử dụng để điều trị lâm sàng tại  CHLB Đức, mở ra kỷ nguyên của  “y học plasma”. Để phát triển các  thiết bị plasma lạnh áp suất khí  quyển cần sự cộng tác liên ngành  của các nhà vật lý, hóa học, sinh  học... và tất nhiên là cả các bác  sỹ lâm sàng.   

(4) Khả năng làm bất hoạt các vi  sinh  vật  trên  bề  mặt  mà  không  làm ảnh hưởng hay ảnh hưởng rất  ít  đến  các  cấu  trúc  xung  quanh  của  plasma  đã  thu  hút  được  sự  quan  tâm  của  các  bác  sỹ.  Trên  thực tế, có rất nhiều bệnh tật gây  ra do nhiễm khuẩn trên da lành  cũng như vết thương. Vì vậy, điều  trị các vết thương chậm liền ở da  trở  thành  một  trong  những  đối  tượng  nghiên  cứu  đầu  tiên  của  plasma y tế. Thiết bị plasma lạnh  đầu  tiên  vượt  qua  thử  nghiệm  lâm sàng pha I và được cho phép  tác động trực tiếp lên con người  là máy MicroPlaster alpha, được  phát  triển  bởi  Viện  Max  Planck  (CHLB  Đức)  và  Công  ty  Công  nghệ Plasma Adtec (Nhật Bản).  

(5) Các thử nghiệm lâm sàng đã  chứng minh, plasma lạnh rất hiệu  quả  khi  điều  trị  các  vết  thương  chậm  liền,  nhiễm  khuẩn.  Sở  dĩ  như vậy vì plasma đã tiêu diệt các  vi sinh vật cản trở quá trình liền  vết thương như: vi khuẩn, virus và  nấm. Khi tiếp xúc với vi sinh vật, plasma có thể phá vỡ màng tế bào  của chúng nhờ sự bắn phá của ion  và electron cũng như sự ăn mòn  của các gốc tự do, hoạt chất. Các  gốc tự do và tia cực tím còn có  thể xuyên qua màng tế bào của  vi sinh vật để làm mất hoạt tính  của protein, khi ến cho vi sinh vật  không thể hoạt động. Không chỉ  tiêu diệt vi khuẩn đơn lẻ, plasma  còn phá hủy màng sinh học do vi  khuẩn  tạo  ra  (màng  giúp  cho  vi  khuẩn chống chịu tốt hơn với điều  kiện bất lợi, khiến cho vết thương  khó lành).  Không chỉ tiêu diệt vi  khuẩn  thường,  plasma  còn  tiêu  diệt được vi khuẩn kháng kháng  sinh  do  plasma  là  tác  nhân  vật  lý, và đa tác nhân nên vi khuẩn  không thể biến đổi để hình thành  khả năng kháng plasma (điều này  rất hữu ích vì như chúng ta biết tốc  độ vi khuẩn phát triển thành kháng  thuốc nhanh hơn rất nhiều so với  tốc độ xuất hiện của thuốc kháng  sinh mới). Bên cạnh đó, plasma  giúp tạo nên một lớp màng protein  trên bề mặt vết thương, chống vi  khuẩn tái xâm nhập. Plasma cũng  giúp cơ thể giải phóng các yếu tố  hỗ trợ liền vết thương nhanh hơn  (như  tăng  lưu  thông  máu,  tăng  sinh tân mạch, tiêu diệt nội độc  tố,  giảm  viêm,  giảm  đau,  tăng  sinh  tế  bào,  tăng  sinh  collagen,  kích thích tái tạo biểu bì). Do đó  có thể dùng plasma điều trị các  vết thương cấp tính như bỏng, vết  mổ, các vết thương mạn tính (loét  do đái tháo đường, loét do tì đè,  loét do nằm lâu...), ứng dụng trong  da liễu (điều trị nấm, chàm...) và  thẩm  mỹ  (chữa  mụn  trứng  cá,  vết thương sau phẫu thuật thẩm  mỹ)...  Các  nghiên  cứu  mới  đây  còn cho thấy plasma có rất nhiều  triển  vọng  trong  chữa  ung  thư,  đặc biệt là ung thư máu.

(6) Hiện  nay,  công  nghệ  plasma  lạnh ứng dụng trong điều trị vết  thương hở đã được áp dụng tại một  số quốc gia:  Đức, Israel, Nga.  Ở  Việt Nam, Công ty Cổ phần Công  nghệ Plasma Việt Nam là đơn vị  đầu tiên nghiên cứu sản xuất máy  phát tia plasma lạnh (PlasmaMed)  ứng dụng cho điều trị vết thương  dựa trên sáng chế “Máy phát tia  plasma  lạnh  ứng  dụng  trong  y  sinh”  số  14627  do  Cục  Sở  hữu  trí tuệ cấp ngày 29/9/2015. Máy  PlasmaMed do Công ty sản xuất  được  nghiên  cứu  và  phát  triển  từ các đề tài KH&CN cấp cơ sở:  “Thiết kế, chế tạo nguồn plasma  jet  phục  vụ  nghiên  cứu  plasma  y  sinh”;  “Nghiên  cứu  khả  năng  điều trị một số bệnh da liễu bằng  plasma lạnh”... do các nhà khoa  học thuộc Viện Vật lý, Viện Hàn  lâm  Khoa  học  và  Công  nghệ  (KH&CN)  Việt  Nam  thực  hiện.  Sản phẩm cũng đã nhận được sự  hỗ trợ của Chương trình Đối tác  đổi mới sáng tạo Việt Nam - Phần  Lan IPP giai đoạn 2 (IPP2) và Dự  án  Đẩy  mạnh  đổi  mới  sáng  tạo  thông  qua  nghiên  cứu,  KH&CN  (FIRST) do Bộ KH&CN quản lý.  

(7) Hiện nay, máy PlasmaMed đã  được  áp  dụng  điều  trị  tại  nhiều  bệnh viện tuyến trung ương như:  Việt  Đức,  Phụ  sản  trung  ương,  Nhi trung ương, Lão khoa, Nội tiết  trung ương, Chợ Rẫy... và nhiều  bệnh  viện  tuyến  dưới,  với  trên  10.000  ca  điều  trị.  Kết  quả  cho  thấy đây là một hướng điều trị vết  thương  cho  hiệu  quả  cao,  giảm  đáng kể chi phí điều trị.

(8) Trên thế giới hiện có ngày càng  nhiều  nghiên  cứu  về  plasma,  cũng như phát triển plasma lạnh.  Ngoài lĩnh vực y học, plasma lạnh  còn có khả năng ứng dụng trong  nhiều  lĩnh  vực  công  nghệ  khác  như chế tạo linh kiện điện tử, xử  lý bề mặt sơn phủ, bảo quản thực  phẩm...  Đây  là  cơ  hội  cho  Việt  Nam tiếp cận với xu hướng phát  triển của thế giới. Đặc biệt là xu  hướng nghiên cứu y học plasma,  một hướng khoa học liên ngành  (vật lý - sinh học - y học) có tiềm  năng  ứng  dụng  rất  lớn,  nhưng  không  đòi  hỏi  trang  thiết  bị  đắt  tiền, sẽ mở ra một cánh cửa để  ngành vật lý plasma ở Việt Nam  có  thể  song  hành  cùng  vật  lý  plasma thế giới.  

(Nguồn: “Plasma và ứng dụng trong y học”, Đỗ Hoàng Tùng, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)

Plasma được hiểu là?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Plasma và ứng dụng trong y học

(1) Plasma là gì? Plasma là trạng thái thứ 4 của  vật chất (ngoài 3 thể thường gặp  là rắn, lỏng và khí), trong đó các  chất bị ion hóa mạnh. Ví dụ với  nước, một viên nước đá (thể rắn)  đun nóng đến nhiệt độ nhất định  thì  thành  thể  lỏng  (nước),  tăng  nhiệt lên nữa nước sẽ bốc thành  hơi  (thể  khí).  Nếu  tiếp  tục  tăng  nhiệt độ lên cao nữa, các electron  mang điện âm bắt đầu bứt khỏi nguyên tử và chuyển động tự do,  nguyên tử trở thành các ion mang  điện dương. Nhiệt độ càng cao thì  số electron bứt ra khỏi nguyên tử  chất  khí  càng  nhiều,  hiện  tượng  này  gọi  là  sự  ion  hóa  của  chất  khí.  Các  nhà  khoa  học  gọi  thể  khí ion hóa là “trạng thái plasma”.  Plasma  không  phổ  biến  trên  trái  đất,  tuy  nhiên  trên  99%  vật  chất    thấy được trong  vũ trụ  tồn tại  dưới dạng plasma, vì thế trong 4  trạng thái vật chất, plasma được  xem như trạng thái đầu tiên trong  vũ trụ.

(2) Theo tính chất nhiệt động lực  học,  công  nghệ  plasma  hiện  có  plasma  nóng  (thermal  plasma)  được  tạo  thành  ở  nhiệt  độ,  áp  suất  và  năng  lượng  cao;  và  plasma lạnh (cold plasma ) được  tạo thành ở áp suất thường hoặc  chân  khôn g,  cần  ít  năng  lượng  hơn. Trong khoảng hơn 10 năm  trở lại đây, các nước tiên tiến trên  thế giới đã tập trung nhiều nguồn  lực cho việc nghiên cứu ứng dụng  plasma  lạnh  trong  các  lĩnh  vực  như  y  sinh,  hóa  học  hay  nông  nghiệp... Đối với lĩnh vực y học,  plasma lạnh đang chứng tỏ được  tiềm năng rất lớn, được đánh giá  là tác nhân quan trọng tạo ra cuộc  cách mạng mới trong y sinh của  thế kỷ XXI.

(3) Từ  lâu,  tính  năng  diệt  khuẩn  của  plasma  nóng  hay  plasma  lạnh  đã  được  biết  và  sử  dụng  trong vệ sinh dịch tễ và y tế. Tuy  vậy, plasma nóng có thể làm hại  đến  mô  xung  quanh  nên  khá  hạn  chế  dùng  trên  người.  Năm  2005,  plasma  lạnh  áp  suất  khí  quyển  (CAP)  lần  đầu  tiên  được  sử dụng để điều trị lâm sàng tại  CHLB Đức, mở ra kỷ nguyên của  “y học plasma”. Để phát triển các  thiết bị plasma lạnh áp suất khí  quyển cần sự cộng tác liên ngành  của các nhà vật lý, hóa học, sinh  học... và tất nhiên là cả các bác  sỹ lâm sàng.   

(4) Khả năng làm bất hoạt các vi  sinh  vật  trên  bề  mặt  mà  không  làm ảnh hưởng hay ảnh hưởng rất  ít  đến  các  cấu  trúc  xung  quanh  của  plasma  đã  thu  hút  được  sự  quan  tâm  của  các  bác  sỹ.  Trên  thực tế, có rất nhiều bệnh tật gây  ra do nhiễm khuẩn trên da lành  cũng như vết thương. Vì vậy, điều  trị các vết thương chậm liền ở da  trở  thành  một  trong  những  đối  tượng  nghiên  cứu  đầu  tiên  của  plasma y tế. Thiết bị plasma lạnh  đầu  tiên  vượt  qua  thử  nghiệm  lâm sàng pha I và được cho phép  tác động trực tiếp lên con người  là máy MicroPlaster alpha, được  phát  triển  bởi  Viện  Max  Planck  (CHLB  Đức)  và  Công  ty  Công  nghệ Plasma Adtec (Nhật Bản).  

(5) Các thử nghiệm lâm sàng đã  chứng minh, plasma lạnh rất hiệu  quả  khi  điều  trị  các  vết  thương  chậm  liền,  nhiễm  khuẩn.  Sở  dĩ  như vậy vì plasma đã tiêu diệt các  vi sinh vật cản trở quá trình liền  vết thương như: vi khuẩn, virus và  nấm. Khi tiếp xúc với vi sinh vật, plasma có thể phá vỡ màng tế bào  của chúng nhờ sự bắn phá của ion  và electron cũng như sự ăn mòn  của các gốc tự do, hoạt chất. Các  gốc tự do và tia cực tím còn có  thể xuyên qua màng tế bào của  vi sinh vật để làm mất hoạt tính  của protein, khi ến cho vi sinh vật  không thể hoạt động. Không chỉ  tiêu diệt vi khuẩn đơn lẻ, plasma  còn phá hủy màng sinh học do vi  khuẩn  tạo  ra  (màng  giúp  cho  vi  khuẩn chống chịu tốt hơn với điều  kiện bất lợi, khiến cho vết thương  khó lành).  Không chỉ tiêu diệt vi  khuẩn  thường,  plasma  còn  tiêu  diệt được vi khuẩn kháng kháng  sinh  do  plasma  là  tác  nhân  vật  lý, và đa tác nhân nên vi khuẩn  không thể biến đổi để hình thành  khả năng kháng plasma (điều này  rất hữu ích vì như chúng ta biết tốc  độ vi khuẩn phát triển thành kháng  thuốc nhanh hơn rất nhiều so với  tốc độ xuất hiện của thuốc kháng  sinh mới). Bên cạnh đó, plasma  giúp tạo nên một lớp màng protein  trên bề mặt vết thương, chống vi  khuẩn tái xâm nhập. Plasma cũng  giúp cơ thể giải phóng các yếu tố  hỗ trợ liền vết thương nhanh hơn  (như  tăng  lưu  thông  máu,  tăng  sinh tân mạch, tiêu diệt nội độc  tố,  giảm  viêm,  giảm  đau,  tăng  sinh  tế  bào,  tăng  sinh  collagen,  kích thích tái tạo biểu bì). Do đó  có thể dùng plasma điều trị các  vết thương cấp tính như bỏng, vết  mổ, các vết thương mạn tính (loét  do đái tháo đường, loét do tì đè,  loét do nằm lâu...), ứng dụng trong  da liễu (điều trị nấm, chàm...) và  thẩm  mỹ  (chữa  mụn  trứng  cá,  vết thương sau phẫu thuật thẩm  mỹ)...  Các  nghiên  cứu  mới  đây  còn cho thấy plasma có rất nhiều  triển  vọng  trong  chữa  ung  thư,  đặc biệt là ung thư máu.

(6) Hiện  nay,  công  nghệ  plasma  lạnh ứng dụng trong điều trị vết  thương hở đã được áp dụng tại một  số quốc gia:  Đức, Israel, Nga.  Ở  Việt Nam, Công ty Cổ phần Công  nghệ Plasma Việt Nam là đơn vị  đầu tiên nghiên cứu sản xuất máy  phát tia plasma lạnh (PlasmaMed)  ứng dụng cho điều trị vết thương  dựa trên sáng chế “Máy phát tia  plasma  lạnh  ứng  dụng  trong  y  sinh”  số  14627  do  Cục  Sở  hữu  trí tuệ cấp ngày 29/9/2015. Máy  PlasmaMed do Công ty sản xuất  được  nghiên  cứu  và  phát  triển  từ các đề tài KH&CN cấp cơ sở:  “Thiết kế, chế tạo nguồn plasma  jet  phục  vụ  nghiên  cứu  plasma  y  sinh”;  “Nghiên  cứu  khả  năng  điều trị một số bệnh da liễu bằng  plasma lạnh”... do các nhà khoa  học thuộc Viện Vật lý, Viện Hàn  lâm  Khoa  học  và  Công  nghệ  (KH&CN)  Việt  Nam  thực  hiện.  Sản phẩm cũng đã nhận được sự  hỗ trợ của Chương trình Đối tác  đổi mới sáng tạo Việt Nam - Phần  Lan IPP giai đoạn 2 (IPP2) và Dự  án  Đẩy  mạnh  đổi  mới  sáng  tạo  thông  qua  nghiên  cứu,  KH&CN  (FIRST) do Bộ KH&CN quản lý.  

(7) Hiện nay, máy PlasmaMed đã  được  áp  dụng  điều  trị  tại  nhiều  bệnh viện tuyến trung ương như:  Việt  Đức,  Phụ  sản  trung  ương,  Nhi trung ương, Lão khoa, Nội tiết  trung ương, Chợ Rẫy... và nhiều  bệnh  viện  tuyến  dưới,  với  trên  10.000  ca  điều  trị.  Kết  quả  cho  thấy đây là một hướng điều trị vết  thương  cho  hiệu  quả  cao,  giảm  đáng kể chi phí điều trị.

(8) Trên thế giới hiện có ngày càng  nhiều  nghiên  cứu  về  plasma,  cũng như phát triển plasma lạnh.  Ngoài lĩnh vực y học, plasma lạnh  còn có khả năng ứng dụng trong  nhiều  lĩnh  vực  công  nghệ  khác  như chế tạo linh kiện điện tử, xử  lý bề mặt sơn phủ, bảo quản thực  phẩm...  Đây  là  cơ  hội  cho  Việt  Nam tiếp cận với xu hướng phát  triển của thế giới. Đặc biệt là xu  hướng nghiên cứu y học plasma,  một hướng khoa học liên ngành  (vật lý - sinh học - y học) có tiềm  năng  ứng  dụng  rất  lớn,  nhưng  không  đòi  hỏi  trang  thiết  bị  đắt  tiền, sẽ mở ra một cánh cửa để  ngành vật lý plasma ở Việt Nam  có  thể  song  hành  cùng  vật  lý  plasma thế giới.  

(Nguồn: “Plasma và ứng dụng trong y học”, Đỗ Hoàng Tùng, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)

Nội dung chính của văn bản trên là?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Làm chủ quy trình công nghệ Bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh

Thông qua việc thực hiện nhiệm vụ thuộc Dự án “Đẩy mạnh đổi mới sáng tạo thông qua nghiên cứu, khoa học và công nghệ - FIRST” do Bộ Khoa học và Công nghệ tài trợ, các nhà khoa học thuộc Trung tâm Công nghệ sinh học TP Hồ Chí Minh (Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn TP Hồ Chí Minh) đã làm chủ quy trình công nghệ Bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh (Panax vietnamensis Ha et Grushv.) và thương mại hóa thành công sản phẩm, góp phần chủ động nguồn nguyên liệu đáp ứng nhu cầu mở rộng sản xuất theo hướng công nghiệp.

Loài sâm quý cần bảo tồn và phát triển

Sâm Ngọc Linh (còn gọi là sâm Việt Nam) có tên khoa học là Panax vietnamensis Ha et Grushv., thuộc chi Nhân sâm - Panax, họ Ngũ Gia Bì - Araliaceae. Sâm mọc tập trung ở vùng núi Ngọc Linh (thuộc địa phận 2 tỉnh Quảng Nam và Kon Tum) và là 1 trong 4 loại sâm quý của đất nước.

Nhiều nghiên cứu cho thấy, sâm Ngọc Linh không chỉ chứa nhiều saponin chính (G-Rb1, G-Rb2,    G-Rb3, G-Rc, G-Rd, G-Re, G-Rg1…) giống như trong sâm Triều Tiên, mà còn chứa thêm các saponin khung Dammaran có cấu trúc Ocotillol chưa tìm thấy ở sâm Triều Tiên. Kết quả nghiên cứu thân - rễ của sâm Ngọc Linh cho thấy, có hơn 52 hoạt chất saponin (Gingsenoside), trong đó có 26 hợp chất có cấu trúc hoá học đã biết và 26 saponin có cấu trúc mới không có trong các loại nhân sâm khác được đặt tên là Vina-ginsenoside-R1-R24. Đặc biệt, sâm Ngọc Linh chứa chất Majonoside-R2 - là saponin nhóm Ocotillol chiếm hơn nửa tổng hàm lượng saponin của sâm Ngọc Linh và là nhóm chất có tác dụng quyết định đến chất lượng loài sâm Việt. Ngoài thành phần saponin, sâm Ngọc Linh còn chứa 17 thành phần acid béo, 18 acid amin, 20 nguyên tố vi lượng và các hợp chất sterol, cụ thể là β-sitosterol và daucosterin (β-sitosteryl-3-O-β- D-glucopyranosid). Trong củ và rễ sâm còn chứa các hợp chất glucid như đường tự do, đường toàn phần, tinh dầu, vitamin C…

Những kết quả nghiên cứu dược lý thực nghiệm sâm Ngọc Linh đã chứng minh, sâm Ngọc Linh có tác dụng chống stress, kích thích hệ miễn dịch, chống ôxy hóa, phòng chống ung thư, bảo vệ tế bào gan... Đặc biệt, sâm Ngọc Linh có một số tính năng mà sâm khác không thể có như tính kháng khuẩn, chống trầm cảm, hiệu lực tốt với thuốc kháng sinh, thuốc điều trị bệnh tiểu đường... Chính vì những đặc tính quý hiếm này, sâm Ngọc Linh đang trở thành đối tượng săn tìm, bị khai thác, mua bán, sử dụng một cách khó kiểm soát.

Những năm gần đây đang nổi lên xu hướng ứng dụng công nghệ nuôi cấy sinh khối tế bào để sản xuất các hợp chất thứ cấp quan trọng trong ngành dược thay thế phương pháp truyền thống chiết xuất từ cây trồng cho hiệu quả thấp, có thể dẫn đến nguy cơ tuyệt chủng một số loài như Taxus brevifolia, Podophyllum hexandrum và gây ảnh hưởng đến hệ sinh thái. Tuy nhiên, việc sản xuất các hoạt chất thứ cấp bằng phương pháp nuôi cấy tế bào vẫn còn một số tồn tại, như dòng tế bào không ổn định, năng suất thấp và cần bổ sung chất dinh dưỡng vào môi trường nuôi cấy… Do vậy, hướng mới để sản xuất các hoạt chất thứ cấp là nuôi cấy rễ tóc.

Làm chủ công nghệ bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh

Ở Việt Nam, Trung tâm Công nghệ sinh học TP Hồ Chí Minh là đơn vị đầu tiên nghiên cứu thành công việc nghiên cứu tạo rễ tóc và phân tích các hợp chất thứ cấp sâm Ngọc Linh trên cơ sở hợp tác với Trường Đại học Picardie Julles Verne (Pháp). Kết quả là đã tạo ra những dòng rễ tái sinh tốt, sinh trưởng mạnh trên môi trường thạch rắn và lỏng lắc. Tuy nhiên, để làm chủ quy trình công nghệ Bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh và thương mại hóa sản phẩm đòi hỏi phải có sự liên kết, phối hợp giữa các nhà nghiên cứu công nghệ sinh học thực vật, hoá hữu cơ, dược và nhà sản xuất, nhà kinh doanh để tạo ra chuỗi khép kín từ khâu sản xuất nguyên liệu đến khâu cung cấp ra thị trường. Chuỗi liên kết này giúp cho kết quả nghiên cứu được ứng dụng vào thực tế sản xuất và thương mại hoá sản phẩm, góp phần kết nối cung - cầu.

Trên cơ sở kết quả nghiên cứu hoàn thiện công nghệ sản xuất sinh khối rễ tóc sâm Ngọc Linh đã đạt được, năm 2018, Trung tâm Công nghệ sinh học TP Hồ Chí Minh đã đề xuất và được Ban Quản lý Dự án FIRST phê duyệt thực hiện tiểu dự án: “Làm chủ quy trình công nghệ Bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh (Panax vietnamensis Ha et Grushv.) và thương mại hóa sản phẩm” để sản xuất sinh khối rễ tóc sâm Ngọc Linh quy mô công nghiệp, mang lại lợi ích kinh tế và góp phần vào việc chăm sóc sức khỏe con nguời.

Sau 2 năm triển khai thực hiện, dự án đã: 1) Xây dựng thành công quy trình công nghệ nuôi cấy rễ tóc sâm Ngọc Linh ở quy mô công nghiệp trên các Bioreactor 20 lít; 2) Sản xuất được 1.527,4 kg rễ tóc - sinh khối tươi phục vụ sản xuất cao chiết dạng bán thành phẩm làm nguồn nguyên liệu sản xuất nước uống và viên nang, xây dựng tiêu chuẩn nguồn nguyên liệu; 3) Xây dựng thành công quy trình chiết xuất cao chiết bán thành phẩm. Kết quả phân tích, đánh giá tính an toàn và tác động tăng lực của cao chiết rễ tóc Sâm Ngọc Linh đều đạt các chỉ tiêu đối với thuốc có nguồn gốc dược liệu; 4) Bào chế được 30 kg cao chiết bán thành phẩm từ sinh khối rễ tóc sâm Ngọc Linh làm viên nang cứng; 5) Xây dựng thành công quy trình sản xuất thực phẩm chức năng dạng viên nang cứng đạt yêu cầu chất lượng sản phẩm theo quy định; 6) Xây dựng thành công quy trình sản xuất nước uống từ rễ tóc sâm Ngọc Linh; 7) Bào chế và sản xuất được 103.949 viên nang cứng, 11.000 bịch (túi) nước sâm uống; 8) Đăng ký bảo hộ quy trình công nghệ Bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh…

Hiện nay nhu cầu về sâm Ngọc Linh và các sản phẩm từ sâm Ngọc Linh ngày càng tăng, trong khi các phương pháp di thực và trồng sâm Ngọc Linh còn hạn chế, không đủ đáp ứng nhu cầu thị trường. Do vậy, việc nghiên cứu phát triển phương pháp mới để chủ động sản xuất sâm sinh khối là rất cần thiết, góp phần đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng về loại dược liệu quý, đồng thời xây dựng thương hiệu sâm Việt Nam.

Với việc thực hiện thành công dự án nêu trên, Trung tâm Công nghệ sinh học TP Hồ Chí Minh đang hoàn thiện các quy trình sản xuất sinh khối, sản xuất cao chiết bán thành phẩm và các sản phẩm từ rễ tóc sâm Ngọc Linh để cung cấp ra thị trường; đồng thời sẵn sàng chuyển giao độc quyền hoặc từng phần cho các đơn vị đối tác để phát triển sản phẩm, đưa sản phẩm phục vụ sức khỏe con người

(Nguồn: “Làm chủ quy trình công nghệ Bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh”; Lâm Vỹ Nguyên; Khoa học - Công nghệ và Đổi mới sáng tạo; Số 6 năm 2021).

Đáp án nào KHÔNG nêu đúng những kết quả mà dự án đạt được?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Làm chủ quy trình công nghệ Bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh

Thông qua việc thực hiện nhiệm vụ thuộc Dự án “Đẩy mạnh đổi mới sáng tạo thông qua nghiên cứu, khoa học và công nghệ - FIRST” do Bộ Khoa học và Công nghệ tài trợ, các nhà khoa học thuộc Trung tâm Công nghệ sinh học TP Hồ Chí Minh (Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn TP Hồ Chí Minh) đã làm chủ quy trình công nghệ Bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh (Panax vietnamensis Ha et Grushv.) và thương mại hóa thành công sản phẩm, góp phần chủ động nguồn nguyên liệu đáp ứng nhu cầu mở rộng sản xuất theo hướng công nghiệp.

Loài sâm quý cần bảo tồn và phát triển

Sâm Ngọc Linh (còn gọi là sâm Việt Nam) có tên khoa học là Panax vietnamensis Ha et Grushv., thuộc chi Nhân sâm - Panax, họ Ngũ Gia Bì - Araliaceae. Sâm mọc tập trung ở vùng núi Ngọc Linh (thuộc địa phận 2 tỉnh Quảng Nam và Kon Tum) và là 1 trong 4 loại sâm quý của đất nước.

Nhiều nghiên cứu cho thấy, sâm Ngọc Linh không chỉ chứa nhiều saponin chính (G-Rb1, G-Rb2,    G-Rb3, G-Rc, G-Rd, G-Re, G-Rg1…) giống như trong sâm Triều Tiên, mà còn chứa thêm các saponin khung Dammaran có cấu trúc Ocotillol chưa tìm thấy ở sâm Triều Tiên. Kết quả nghiên cứu thân - rễ của sâm Ngọc Linh cho thấy, có hơn 52 hoạt chất saponin (Gingsenoside), trong đó có 26 hợp chất có cấu trúc hoá học đã biết và 26 saponin có cấu trúc mới không có trong các loại nhân sâm khác được đặt tên là Vina-ginsenoside-R1-R24. Đặc biệt, sâm Ngọc Linh chứa chất Majonoside-R2 - là saponin nhóm Ocotillol chiếm hơn nửa tổng hàm lượng saponin của sâm Ngọc Linh và là nhóm chất có tác dụng quyết định đến chất lượng loài sâm Việt. Ngoài thành phần saponin, sâm Ngọc Linh còn chứa 17 thành phần acid béo, 18 acid amin, 20 nguyên tố vi lượng và các hợp chất sterol, cụ thể là β-sitosterol và daucosterin (β-sitosteryl-3-O-β- D-glucopyranosid). Trong củ và rễ sâm còn chứa các hợp chất glucid như đường tự do, đường toàn phần, tinh dầu, vitamin C…

Những kết quả nghiên cứu dược lý thực nghiệm sâm Ngọc Linh đã chứng minh, sâm Ngọc Linh có tác dụng chống stress, kích thích hệ miễn dịch, chống ôxy hóa, phòng chống ung thư, bảo vệ tế bào gan... Đặc biệt, sâm Ngọc Linh có một số tính năng mà sâm khác không thể có như tính kháng khuẩn, chống trầm cảm, hiệu lực tốt với thuốc kháng sinh, thuốc điều trị bệnh tiểu đường... Chính vì những đặc tính quý hiếm này, sâm Ngọc Linh đang trở thành đối tượng săn tìm, bị khai thác, mua bán, sử dụng một cách khó kiểm soát.

Những năm gần đây đang nổi lên xu hướng ứng dụng công nghệ nuôi cấy sinh khối tế bào để sản xuất các hợp chất thứ cấp quan trọng trong ngành dược thay thế phương pháp truyền thống chiết xuất từ cây trồng cho hiệu quả thấp, có thể dẫn đến nguy cơ tuyệt chủng một số loài như Taxus brevifolia, Podophyllum hexandrum và gây ảnh hưởng đến hệ sinh thái. Tuy nhiên, việc sản xuất các hoạt chất thứ cấp bằng phương pháp nuôi cấy tế bào vẫn còn một số tồn tại, như dòng tế bào không ổn định, năng suất thấp và cần bổ sung chất dinh dưỡng vào môi trường nuôi cấy… Do vậy, hướng mới để sản xuất các hoạt chất thứ cấp là nuôi cấy rễ tóc.

Làm chủ công nghệ bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh

Ở Việt Nam, Trung tâm Công nghệ sinh học TP Hồ Chí Minh là đơn vị đầu tiên nghiên cứu thành công việc nghiên cứu tạo rễ tóc và phân tích các hợp chất thứ cấp sâm Ngọc Linh trên cơ sở hợp tác với Trường Đại học Picardie Julles Verne (Pháp). Kết quả là đã tạo ra những dòng rễ tái sinh tốt, sinh trưởng mạnh trên môi trường thạch rắn và lỏng lắc. Tuy nhiên, để làm chủ quy trình công nghệ Bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh và thương mại hóa sản phẩm đòi hỏi phải có sự liên kết, phối hợp giữa các nhà nghiên cứu công nghệ sinh học thực vật, hoá hữu cơ, dược và nhà sản xuất, nhà kinh doanh để tạo ra chuỗi khép kín từ khâu sản xuất nguyên liệu đến khâu cung cấp ra thị trường. Chuỗi liên kết này giúp cho kết quả nghiên cứu được ứng dụng vào thực tế sản xuất và thương mại hoá sản phẩm, góp phần kết nối cung - cầu.

Trên cơ sở kết quả nghiên cứu hoàn thiện công nghệ sản xuất sinh khối rễ tóc sâm Ngọc Linh đã đạt được, năm 2018, Trung tâm Công nghệ sinh học TP Hồ Chí Minh đã đề xuất và được Ban Quản lý Dự án FIRST phê duyệt thực hiện tiểu dự án: “Làm chủ quy trình công nghệ Bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh (Panax vietnamensis Ha et Grushv.) và thương mại hóa sản phẩm” để sản xuất sinh khối rễ tóc sâm Ngọc Linh quy mô công nghiệp, mang lại lợi ích kinh tế và góp phần vào việc chăm sóc sức khỏe con nguời.

Sau 2 năm triển khai thực hiện, dự án đã: 1) Xây dựng thành công quy trình công nghệ nuôi cấy rễ tóc sâm Ngọc Linh ở quy mô công nghiệp trên các Bioreactor 20 lít; 2) Sản xuất được 1.527,4 kg rễ tóc - sinh khối tươi phục vụ sản xuất cao chiết dạng bán thành phẩm làm nguồn nguyên liệu sản xuất nước uống và viên nang, xây dựng tiêu chuẩn nguồn nguyên liệu; 3) Xây dựng thành công quy trình chiết xuất cao chiết bán thành phẩm. Kết quả phân tích, đánh giá tính an toàn và tác động tăng lực của cao chiết rễ tóc Sâm Ngọc Linh đều đạt các chỉ tiêu đối với thuốc có nguồn gốc dược liệu; 4) Bào chế được 30 kg cao chiết bán thành phẩm từ sinh khối rễ tóc sâm Ngọc Linh làm viên nang cứng; 5) Xây dựng thành công quy trình sản xuất thực phẩm chức năng dạng viên nang cứng đạt yêu cầu chất lượng sản phẩm theo quy định; 6) Xây dựng thành công quy trình sản xuất nước uống từ rễ tóc sâm Ngọc Linh; 7) Bào chế và sản xuất được 103.949 viên nang cứng, 11.000 bịch (túi) nước sâm uống; 8) Đăng ký bảo hộ quy trình công nghệ Bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh…

Hiện nay nhu cầu về sâm Ngọc Linh và các sản phẩm từ sâm Ngọc Linh ngày càng tăng, trong khi các phương pháp di thực và trồng sâm Ngọc Linh còn hạn chế, không đủ đáp ứng nhu cầu thị trường. Do vậy, việc nghiên cứu phát triển phương pháp mới để chủ động sản xuất sâm sinh khối là rất cần thiết, góp phần đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng về loại dược liệu quý, đồng thời xây dựng thương hiệu sâm Việt Nam.

Với việc thực hiện thành công dự án nêu trên, Trung tâm Công nghệ sinh học TP Hồ Chí Minh đang hoàn thiện các quy trình sản xuất sinh khối, sản xuất cao chiết bán thành phẩm và các sản phẩm từ rễ tóc sâm Ngọc Linh để cung cấp ra thị trường; đồng thời sẵn sàng chuyển giao độc quyền hoặc từng phần cho các đơn vị đối tác để phát triển sản phẩm, đưa sản phẩm phục vụ sức khỏe con người

(Nguồn: “Làm chủ quy trình công nghệ Bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh”; Lâm Vỹ Nguyên; Khoa học - Công nghệ và Đổi mới sáng tạo; Số 6 năm 2021).

Dự án “Làm chủ quy trình công nghệ Bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh” (Panax vietnamensis Ha et Grushv.) được phê duyệt năm bao nhiêu?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Làm chủ quy trình công nghệ Bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh

Thông qua việc thực hiện nhiệm vụ thuộc Dự án “Đẩy mạnh đổi mới sáng tạo thông qua nghiên cứu, khoa học và công nghệ - FIRST” do Bộ Khoa học và Công nghệ tài trợ, các nhà khoa học thuộc Trung tâm Công nghệ sinh học TP Hồ Chí Minh (Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn TP Hồ Chí Minh) đã làm chủ quy trình công nghệ Bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh (Panax vietnamensis Ha et Grushv.) và thương mại hóa thành công sản phẩm, góp phần chủ động nguồn nguyên liệu đáp ứng nhu cầu mở rộng sản xuất theo hướng công nghiệp.

Loài sâm quý cần bảo tồn và phát triển

Sâm Ngọc Linh (còn gọi là sâm Việt Nam) có tên khoa học là Panax vietnamensis Ha et Grushv., thuộc chi Nhân sâm - Panax, họ Ngũ Gia Bì - Araliaceae. Sâm mọc tập trung ở vùng núi Ngọc Linh (thuộc địa phận 2 tỉnh Quảng Nam và Kon Tum) và là 1 trong 4 loại sâm quý của đất nước.

Nhiều nghiên cứu cho thấy, sâm Ngọc Linh không chỉ chứa nhiều saponin chính (G-Rb1, G-Rb2,    G-Rb3, G-Rc, G-Rd, G-Re, G-Rg1…) giống như trong sâm Triều Tiên, mà còn chứa thêm các saponin khung Dammaran có cấu trúc Ocotillol chưa tìm thấy ở sâm Triều Tiên. Kết quả nghiên cứu thân - rễ của sâm Ngọc Linh cho thấy, có hơn 52 hoạt chất saponin (Gingsenoside), trong đó có 26 hợp chất có cấu trúc hoá học đã biết và 26 saponin có cấu trúc mới không có trong các loại nhân sâm khác được đặt tên là Vina-ginsenoside-R1-R24. Đặc biệt, sâm Ngọc Linh chứa chất Majonoside-R2 - là saponin nhóm Ocotillol chiếm hơn nửa tổng hàm lượng saponin của sâm Ngọc Linh và là nhóm chất có tác dụng quyết định đến chất lượng loài sâm Việt. Ngoài thành phần saponin, sâm Ngọc Linh còn chứa 17 thành phần acid béo, 18 acid amin, 20 nguyên tố vi lượng và các hợp chất sterol, cụ thể là β-sitosterol và daucosterin (β-sitosteryl-3-O-β- D-glucopyranosid). Trong củ và rễ sâm còn chứa các hợp chất glucid như đường tự do, đường toàn phần, tinh dầu, vitamin C…

Những kết quả nghiên cứu dược lý thực nghiệm sâm Ngọc Linh đã chứng minh, sâm Ngọc Linh có tác dụng chống stress, kích thích hệ miễn dịch, chống ôxy hóa, phòng chống ung thư, bảo vệ tế bào gan... Đặc biệt, sâm Ngọc Linh có một số tính năng mà sâm khác không thể có như tính kháng khuẩn, chống trầm cảm, hiệu lực tốt với thuốc kháng sinh, thuốc điều trị bệnh tiểu đường... Chính vì những đặc tính quý hiếm này, sâm Ngọc Linh đang trở thành đối tượng săn tìm, bị khai thác, mua bán, sử dụng một cách khó kiểm soát.

Những năm gần đây đang nổi lên xu hướng ứng dụng công nghệ nuôi cấy sinh khối tế bào để sản xuất các hợp chất thứ cấp quan trọng trong ngành dược thay thế phương pháp truyền thống chiết xuất từ cây trồng cho hiệu quả thấp, có thể dẫn đến nguy cơ tuyệt chủng một số loài như Taxus brevifolia, Podophyllum hexandrum và gây ảnh hưởng đến hệ sinh thái. Tuy nhiên, việc sản xuất các hoạt chất thứ cấp bằng phương pháp nuôi cấy tế bào vẫn còn một số tồn tại, như dòng tế bào không ổn định, năng suất thấp và cần bổ sung chất dinh dưỡng vào môi trường nuôi cấy… Do vậy, hướng mới để sản xuất các hoạt chất thứ cấp là nuôi cấy rễ tóc.

Làm chủ công nghệ bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh

Ở Việt Nam, Trung tâm Công nghệ sinh học TP Hồ Chí Minh là đơn vị đầu tiên nghiên cứu thành công việc nghiên cứu tạo rễ tóc và phân tích các hợp chất thứ cấp sâm Ngọc Linh trên cơ sở hợp tác với Trường Đại học Picardie Julles Verne (Pháp). Kết quả là đã tạo ra những dòng rễ tái sinh tốt, sinh trưởng mạnh trên môi trường thạch rắn và lỏng lắc. Tuy nhiên, để làm chủ quy trình công nghệ Bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh và thương mại hóa sản phẩm đòi hỏi phải có sự liên kết, phối hợp giữa các nhà nghiên cứu công nghệ sinh học thực vật, hoá hữu cơ, dược và nhà sản xuất, nhà kinh doanh để tạo ra chuỗi khép kín từ khâu sản xuất nguyên liệu đến khâu cung cấp ra thị trường. Chuỗi liên kết này giúp cho kết quả nghiên cứu được ứng dụng vào thực tế sản xuất và thương mại hoá sản phẩm, góp phần kết nối cung - cầu.

Trên cơ sở kết quả nghiên cứu hoàn thiện công nghệ sản xuất sinh khối rễ tóc sâm Ngọc Linh đã đạt được, năm 2018, Trung tâm Công nghệ sinh học TP Hồ Chí Minh đã đề xuất và được Ban Quản lý Dự án FIRST phê duyệt thực hiện tiểu dự án: “Làm chủ quy trình công nghệ Bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh (Panax vietnamensis Ha et Grushv.) và thương mại hóa sản phẩm” để sản xuất sinh khối rễ tóc sâm Ngọc Linh quy mô công nghiệp, mang lại lợi ích kinh tế và góp phần vào việc chăm sóc sức khỏe con nguời.

Sau 2 năm triển khai thực hiện, dự án đã: 1) Xây dựng thành công quy trình công nghệ nuôi cấy rễ tóc sâm Ngọc Linh ở quy mô công nghiệp trên các Bioreactor 20 lít; 2) Sản xuất được 1.527,4 kg rễ tóc - sinh khối tươi phục vụ sản xuất cao chiết dạng bán thành phẩm làm nguồn nguyên liệu sản xuất nước uống và viên nang, xây dựng tiêu chuẩn nguồn nguyên liệu; 3) Xây dựng thành công quy trình chiết xuất cao chiết bán thành phẩm. Kết quả phân tích, đánh giá tính an toàn và tác động tăng lực của cao chiết rễ tóc Sâm Ngọc Linh đều đạt các chỉ tiêu đối với thuốc có nguồn gốc dược liệu; 4) Bào chế được 30 kg cao chiết bán thành phẩm từ sinh khối rễ tóc sâm Ngọc Linh làm viên nang cứng; 5) Xây dựng thành công quy trình sản xuất thực phẩm chức năng dạng viên nang cứng đạt yêu cầu chất lượng sản phẩm theo quy định; 6) Xây dựng thành công quy trình sản xuất nước uống từ rễ tóc sâm Ngọc Linh; 7) Bào chế và sản xuất được 103.949 viên nang cứng, 11.000 bịch (túi) nước sâm uống; 8) Đăng ký bảo hộ quy trình công nghệ Bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh…

Hiện nay nhu cầu về sâm Ngọc Linh và các sản phẩm từ sâm Ngọc Linh ngày càng tăng, trong khi các phương pháp di thực và trồng sâm Ngọc Linh còn hạn chế, không đủ đáp ứng nhu cầu thị trường. Do vậy, việc nghiên cứu phát triển phương pháp mới để chủ động sản xuất sâm sinh khối là rất cần thiết, góp phần đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng về loại dược liệu quý, đồng thời xây dựng thương hiệu sâm Việt Nam.

Với việc thực hiện thành công dự án nêu trên, Trung tâm Công nghệ sinh học TP Hồ Chí Minh đang hoàn thiện các quy trình sản xuất sinh khối, sản xuất cao chiết bán thành phẩm và các sản phẩm từ rễ tóc sâm Ngọc Linh để cung cấp ra thị trường; đồng thời sẵn sàng chuyển giao độc quyền hoặc từng phần cho các đơn vị đối tác để phát triển sản phẩm, đưa sản phẩm phục vụ sức khỏe con người

(Nguồn: “Làm chủ quy trình công nghệ Bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh”; Lâm Vỹ Nguyên; Khoa học - Công nghệ và Đổi mới sáng tạo; Số 6 năm 2021).

Trung tâm Công nghệ sinh học TP Hồ Chí Minh đã hợp tác với trường đại học nào để nghiên cứu tạo rễ tóc và phân tích các hợp chất thứ cấp sâm Ngọc Linh?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Làm chủ quy trình công nghệ Bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh

Thông qua việc thực hiện nhiệm vụ thuộc Dự án “Đẩy mạnh đổi mới sáng tạo thông qua nghiên cứu, khoa học và công nghệ - FIRST” do Bộ Khoa học và Công nghệ tài trợ, các nhà khoa học thuộc Trung tâm Công nghệ sinh học TP Hồ Chí Minh (Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn TP Hồ Chí Minh) đã làm chủ quy trình công nghệ Bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh (Panax vietnamensis Ha et Grushv.) và thương mại hóa thành công sản phẩm, góp phần chủ động nguồn nguyên liệu đáp ứng nhu cầu mở rộng sản xuất theo hướng công nghiệp.

Loài sâm quý cần bảo tồn và phát triển

Sâm Ngọc Linh (còn gọi là sâm Việt Nam) có tên khoa học là Panax vietnamensis Ha et Grushv., thuộc chi Nhân sâm - Panax, họ Ngũ Gia Bì - Araliaceae. Sâm mọc tập trung ở vùng núi Ngọc Linh (thuộc địa phận 2 tỉnh Quảng Nam và Kon Tum) và là 1 trong 4 loại sâm quý của đất nước.

Nhiều nghiên cứu cho thấy, sâm Ngọc Linh không chỉ chứa nhiều saponin chính (G-Rb1, G-Rb2,    G-Rb3, G-Rc, G-Rd, G-Re, G-Rg1…) giống như trong sâm Triều Tiên, mà còn chứa thêm các saponin khung Dammaran có cấu trúc Ocotillol chưa tìm thấy ở sâm Triều Tiên. Kết quả nghiên cứu thân - rễ của sâm Ngọc Linh cho thấy, có hơn 52 hoạt chất saponin (Gingsenoside), trong đó có 26 hợp chất có cấu trúc hoá học đã biết và 26 saponin có cấu trúc mới không có trong các loại nhân sâm khác được đặt tên là Vina-ginsenoside-R1-R24. Đặc biệt, sâm Ngọc Linh chứa chất Majonoside-R2 - là saponin nhóm Ocotillol chiếm hơn nửa tổng hàm lượng saponin của sâm Ngọc Linh và là nhóm chất có tác dụng quyết định đến chất lượng loài sâm Việt. Ngoài thành phần saponin, sâm Ngọc Linh còn chứa 17 thành phần acid béo, 18 acid amin, 20 nguyên tố vi lượng và các hợp chất sterol, cụ thể là β-sitosterol và daucosterin (β-sitosteryl-3-O-β- D-glucopyranosid). Trong củ và rễ sâm còn chứa các hợp chất glucid như đường tự do, đường toàn phần, tinh dầu, vitamin C…

Những kết quả nghiên cứu dược lý thực nghiệm sâm Ngọc Linh đã chứng minh, sâm Ngọc Linh có tác dụng chống stress, kích thích hệ miễn dịch, chống ôxy hóa, phòng chống ung thư, bảo vệ tế bào gan... Đặc biệt, sâm Ngọc Linh có một số tính năng mà sâm khác không thể có như tính kháng khuẩn, chống trầm cảm, hiệu lực tốt với thuốc kháng sinh, thuốc điều trị bệnh tiểu đường... Chính vì những đặc tính quý hiếm này, sâm Ngọc Linh đang trở thành đối tượng săn tìm, bị khai thác, mua bán, sử dụng một cách khó kiểm soát.

Những năm gần đây đang nổi lên xu hướng ứng dụng công nghệ nuôi cấy sinh khối tế bào để sản xuất các hợp chất thứ cấp quan trọng trong ngành dược thay thế phương pháp truyền thống chiết xuất từ cây trồng cho hiệu quả thấp, có thể dẫn đến nguy cơ tuyệt chủng một số loài như Taxus brevifolia, Podophyllum hexandrum và gây ảnh hưởng đến hệ sinh thái. Tuy nhiên, việc sản xuất các hoạt chất thứ cấp bằng phương pháp nuôi cấy tế bào vẫn còn một số tồn tại, như dòng tế bào không ổn định, năng suất thấp và cần bổ sung chất dinh dưỡng vào môi trường nuôi cấy… Do vậy, hướng mới để sản xuất các hoạt chất thứ cấp là nuôi cấy rễ tóc.

Làm chủ công nghệ bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh

Ở Việt Nam, Trung tâm Công nghệ sinh học TP Hồ Chí Minh là đơn vị đầu tiên nghiên cứu thành công việc nghiên cứu tạo rễ tóc và phân tích các hợp chất thứ cấp sâm Ngọc Linh trên cơ sở hợp tác với Trường Đại học Picardie Julles Verne (Pháp). Kết quả là đã tạo ra những dòng rễ tái sinh tốt, sinh trưởng mạnh trên môi trường thạch rắn và lỏng lắc. Tuy nhiên, để làm chủ quy trình công nghệ Bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh và thương mại hóa sản phẩm đòi hỏi phải có sự liên kết, phối hợp giữa các nhà nghiên cứu công nghệ sinh học thực vật, hoá hữu cơ, dược và nhà sản xuất, nhà kinh doanh để tạo ra chuỗi khép kín từ khâu sản xuất nguyên liệu đến khâu cung cấp ra thị trường. Chuỗi liên kết này giúp cho kết quả nghiên cứu được ứng dụng vào thực tế sản xuất và thương mại hoá sản phẩm, góp phần kết nối cung - cầu.

Trên cơ sở kết quả nghiên cứu hoàn thiện công nghệ sản xuất sinh khối rễ tóc sâm Ngọc Linh đã đạt được, năm 2018, Trung tâm Công nghệ sinh học TP Hồ Chí Minh đã đề xuất và được Ban Quản lý Dự án FIRST phê duyệt thực hiện tiểu dự án: “Làm chủ quy trình công nghệ Bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh (Panax vietnamensis Ha et Grushv.) và thương mại hóa sản phẩm” để sản xuất sinh khối rễ tóc sâm Ngọc Linh quy mô công nghiệp, mang lại lợi ích kinh tế và góp phần vào việc chăm sóc sức khỏe con nguời.

Sau 2 năm triển khai thực hiện, dự án đã: 1) Xây dựng thành công quy trình công nghệ nuôi cấy rễ tóc sâm Ngọc Linh ở quy mô công nghiệp trên các Bioreactor 20 lít; 2) Sản xuất được 1.527,4 kg rễ tóc - sinh khối tươi phục vụ sản xuất cao chiết dạng bán thành phẩm làm nguồn nguyên liệu sản xuất nước uống và viên nang, xây dựng tiêu chuẩn nguồn nguyên liệu; 3) Xây dựng thành công quy trình chiết xuất cao chiết bán thành phẩm. Kết quả phân tích, đánh giá tính an toàn và tác động tăng lực của cao chiết rễ tóc Sâm Ngọc Linh đều đạt các chỉ tiêu đối với thuốc có nguồn gốc dược liệu; 4) Bào chế được 30 kg cao chiết bán thành phẩm từ sinh khối rễ tóc sâm Ngọc Linh làm viên nang cứng; 5) Xây dựng thành công quy trình sản xuất thực phẩm chức năng dạng viên nang cứng đạt yêu cầu chất lượng sản phẩm theo quy định; 6) Xây dựng thành công quy trình sản xuất nước uống từ rễ tóc sâm Ngọc Linh; 7) Bào chế và sản xuất được 103.949 viên nang cứng, 11.000 bịch (túi) nước sâm uống; 8) Đăng ký bảo hộ quy trình công nghệ Bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh…

Hiện nay nhu cầu về sâm Ngọc Linh và các sản phẩm từ sâm Ngọc Linh ngày càng tăng, trong khi các phương pháp di thực và trồng sâm Ngọc Linh còn hạn chế, không đủ đáp ứng nhu cầu thị trường. Do vậy, việc nghiên cứu phát triển phương pháp mới để chủ động sản xuất sâm sinh khối là rất cần thiết, góp phần đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng về loại dược liệu quý, đồng thời xây dựng thương hiệu sâm Việt Nam.

Với việc thực hiện thành công dự án nêu trên, Trung tâm Công nghệ sinh học TP Hồ Chí Minh đang hoàn thiện các quy trình sản xuất sinh khối, sản xuất cao chiết bán thành phẩm và các sản phẩm từ rễ tóc sâm Ngọc Linh để cung cấp ra thị trường; đồng thời sẵn sàng chuyển giao độc quyền hoặc từng phần cho các đơn vị đối tác để phát triển sản phẩm, đưa sản phẩm phục vụ sức khỏe con người

(Nguồn: “Làm chủ quy trình công nghệ Bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh”; Lâm Vỹ Nguyên; Khoa học - Công nghệ và Đổi mới sáng tạo; Số 6 năm 2021).

Theo bài đọc, sâm Ngọc Linh có tác dụng nào?

Chọn đáp án không đúng:

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Làm chủ quy trình công nghệ Bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh

Thông qua việc thực hiện nhiệm vụ thuộc Dự án “Đẩy mạnh đổi mới sáng tạo thông qua nghiên cứu, khoa học và công nghệ - FIRST” do Bộ Khoa học và Công nghệ tài trợ, các nhà khoa học thuộc Trung tâm Công nghệ sinh học TP Hồ Chí Minh (Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn TP Hồ Chí Minh) đã làm chủ quy trình công nghệ Bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh (Panax vietnamensis Ha et Grushv.) và thương mại hóa thành công sản phẩm, góp phần chủ động nguồn nguyên liệu đáp ứng nhu cầu mở rộng sản xuất theo hướng công nghiệp.

Loài sâm quý cần bảo tồn và phát triển

Sâm Ngọc Linh (còn gọi là sâm Việt Nam) có tên khoa học là Panax vietnamensis Ha et Grushv., thuộc chi Nhân sâm - Panax, họ Ngũ Gia Bì - Araliaceae. Sâm mọc tập trung ở vùng núi Ngọc Linh (thuộc địa phận 2 tỉnh Quảng Nam và Kon Tum) và là 1 trong 4 loại sâm quý của đất nước.

Nhiều nghiên cứu cho thấy, sâm Ngọc Linh không chỉ chứa nhiều saponin chính (G-Rb1, G-Rb2,    G-Rb3, G-Rc, G-Rd, G-Re, G-Rg1…) giống như trong sâm Triều Tiên, mà còn chứa thêm các saponin khung Dammaran có cấu trúc Ocotillol chưa tìm thấy ở sâm Triều Tiên. Kết quả nghiên cứu thân - rễ của sâm Ngọc Linh cho thấy, có hơn 52 hoạt chất saponin (Gingsenoside), trong đó có 26 hợp chất có cấu trúc hoá học đã biết và 26 saponin có cấu trúc mới không có trong các loại nhân sâm khác được đặt tên là Vina-ginsenoside-R1-R24. Đặc biệt, sâm Ngọc Linh chứa chất Majonoside-R2 - là saponin nhóm Ocotillol chiếm hơn nửa tổng hàm lượng saponin của sâm Ngọc Linh và là nhóm chất có tác dụng quyết định đến chất lượng loài sâm Việt. Ngoài thành phần saponin, sâm Ngọc Linh còn chứa 17 thành phần acid béo, 18 acid amin, 20 nguyên tố vi lượng và các hợp chất sterol, cụ thể là β-sitosterol và daucosterin (β-sitosteryl-3-O-β- D-glucopyranosid). Trong củ và rễ sâm còn chứa các hợp chất glucid như đường tự do, đường toàn phần, tinh dầu, vitamin C…

Những kết quả nghiên cứu dược lý thực nghiệm sâm Ngọc Linh đã chứng minh, sâm Ngọc Linh có tác dụng chống stress, kích thích hệ miễn dịch, chống ôxy hóa, phòng chống ung thư, bảo vệ tế bào gan... Đặc biệt, sâm Ngọc Linh có một số tính năng mà sâm khác không thể có như tính kháng khuẩn, chống trầm cảm, hiệu lực tốt với thuốc kháng sinh, thuốc điều trị bệnh tiểu đường... Chính vì những đặc tính quý hiếm này, sâm Ngọc Linh đang trở thành đối tượng săn tìm, bị khai thác, mua bán, sử dụng một cách khó kiểm soát.

Những năm gần đây đang nổi lên xu hướng ứng dụng công nghệ nuôi cấy sinh khối tế bào để sản xuất các hợp chất thứ cấp quan trọng trong ngành dược thay thế phương pháp truyền thống chiết xuất từ cây trồng cho hiệu quả thấp, có thể dẫn đến nguy cơ tuyệt chủng một số loài như Taxus brevifolia, Podophyllum hexandrum và gây ảnh hưởng đến hệ sinh thái. Tuy nhiên, việc sản xuất các hoạt chất thứ cấp bằng phương pháp nuôi cấy tế bào vẫn còn một số tồn tại, như dòng tế bào không ổn định, năng suất thấp và cần bổ sung chất dinh dưỡng vào môi trường nuôi cấy… Do vậy, hướng mới để sản xuất các hoạt chất thứ cấp là nuôi cấy rễ tóc.

Làm chủ công nghệ bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh

Ở Việt Nam, Trung tâm Công nghệ sinh học TP Hồ Chí Minh là đơn vị đầu tiên nghiên cứu thành công việc nghiên cứu tạo rễ tóc và phân tích các hợp chất thứ cấp sâm Ngọc Linh trên cơ sở hợp tác với Trường Đại học Picardie Julles Verne (Pháp). Kết quả là đã tạo ra những dòng rễ tái sinh tốt, sinh trưởng mạnh trên môi trường thạch rắn và lỏng lắc. Tuy nhiên, để làm chủ quy trình công nghệ Bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh và thương mại hóa sản phẩm đòi hỏi phải có sự liên kết, phối hợp giữa các nhà nghiên cứu công nghệ sinh học thực vật, hoá hữu cơ, dược và nhà sản xuất, nhà kinh doanh để tạo ra chuỗi khép kín từ khâu sản xuất nguyên liệu đến khâu cung cấp ra thị trường. Chuỗi liên kết này giúp cho kết quả nghiên cứu được ứng dụng vào thực tế sản xuất và thương mại hoá sản phẩm, góp phần kết nối cung - cầu.

Trên cơ sở kết quả nghiên cứu hoàn thiện công nghệ sản xuất sinh khối rễ tóc sâm Ngọc Linh đã đạt được, năm 2018, Trung tâm Công nghệ sinh học TP Hồ Chí Minh đã đề xuất và được Ban Quản lý Dự án FIRST phê duyệt thực hiện tiểu dự án: “Làm chủ quy trình công nghệ Bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh (Panax vietnamensis Ha et Grushv.) và thương mại hóa sản phẩm” để sản xuất sinh khối rễ tóc sâm Ngọc Linh quy mô công nghiệp, mang lại lợi ích kinh tế và góp phần vào việc chăm sóc sức khỏe con nguời.

Sau 2 năm triển khai thực hiện, dự án đã: 1) Xây dựng thành công quy trình công nghệ nuôi cấy rễ tóc sâm Ngọc Linh ở quy mô công nghiệp trên các Bioreactor 20 lít; 2) Sản xuất được 1.527,4 kg rễ tóc - sinh khối tươi phục vụ sản xuất cao chiết dạng bán thành phẩm làm nguồn nguyên liệu sản xuất nước uống và viên nang, xây dựng tiêu chuẩn nguồn nguyên liệu; 3) Xây dựng thành công quy trình chiết xuất cao chiết bán thành phẩm. Kết quả phân tích, đánh giá tính an toàn và tác động tăng lực của cao chiết rễ tóc Sâm Ngọc Linh đều đạt các chỉ tiêu đối với thuốc có nguồn gốc dược liệu; 4) Bào chế được 30 kg cao chiết bán thành phẩm từ sinh khối rễ tóc sâm Ngọc Linh làm viên nang cứng; 5) Xây dựng thành công quy trình sản xuất thực phẩm chức năng dạng viên nang cứng đạt yêu cầu chất lượng sản phẩm theo quy định; 6) Xây dựng thành công quy trình sản xuất nước uống từ rễ tóc sâm Ngọc Linh; 7) Bào chế và sản xuất được 103.949 viên nang cứng, 11.000 bịch (túi) nước sâm uống; 8) Đăng ký bảo hộ quy trình công nghệ Bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh…

Hiện nay nhu cầu về sâm Ngọc Linh và các sản phẩm từ sâm Ngọc Linh ngày càng tăng, trong khi các phương pháp di thực và trồng sâm Ngọc Linh còn hạn chế, không đủ đáp ứng nhu cầu thị trường. Do vậy, việc nghiên cứu phát triển phương pháp mới để chủ động sản xuất sâm sinh khối là rất cần thiết, góp phần đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng về loại dược liệu quý, đồng thời xây dựng thương hiệu sâm Việt Nam.

Với việc thực hiện thành công dự án nêu trên, Trung tâm Công nghệ sinh học TP Hồ Chí Minh đang hoàn thiện các quy trình sản xuất sinh khối, sản xuất cao chiết bán thành phẩm và các sản phẩm từ rễ tóc sâm Ngọc Linh để cung cấp ra thị trường; đồng thời sẵn sàng chuyển giao độc quyền hoặc từng phần cho các đơn vị đối tác để phát triển sản phẩm, đưa sản phẩm phục vụ sức khỏe con người

(Nguồn: “Làm chủ quy trình công nghệ Bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh”; Lâm Vỹ Nguyên; Khoa học - Công nghệ và Đổi mới sáng tạo; Số 6 năm 2021).

Theo bài đọc, trong củ và rễ sâm Ngọc Linh KHÔNG chứa các hợp chất nào?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Làm chủ quy trình công nghệ Bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh

Thông qua việc thực hiện nhiệm vụ thuộc Dự án “Đẩy mạnh đổi mới sáng tạo thông qua nghiên cứu, khoa học và công nghệ - FIRST” do Bộ Khoa học và Công nghệ tài trợ, các nhà khoa học thuộc Trung tâm Công nghệ sinh học TP Hồ Chí Minh (Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn TP Hồ Chí Minh) đã làm chủ quy trình công nghệ Bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh (Panax vietnamensis Ha et Grushv.) và thương mại hóa thành công sản phẩm, góp phần chủ động nguồn nguyên liệu đáp ứng nhu cầu mở rộng sản xuất theo hướng công nghiệp.

Loài sâm quý cần bảo tồn và phát triển

Sâm Ngọc Linh (còn gọi là sâm Việt Nam) có tên khoa học là Panax vietnamensis Ha et Grushv., thuộc chi Nhân sâm - Panax, họ Ngũ Gia Bì - Araliaceae. Sâm mọc tập trung ở vùng núi Ngọc Linh (thuộc địa phận 2 tỉnh Quảng Nam và Kon Tum) và là 1 trong 4 loại sâm quý của đất nước.

Nhiều nghiên cứu cho thấy, sâm Ngọc Linh không chỉ chứa nhiều saponin chính (G-Rb1, G-Rb2,    G-Rb3, G-Rc, G-Rd, G-Re, G-Rg1…) giống như trong sâm Triều Tiên, mà còn chứa thêm các saponin khung Dammaran có cấu trúc Ocotillol chưa tìm thấy ở sâm Triều Tiên. Kết quả nghiên cứu thân - rễ của sâm Ngọc Linh cho thấy, có hơn 52 hoạt chất saponin (Gingsenoside), trong đó có 26 hợp chất có cấu trúc hoá học đã biết và 26 saponin có cấu trúc mới không có trong các loại nhân sâm khác được đặt tên là Vina-ginsenoside-R1-R24. Đặc biệt, sâm Ngọc Linh chứa chất Majonoside-R2 - là saponin nhóm Ocotillol chiếm hơn nửa tổng hàm lượng saponin của sâm Ngọc Linh và là nhóm chất có tác dụng quyết định đến chất lượng loài sâm Việt. Ngoài thành phần saponin, sâm Ngọc Linh còn chứa 17 thành phần acid béo, 18 acid amin, 20 nguyên tố vi lượng và các hợp chất sterol, cụ thể là β-sitosterol và daucosterin (β-sitosteryl-3-O-β- D-glucopyranosid). Trong củ và rễ sâm còn chứa các hợp chất glucid như đường tự do, đường toàn phần, tinh dầu, vitamin C…

Những kết quả nghiên cứu dược lý thực nghiệm sâm Ngọc Linh đã chứng minh, sâm Ngọc Linh có tác dụng chống stress, kích thích hệ miễn dịch, chống ôxy hóa, phòng chống ung thư, bảo vệ tế bào gan... Đặc biệt, sâm Ngọc Linh có một số tính năng mà sâm khác không thể có như tính kháng khuẩn, chống trầm cảm, hiệu lực tốt với thuốc kháng sinh, thuốc điều trị bệnh tiểu đường... Chính vì những đặc tính quý hiếm này, sâm Ngọc Linh đang trở thành đối tượng săn tìm, bị khai thác, mua bán, sử dụng một cách khó kiểm soát.

Những năm gần đây đang nổi lên xu hướng ứng dụng công nghệ nuôi cấy sinh khối tế bào để sản xuất các hợp chất thứ cấp quan trọng trong ngành dược thay thế phương pháp truyền thống chiết xuất từ cây trồng cho hiệu quả thấp, có thể dẫn đến nguy cơ tuyệt chủng một số loài như Taxus brevifolia, Podophyllum hexandrum và gây ảnh hưởng đến hệ sinh thái. Tuy nhiên, việc sản xuất các hoạt chất thứ cấp bằng phương pháp nuôi cấy tế bào vẫn còn một số tồn tại, như dòng tế bào không ổn định, năng suất thấp và cần bổ sung chất dinh dưỡng vào môi trường nuôi cấy… Do vậy, hướng mới để sản xuất các hoạt chất thứ cấp là nuôi cấy rễ tóc.

Làm chủ công nghệ bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh

Ở Việt Nam, Trung tâm Công nghệ sinh học TP Hồ Chí Minh là đơn vị đầu tiên nghiên cứu thành công việc nghiên cứu tạo rễ tóc và phân tích các hợp chất thứ cấp sâm Ngọc Linh trên cơ sở hợp tác với Trường Đại học Picardie Julles Verne (Pháp). Kết quả là đã tạo ra những dòng rễ tái sinh tốt, sinh trưởng mạnh trên môi trường thạch rắn và lỏng lắc. Tuy nhiên, để làm chủ quy trình công nghệ Bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh và thương mại hóa sản phẩm đòi hỏi phải có sự liên kết, phối hợp giữa các nhà nghiên cứu công nghệ sinh học thực vật, hoá hữu cơ, dược và nhà sản xuất, nhà kinh doanh để tạo ra chuỗi khép kín từ khâu sản xuất nguyên liệu đến khâu cung cấp ra thị trường. Chuỗi liên kết này giúp cho kết quả nghiên cứu được ứng dụng vào thực tế sản xuất và thương mại hoá sản phẩm, góp phần kết nối cung - cầu.

Trên cơ sở kết quả nghiên cứu hoàn thiện công nghệ sản xuất sinh khối rễ tóc sâm Ngọc Linh đã đạt được, năm 2018, Trung tâm Công nghệ sinh học TP Hồ Chí Minh đã đề xuất và được Ban Quản lý Dự án FIRST phê duyệt thực hiện tiểu dự án: “Làm chủ quy trình công nghệ Bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh (Panax vietnamensis Ha et Grushv.) và thương mại hóa sản phẩm” để sản xuất sinh khối rễ tóc sâm Ngọc Linh quy mô công nghiệp, mang lại lợi ích kinh tế và góp phần vào việc chăm sóc sức khỏe con nguời.

Sau 2 năm triển khai thực hiện, dự án đã: 1) Xây dựng thành công quy trình công nghệ nuôi cấy rễ tóc sâm Ngọc Linh ở quy mô công nghiệp trên các Bioreactor 20 lít; 2) Sản xuất được 1.527,4 kg rễ tóc - sinh khối tươi phục vụ sản xuất cao chiết dạng bán thành phẩm làm nguồn nguyên liệu sản xuất nước uống và viên nang, xây dựng tiêu chuẩn nguồn nguyên liệu; 3) Xây dựng thành công quy trình chiết xuất cao chiết bán thành phẩm. Kết quả phân tích, đánh giá tính an toàn và tác động tăng lực của cao chiết rễ tóc Sâm Ngọc Linh đều đạt các chỉ tiêu đối với thuốc có nguồn gốc dược liệu; 4) Bào chế được 30 kg cao chiết bán thành phẩm từ sinh khối rễ tóc sâm Ngọc Linh làm viên nang cứng; 5) Xây dựng thành công quy trình sản xuất thực phẩm chức năng dạng viên nang cứng đạt yêu cầu chất lượng sản phẩm theo quy định; 6) Xây dựng thành công quy trình sản xuất nước uống từ rễ tóc sâm Ngọc Linh; 7) Bào chế và sản xuất được 103.949 viên nang cứng, 11.000 bịch (túi) nước sâm uống; 8) Đăng ký bảo hộ quy trình công nghệ Bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh…

Hiện nay nhu cầu về sâm Ngọc Linh và các sản phẩm từ sâm Ngọc Linh ngày càng tăng, trong khi các phương pháp di thực và trồng sâm Ngọc Linh còn hạn chế, không đủ đáp ứng nhu cầu thị trường. Do vậy, việc nghiên cứu phát triển phương pháp mới để chủ động sản xuất sâm sinh khối là rất cần thiết, góp phần đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng về loại dược liệu quý, đồng thời xây dựng thương hiệu sâm Việt Nam.

Với việc thực hiện thành công dự án nêu trên, Trung tâm Công nghệ sinh học TP Hồ Chí Minh đang hoàn thiện các quy trình sản xuất sinh khối, sản xuất cao chiết bán thành phẩm và các sản phẩm từ rễ tóc sâm Ngọc Linh để cung cấp ra thị trường; đồng thời sẵn sàng chuyển giao độc quyền hoặc từng phần cho các đơn vị đối tác để phát triển sản phẩm, đưa sản phẩm phục vụ sức khỏe con người

(Nguồn: “Làm chủ quy trình công nghệ Bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh”; Lâm Vỹ Nguyên; Khoa học - Công nghệ và Đổi mới sáng tạo; Số 6 năm 2021).

Theo bài đọc, ý nào dưới đây KHÔNG đúng về sâm Ngọc Linh?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Làm chủ quy trình công nghệ Bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh

Thông qua việc thực hiện nhiệm vụ thuộc Dự án “Đẩy mạnh đổi mới sáng tạo thông qua nghiên cứu, khoa học và công nghệ - FIRST” do Bộ Khoa học và Công nghệ tài trợ, các nhà khoa học thuộc Trung tâm Công nghệ sinh học TP Hồ Chí Minh (Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn TP Hồ Chí Minh) đã làm chủ quy trình công nghệ Bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh (Panax vietnamensis Ha et Grushv.) và thương mại hóa thành công sản phẩm, góp phần chủ động nguồn nguyên liệu đáp ứng nhu cầu mở rộng sản xuất theo hướng công nghiệp.

Loài sâm quý cần bảo tồn và phát triển

Sâm Ngọc Linh (còn gọi là sâm Việt Nam) có tên khoa học là Panax vietnamensis Ha et Grushv., thuộc chi Nhân sâm - Panax, họ Ngũ Gia Bì - Araliaceae. Sâm mọc tập trung ở vùng núi Ngọc Linh (thuộc địa phận 2 tỉnh Quảng Nam và Kon Tum) và là 1 trong 4 loại sâm quý của đất nước.

Nhiều nghiên cứu cho thấy, sâm Ngọc Linh không chỉ chứa nhiều saponin chính (G-Rb1, G-Rb2,    G-Rb3, G-Rc, G-Rd, G-Re, G-Rg1…) giống như trong sâm Triều Tiên, mà còn chứa thêm các saponin khung Dammaran có cấu trúc Ocotillol chưa tìm thấy ở sâm Triều Tiên. Kết quả nghiên cứu thân - rễ của sâm Ngọc Linh cho thấy, có hơn 52 hoạt chất saponin (Gingsenoside), trong đó có 26 hợp chất có cấu trúc hoá học đã biết và 26 saponin có cấu trúc mới không có trong các loại nhân sâm khác được đặt tên là Vina-ginsenoside-R1-R24. Đặc biệt, sâm Ngọc Linh chứa chất Majonoside-R2 - là saponin nhóm Ocotillol chiếm hơn nửa tổng hàm lượng saponin của sâm Ngọc Linh và là nhóm chất có tác dụng quyết định đến chất lượng loài sâm Việt. Ngoài thành phần saponin, sâm Ngọc Linh còn chứa 17 thành phần acid béo, 18 acid amin, 20 nguyên tố vi lượng và các hợp chất sterol, cụ thể là β-sitosterol và daucosterin (β-sitosteryl-3-O-β- D-glucopyranosid). Trong củ và rễ sâm còn chứa các hợp chất glucid như đường tự do, đường toàn phần, tinh dầu, vitamin C…

Những kết quả nghiên cứu dược lý thực nghiệm sâm Ngọc Linh đã chứng minh, sâm Ngọc Linh có tác dụng chống stress, kích thích hệ miễn dịch, chống ôxy hóa, phòng chống ung thư, bảo vệ tế bào gan... Đặc biệt, sâm Ngọc Linh có một số tính năng mà sâm khác không thể có như tính kháng khuẩn, chống trầm cảm, hiệu lực tốt với thuốc kháng sinh, thuốc điều trị bệnh tiểu đường... Chính vì những đặc tính quý hiếm này, sâm Ngọc Linh đang trở thành đối tượng săn tìm, bị khai thác, mua bán, sử dụng một cách khó kiểm soát.

Những năm gần đây đang nổi lên xu hướng ứng dụng công nghệ nuôi cấy sinh khối tế bào để sản xuất các hợp chất thứ cấp quan trọng trong ngành dược thay thế phương pháp truyền thống chiết xuất từ cây trồng cho hiệu quả thấp, có thể dẫn đến nguy cơ tuyệt chủng một số loài như Taxus brevifolia, Podophyllum hexandrum và gây ảnh hưởng đến hệ sinh thái. Tuy nhiên, việc sản xuất các hoạt chất thứ cấp bằng phương pháp nuôi cấy tế bào vẫn còn một số tồn tại, như dòng tế bào không ổn định, năng suất thấp và cần bổ sung chất dinh dưỡng vào môi trường nuôi cấy… Do vậy, hướng mới để sản xuất các hoạt chất thứ cấp là nuôi cấy rễ tóc.

Làm chủ công nghệ bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh

Ở Việt Nam, Trung tâm Công nghệ sinh học TP Hồ Chí Minh là đơn vị đầu tiên nghiên cứu thành công việc nghiên cứu tạo rễ tóc và phân tích các hợp chất thứ cấp sâm Ngọc Linh trên cơ sở hợp tác với Trường Đại học Picardie Julles Verne (Pháp). Kết quả là đã tạo ra những dòng rễ tái sinh tốt, sinh trưởng mạnh trên môi trường thạch rắn và lỏng lắc. Tuy nhiên, để làm chủ quy trình công nghệ Bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh và thương mại hóa sản phẩm đòi hỏi phải có sự liên kết, phối hợp giữa các nhà nghiên cứu công nghệ sinh học thực vật, hoá hữu cơ, dược và nhà sản xuất, nhà kinh doanh để tạo ra chuỗi khép kín từ khâu sản xuất nguyên liệu đến khâu cung cấp ra thị trường. Chuỗi liên kết này giúp cho kết quả nghiên cứu được ứng dụng vào thực tế sản xuất và thương mại hoá sản phẩm, góp phần kết nối cung - cầu.

Trên cơ sở kết quả nghiên cứu hoàn thiện công nghệ sản xuất sinh khối rễ tóc sâm Ngọc Linh đã đạt được, năm 2018, Trung tâm Công nghệ sinh học TP Hồ Chí Minh đã đề xuất và được Ban Quản lý Dự án FIRST phê duyệt thực hiện tiểu dự án: “Làm chủ quy trình công nghệ Bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh (Panax vietnamensis Ha et Grushv.) và thương mại hóa sản phẩm” để sản xuất sinh khối rễ tóc sâm Ngọc Linh quy mô công nghiệp, mang lại lợi ích kinh tế và góp phần vào việc chăm sóc sức khỏe con nguời.

Sau 2 năm triển khai thực hiện, dự án đã: 1) Xây dựng thành công quy trình công nghệ nuôi cấy rễ tóc sâm Ngọc Linh ở quy mô công nghiệp trên các Bioreactor 20 lít; 2) Sản xuất được 1.527,4 kg rễ tóc - sinh khối tươi phục vụ sản xuất cao chiết dạng bán thành phẩm làm nguồn nguyên liệu sản xuất nước uống và viên nang, xây dựng tiêu chuẩn nguồn nguyên liệu; 3) Xây dựng thành công quy trình chiết xuất cao chiết bán thành phẩm. Kết quả phân tích, đánh giá tính an toàn và tác động tăng lực của cao chiết rễ tóc Sâm Ngọc Linh đều đạt các chỉ tiêu đối với thuốc có nguồn gốc dược liệu; 4) Bào chế được 30 kg cao chiết bán thành phẩm từ sinh khối rễ tóc sâm Ngọc Linh làm viên nang cứng; 5) Xây dựng thành công quy trình sản xuất thực phẩm chức năng dạng viên nang cứng đạt yêu cầu chất lượng sản phẩm theo quy định; 6) Xây dựng thành công quy trình sản xuất nước uống từ rễ tóc sâm Ngọc Linh; 7) Bào chế và sản xuất được 103.949 viên nang cứng, 11.000 bịch (túi) nước sâm uống; 8) Đăng ký bảo hộ quy trình công nghệ Bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh…

Hiện nay nhu cầu về sâm Ngọc Linh và các sản phẩm từ sâm Ngọc Linh ngày càng tăng, trong khi các phương pháp di thực và trồng sâm Ngọc Linh còn hạn chế, không đủ đáp ứng nhu cầu thị trường. Do vậy, việc nghiên cứu phát triển phương pháp mới để chủ động sản xuất sâm sinh khối là rất cần thiết, góp phần đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng về loại dược liệu quý, đồng thời xây dựng thương hiệu sâm Việt Nam.

Với việc thực hiện thành công dự án nêu trên, Trung tâm Công nghệ sinh học TP Hồ Chí Minh đang hoàn thiện các quy trình sản xuất sinh khối, sản xuất cao chiết bán thành phẩm và các sản phẩm từ rễ tóc sâm Ngọc Linh để cung cấp ra thị trường; đồng thời sẵn sàng chuyển giao độc quyền hoặc từng phần cho các đơn vị đối tác để phát triển sản phẩm, đưa sản phẩm phục vụ sức khỏe con người

(Nguồn: “Làm chủ quy trình công nghệ Bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh”; Lâm Vỹ Nguyên; Khoa học - Công nghệ và Đổi mới sáng tạo; Số 6 năm 2021).

Sâm Ngọc Linh tập trung nhiều ở đâu?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Làm chủ quy trình công nghệ Bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh

Thông qua việc thực hiện nhiệm vụ thuộc Dự án “Đẩy mạnh đổi mới sáng tạo thông qua nghiên cứu, khoa học và công nghệ - FIRST” do Bộ Khoa học và Công nghệ tài trợ, các nhà khoa học thuộc Trung tâm Công nghệ sinh học TP Hồ Chí Minh (Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn TP Hồ Chí Minh) đã làm chủ quy trình công nghệ Bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh (Panax vietnamensis Ha et Grushv.) và thương mại hóa thành công sản phẩm, góp phần chủ động nguồn nguyên liệu đáp ứng nhu cầu mở rộng sản xuất theo hướng công nghiệp.

Loài sâm quý cần bảo tồn và phát triển

Sâm Ngọc Linh (còn gọi là sâm Việt Nam) có tên khoa học là Panax vietnamensis Ha et Grushv., thuộc chi Nhân sâm - Panax, họ Ngũ Gia Bì - Araliaceae. Sâm mọc tập trung ở vùng núi Ngọc Linh (thuộc địa phận 2 tỉnh Quảng Nam và Kon Tum) và là 1 trong 4 loại sâm quý của đất nước.

Nhiều nghiên cứu cho thấy, sâm Ngọc Linh không chỉ chứa nhiều saponin chính (G-Rb1, G-Rb2,    G-Rb3, G-Rc, G-Rd, G-Re, G-Rg1…) giống như trong sâm Triều Tiên, mà còn chứa thêm các saponin khung Dammaran có cấu trúc Ocotillol chưa tìm thấy ở sâm Triều Tiên. Kết quả nghiên cứu thân - rễ của sâm Ngọc Linh cho thấy, có hơn 52 hoạt chất saponin (Gingsenoside), trong đó có 26 hợp chất có cấu trúc hoá học đã biết và 26 saponin có cấu trúc mới không có trong các loại nhân sâm khác được đặt tên là Vina-ginsenoside-R1-R24. Đặc biệt, sâm Ngọc Linh chứa chất Majonoside-R2 - là saponin nhóm Ocotillol chiếm hơn nửa tổng hàm lượng saponin của sâm Ngọc Linh và là nhóm chất có tác dụng quyết định đến chất lượng loài sâm Việt. Ngoài thành phần saponin, sâm Ngọc Linh còn chứa 17 thành phần acid béo, 18 acid amin, 20 nguyên tố vi lượng và các hợp chất sterol, cụ thể là β-sitosterol và daucosterin (β-sitosteryl-3-O-β- D-glucopyranosid). Trong củ và rễ sâm còn chứa các hợp chất glucid như đường tự do, đường toàn phần, tinh dầu, vitamin C…

Những kết quả nghiên cứu dược lý thực nghiệm sâm Ngọc Linh đã chứng minh, sâm Ngọc Linh có tác dụng chống stress, kích thích hệ miễn dịch, chống ôxy hóa, phòng chống ung thư, bảo vệ tế bào gan... Đặc biệt, sâm Ngọc Linh có một số tính năng mà sâm khác không thể có như tính kháng khuẩn, chống trầm cảm, hiệu lực tốt với thuốc kháng sinh, thuốc điều trị bệnh tiểu đường... Chính vì những đặc tính quý hiếm này, sâm Ngọc Linh đang trở thành đối tượng săn tìm, bị khai thác, mua bán, sử dụng một cách khó kiểm soát.

Những năm gần đây đang nổi lên xu hướng ứng dụng công nghệ nuôi cấy sinh khối tế bào để sản xuất các hợp chất thứ cấp quan trọng trong ngành dược thay thế phương pháp truyền thống chiết xuất từ cây trồng cho hiệu quả thấp, có thể dẫn đến nguy cơ tuyệt chủng một số loài như Taxus brevifolia, Podophyllum hexandrum và gây ảnh hưởng đến hệ sinh thái. Tuy nhiên, việc sản xuất các hoạt chất thứ cấp bằng phương pháp nuôi cấy tế bào vẫn còn một số tồn tại, như dòng tế bào không ổn định, năng suất thấp và cần bổ sung chất dinh dưỡng vào môi trường nuôi cấy… Do vậy, hướng mới để sản xuất các hoạt chất thứ cấp là nuôi cấy rễ tóc.

Làm chủ công nghệ bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh

Ở Việt Nam, Trung tâm Công nghệ sinh học TP Hồ Chí Minh là đơn vị đầu tiên nghiên cứu thành công việc nghiên cứu tạo rễ tóc và phân tích các hợp chất thứ cấp sâm Ngọc Linh trên cơ sở hợp tác với Trường Đại học Picardie Julles Verne (Pháp). Kết quả là đã tạo ra những dòng rễ tái sinh tốt, sinh trưởng mạnh trên môi trường thạch rắn và lỏng lắc. Tuy nhiên, để làm chủ quy trình công nghệ Bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh và thương mại hóa sản phẩm đòi hỏi phải có sự liên kết, phối hợp giữa các nhà nghiên cứu công nghệ sinh học thực vật, hoá hữu cơ, dược và nhà sản xuất, nhà kinh doanh để tạo ra chuỗi khép kín từ khâu sản xuất nguyên liệu đến khâu cung cấp ra thị trường. Chuỗi liên kết này giúp cho kết quả nghiên cứu được ứng dụng vào thực tế sản xuất và thương mại hoá sản phẩm, góp phần kết nối cung - cầu.

Trên cơ sở kết quả nghiên cứu hoàn thiện công nghệ sản xuất sinh khối rễ tóc sâm Ngọc Linh đã đạt được, năm 2018, Trung tâm Công nghệ sinh học TP Hồ Chí Minh đã đề xuất và được Ban Quản lý Dự án FIRST phê duyệt thực hiện tiểu dự án: “Làm chủ quy trình công nghệ Bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh (Panax vietnamensis Ha et Grushv.) và thương mại hóa sản phẩm” để sản xuất sinh khối rễ tóc sâm Ngọc Linh quy mô công nghiệp, mang lại lợi ích kinh tế và góp phần vào việc chăm sóc sức khỏe con nguời.

Sau 2 năm triển khai thực hiện, dự án đã: 1) Xây dựng thành công quy trình công nghệ nuôi cấy rễ tóc sâm Ngọc Linh ở quy mô công nghiệp trên các Bioreactor 20 lít; 2) Sản xuất được 1.527,4 kg rễ tóc - sinh khối tươi phục vụ sản xuất cao chiết dạng bán thành phẩm làm nguồn nguyên liệu sản xuất nước uống và viên nang, xây dựng tiêu chuẩn nguồn nguyên liệu; 3) Xây dựng thành công quy trình chiết xuất cao chiết bán thành phẩm. Kết quả phân tích, đánh giá tính an toàn và tác động tăng lực của cao chiết rễ tóc Sâm Ngọc Linh đều đạt các chỉ tiêu đối với thuốc có nguồn gốc dược liệu; 4) Bào chế được 30 kg cao chiết bán thành phẩm từ sinh khối rễ tóc sâm Ngọc Linh làm viên nang cứng; 5) Xây dựng thành công quy trình sản xuất thực phẩm chức năng dạng viên nang cứng đạt yêu cầu chất lượng sản phẩm theo quy định; 6) Xây dựng thành công quy trình sản xuất nước uống từ rễ tóc sâm Ngọc Linh; 7) Bào chế và sản xuất được 103.949 viên nang cứng, 11.000 bịch (túi) nước sâm uống; 8) Đăng ký bảo hộ quy trình công nghệ Bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh…

Hiện nay nhu cầu về sâm Ngọc Linh và các sản phẩm từ sâm Ngọc Linh ngày càng tăng, trong khi các phương pháp di thực và trồng sâm Ngọc Linh còn hạn chế, không đủ đáp ứng nhu cầu thị trường. Do vậy, việc nghiên cứu phát triển phương pháp mới để chủ động sản xuất sâm sinh khối là rất cần thiết, góp phần đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng về loại dược liệu quý, đồng thời xây dựng thương hiệu sâm Việt Nam.

Với việc thực hiện thành công dự án nêu trên, Trung tâm Công nghệ sinh học TP Hồ Chí Minh đang hoàn thiện các quy trình sản xuất sinh khối, sản xuất cao chiết bán thành phẩm và các sản phẩm từ rễ tóc sâm Ngọc Linh để cung cấp ra thị trường; đồng thời sẵn sàng chuyển giao độc quyền hoặc từng phần cho các đơn vị đối tác để phát triển sản phẩm, đưa sản phẩm phục vụ sức khỏe con người

(Nguồn: “Làm chủ quy trình công nghệ Bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh”; Lâm Vỹ Nguyên; Khoa học - Công nghệ và Đổi mới sáng tạo; Số 6 năm 2021).

Diễn đạt nào dưới đây thể hiện rõ nhất ý chính của bài đọc trên?

Đọc văn bản dưới đây và trả lời câu hỏi:

WHO ưu tiên tiếp cận các phương pháp điều trị bệnh tiểu đường và ung thư trong Danh mục thuốc thiết yếu mới

1. Thuốc điều trị bệnh tiểu đường

TS Tedros Adhanom Ghebreyesus - Tổng giám đốc WHO cho biết: bệnh tiểu đường đang gia tăng trên toàn cầu và tăng nhanh hơn ở các nước có thu nhập thấp và trung bình. Quá nhiều người cần insulin nhưng lại gặp khó khăn về tài chính. Danh mục thuốc thiết yếu bao gồm các chất tương tự insulin, cùng với nỗ lực đảm bảo khả năng tiếp cận với tất cả các sản phẩm insulin là một bước quan trọng để đảm bảo tất cả những ai cần sản phẩm cứu mạng này đều có thể tiếp cận được ”.

2. Insulin được phát hiện như một phương pháp điều trị bệnh tiểu đường cách đây 100 năm và nó đã nằm trong Danh mục thuốc thiết yếu của WHO lần đầu tiên vào năm 1977. Tuy nhiên, nguồn cung cấp insulin hạn chế, giá cao ở một số quốc gia có thu nhập thấp, trung bình hiện đang là một rào cản đáng kể đối với việc điều trị bệnh tiểu đường. Ví dụ, ở thủ đô Accra của Ghana, lượng insulin cần thiết cho một tháng sẽ khiến một công nhân tiêu tốn tương đương với 5,5 ngày lương mỗi tháng. Việc sản xuất insulin tập trung ở một số ít cơ sở sản xuất, trong đó có 3 nhà sản xuất kiểm soát phần lớn thị trường toàn cầu đã dẫn đến sự độc quyền, giá thành cao đối với nhiều người và hệ thống y tế.

3. Việc cho phép các chất tương tự insulin có tác dụng kéo dài (insulin degludec, detemir và glargine) và các biosimilars của chúng nhằm tăng khả năng tiếp cận điều trị bệnh tiểu đường. Điều này cũng có nghĩa là các chất tương tự insulin sinh học có thể đủ điều kiện tham gia chương trình sơ tuyển của WHO; việc sơ tuyển của WHO có thể dẫn đến việc các loại biosimilars đảm bảo chất lượng hơn được đưa vào thị trường quốc tế, tạo ra sự cạnh tranh để hạ giá thành và mang lại cho các quốc gia có có nguồn lực y tế thấp có sự lựa chọn sản phẩm tốt hơn.

4. Các chất tương tự insulin có tác dụng kéo dài mang lại một số lợi ích lâm sàng bổ sung cho bệnh nhân thông qua thời gian tác dụng kéo dài, điều này đảm bảo rằng mức đường huyết có thể được kiểm soát trong thời gian dài hơn mà không cần dùng liều tăng cường. Chúng mang lại lợi ích đặc biệt cho những bệnh nhân có mức đường huyết thấp nguy hiểm với insulin người. Sự linh hoạt hơn trong thời gian và liều lượng các chất tương tự insulin đã được chứng minh là cải thiện chất lượng cuộc sống cho những bệnh nhân mắc bệnh tiểu đường. Tuy nhiên, insulin vẫn là một yếu tố quan trọng trong điều trị bệnh tiểu đường và việc tiếp cận với loại thuốc cứu mạng này phải tiếp tục được hỗ trợ thông qua sự sẵn có và khả năng chi trả tốt hơn.

5. Danh mục cũng bao gồm các chất ức chế Sodium-Glucose Co-Transporter-2 (SGLT2) empagliflozin, canagliflozin và dapagliflozin như là liệu pháp hàng đầu ở người lớn mắc bệnh tiểu đường loại 2. Các loại thuốc uống này đã được chứng minh là mang lại một số lợi ích, bao gồm giảm nguy cơ tử vong, suy thận và các biến cố tim mạch. Bởi vì các chất ức chế SGLT2 vẫn được cấp bằng sáng chế và có giá cao, nên việc cải thiện khả năng tiếp cận với các loại thuốc điều trị bệnh tiểu đường bao gồm insulin và thuốc ức chế SGLT2 là một trong những quy trình của Hiệp định Tiểu đường toàn cầu, do WHO đưa ra vào tháng 4/2021 và là chủ đề chính được thảo luận với các nhà sản xuất thuốc.

6. Thuốc điều trị ung thư

Ung thư là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây ra bệnh tật và tử vong trên toàn thế giới (có gần 10 triệu ca tử vong vào năm 2020, trong đó 70% xảy ra ở các nước có thu nhập thấp và trung bình). Những đột phá mới đã được thực hiện trong điều trị ung thư trong những năm qua, như các loại thuốc nhắm vào đặc điểm phân tử cụ thể của khối u, một số trong số đó mang lại kết quả tốt hơn nhiều so với hóa trị liệu “truyền thống” cho nhiều loại ung thư. 4 loại thuốc mới để điều trị ung thư đã được thêm vào Danh mục thuốc thiết yếu lần này: 1) Enzalutamide - một chất thay thế cho abiraterone, dùng cho bệnh ung thư tuyến tiền liệt; 2) Everolimus - dùng cho u tế bào hình sao, một loại u não ở trẻ em; 3) Ibrutinib - một loại thuốc nhắm mục tiêu cho bệnh bạch cầu mạn tính; và 4) Rasburicase - thuốc điều trị biến chứng nghiêm trọng của một số phương pháp điều trị ung thư.

7. Danh mục cũng đã được mở rộng, bao gồm điều trị nhắm mục tiêu bệnh bạch cầu. Các chỉ định ung thư mới ở trẻ em đã được thêm vào cho 16 loại thuốc đã được liệt kê, bao gồm cả u thần kinh đệm cấp độ thấp (dạng u não phổ biến nhất ở trẻ em). Một nhóm các kháng thể giúp tăng cường phản ứng miễn dịch đối với các tế bào khối u, được gọi là chất ức chế điểm kiểm soát miễn dịch PD-1/PD-L1, không được khuyến khích đưa vào danh sách điều trị một số bệnh ung thư phổi, mặc dù có hiệu quả, chủ yếu là do chúng quá mạnh, giá cao và lo ngại rằng chúng khó quản lý trong các hệ thống y tế có nguồn lực thấp. Các loại thuốc điều trị ung thư khác không được khuyến khích niêm yết do không chắc chắn có thêm lợi ích lâm sàng so với các loại thuốc đã được niêm yết, giá cao và các vấn đề quản lý trong các cơ sở y tế có nguồn lực thấp. Chúng bao gồm osimertinib cho bệnh ung thư phổi, daratumumab cho bệnh đa u tủy và ba loại điều trị (thuốc ức chế CDK4/6, fulvestrant và pertuzumab) cho bệnh ung thư vú.

(Nguồn: Nguyễn Thị Hường; Theo who.int)

Theo bài đọc, vì sao một nhóm các kháng thể giúp tăng cường phản ứng miễn dịch đối với các tế bào khối u, được gọi là chất ức chế điểm kiểm soát miễn dịch PD-1/PD-L1, không được khuyến khích đưa vào danh sách điều trị một số bệnh ung thư phổi?

Đọc văn bản dưới đây và trả lời câu hỏi:

WHO ưu tiên tiếp cận các phương pháp điều trị bệnh tiểu đường và ung thư trong Danh mục thuốc thiết yếu mới

1. Thuốc điều trị bệnh tiểu đường

TS Tedros Adhanom Ghebreyesus - Tổng giám đốc WHO cho biết: bệnh tiểu đường đang gia tăng trên toàn cầu và tăng nhanh hơn ở các nước có thu nhập thấp và trung bình. Quá nhiều người cần insulin nhưng lại gặp khó khăn về tài chính. Danh mục thuốc thiết yếu bao gồm các chất tương tự insulin, cùng với nỗ lực đảm bảo khả năng tiếp cận với tất cả các sản phẩm insulin là một bước quan trọng để đảm bảo tất cả những ai cần sản phẩm cứu mạng này đều có thể tiếp cận được ”.

2. Insulin được phát hiện như một phương pháp điều trị bệnh tiểu đường cách đây 100 năm và nó đã nằm trong Danh mục thuốc thiết yếu của WHO lần đầu tiên vào năm 1977. Tuy nhiên, nguồn cung cấp insulin hạn chế, giá cao ở một số quốc gia có thu nhập thấp, trung bình hiện đang là một rào cản đáng kể đối với việc điều trị bệnh tiểu đường. Ví dụ, ở thủ đô Accra của Ghana, lượng insulin cần thiết cho một tháng sẽ khiến một công nhân tiêu tốn tương đương với 5,5 ngày lương mỗi tháng. Việc sản xuất insulin tập trung ở một số ít cơ sở sản xuất, trong đó có 3 nhà sản xuất kiểm soát phần lớn thị trường toàn cầu đã dẫn đến sự độc quyền, giá thành cao đối với nhiều người và hệ thống y tế.

3. Việc cho phép các chất tương tự insulin có tác dụng kéo dài (insulin degludec, detemir và glargine) và các biosimilars của chúng nhằm tăng khả năng tiếp cận điều trị bệnh tiểu đường. Điều này cũng có nghĩa là các chất tương tự insulin sinh học có thể đủ điều kiện tham gia chương trình sơ tuyển của WHO; việc sơ tuyển của WHO có thể dẫn đến việc các loại biosimilars đảm bảo chất lượng hơn được đưa vào thị trường quốc tế, tạo ra sự cạnh tranh để hạ giá thành và mang lại cho các quốc gia có có nguồn lực y tế thấp có sự lựa chọn sản phẩm tốt hơn.

4. Các chất tương tự insulin có tác dụng kéo dài mang lại một số lợi ích lâm sàng bổ sung cho bệnh nhân thông qua thời gian tác dụng kéo dài, điều này đảm bảo rằng mức đường huyết có thể được kiểm soát trong thời gian dài hơn mà không cần dùng liều tăng cường. Chúng mang lại lợi ích đặc biệt cho những bệnh nhân có mức đường huyết thấp nguy hiểm với insulin người. Sự linh hoạt hơn trong thời gian và liều lượng các chất tương tự insulin đã được chứng minh là cải thiện chất lượng cuộc sống cho những bệnh nhân mắc bệnh tiểu đường. Tuy nhiên, insulin vẫn là một yếu tố quan trọng trong điều trị bệnh tiểu đường và việc tiếp cận với loại thuốc cứu mạng này phải tiếp tục được hỗ trợ thông qua sự sẵn có và khả năng chi trả tốt hơn.

5. Danh mục cũng bao gồm các chất ức chế Sodium-Glucose Co-Transporter-2 (SGLT2) empagliflozin, canagliflozin và dapagliflozin như là liệu pháp hàng đầu ở người lớn mắc bệnh tiểu đường loại 2. Các loại thuốc uống này đã được chứng minh là mang lại một số lợi ích, bao gồm giảm nguy cơ tử vong, suy thận và các biến cố tim mạch. Bởi vì các chất ức chế SGLT2 vẫn được cấp bằng sáng chế và có giá cao, nên việc cải thiện khả năng tiếp cận với các loại thuốc điều trị bệnh tiểu đường bao gồm insulin và thuốc ức chế SGLT2 là một trong những quy trình của Hiệp định Tiểu đường toàn cầu, do WHO đưa ra vào tháng 4/2021 và là chủ đề chính được thảo luận với các nhà sản xuất thuốc.

6. Thuốc điều trị ung thư

Ung thư là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây ra bệnh tật và tử vong trên toàn thế giới (có gần 10 triệu ca tử vong vào năm 2020, trong đó 70% xảy ra ở các nước có thu nhập thấp và trung bình). Những đột phá mới đã được thực hiện trong điều trị ung thư trong những năm qua, như các loại thuốc nhắm vào đặc điểm phân tử cụ thể của khối u, một số trong số đó mang lại kết quả tốt hơn nhiều so với hóa trị liệu “truyền thống” cho nhiều loại ung thư. 4 loại thuốc mới để điều trị ung thư đã được thêm vào Danh mục thuốc thiết yếu lần này: 1) Enzalutamide - một chất thay thế cho abiraterone, dùng cho bệnh ung thư tuyến tiền liệt; 2) Everolimus - dùng cho u tế bào hình sao, một loại u não ở trẻ em; 3) Ibrutinib - một loại thuốc nhắm mục tiêu cho bệnh bạch cầu mạn tính; và 4) Rasburicase - thuốc điều trị biến chứng nghiêm trọng của một số phương pháp điều trị ung thư.

7. Danh mục cũng đã được mở rộng, bao gồm điều trị nhắm mục tiêu bệnh bạch cầu. Các chỉ định ung thư mới ở trẻ em đã được thêm vào cho 16 loại thuốc đã được liệt kê, bao gồm cả u thần kinh đệm cấp độ thấp (dạng u não phổ biến nhất ở trẻ em). Một nhóm các kháng thể giúp tăng cường phản ứng miễn dịch đối với các tế bào khối u, được gọi là chất ức chế điểm kiểm soát miễn dịch PD-1/PD-L1, không được khuyến khích đưa vào danh sách điều trị một số bệnh ung thư phổi, mặc dù có hiệu quả, chủ yếu là do chúng quá mạnh, giá cao và lo ngại rằng chúng khó quản lý trong các hệ thống y tế có nguồn lực thấp. Các loại thuốc điều trị ung thư khác không được khuyến khích niêm yết do không chắc chắn có thêm lợi ích lâm sàng so với các loại thuốc đã được niêm yết, giá cao và các vấn đề quản lý trong các cơ sở y tế có nguồn lực thấp. Chúng bao gồm osimertinib cho bệnh ung thư phổi, daratumumab cho bệnh đa u tủy và ba loại điều trị (thuốc ức chế CDK4/6, fulvestrant và pertuzumab) cho bệnh ung thư vú.

(Nguồn: Nguyễn Thị Hường; Theo who.int)

4 loại thuốc mới để điều trị ung thư đã được WHO them vào Danh mục thuốc thiết yếu lần này là:

Đọc văn bản dưới đây và trả lời câu hỏi:

WHO ưu tiên tiếp cận các phương pháp điều trị bệnh tiểu đường và ung thư trong Danh mục thuốc thiết yếu mới

1. Thuốc điều trị bệnh tiểu đường

TS Tedros Adhanom Ghebreyesus - Tổng giám đốc WHO cho biết: bệnh tiểu đường đang gia tăng trên toàn cầu và tăng nhanh hơn ở các nước có thu nhập thấp và trung bình. Quá nhiều người cần insulin nhưng lại gặp khó khăn về tài chính. Danh mục thuốc thiết yếu bao gồm các chất tương tự insulin, cùng với nỗ lực đảm bảo khả năng tiếp cận với tất cả các sản phẩm insulin là một bước quan trọng để đảm bảo tất cả những ai cần sản phẩm cứu mạng này đều có thể tiếp cận được ”.

2. Insulin được phát hiện như một phương pháp điều trị bệnh tiểu đường cách đây 100 năm và nó đã nằm trong Danh mục thuốc thiết yếu của WHO lần đầu tiên vào năm 1977. Tuy nhiên, nguồn cung cấp insulin hạn chế, giá cao ở một số quốc gia có thu nhập thấp, trung bình hiện đang là một rào cản đáng kể đối với việc điều trị bệnh tiểu đường. Ví dụ, ở thủ đô Accra của Ghana, lượng insulin cần thiết cho một tháng sẽ khiến một công nhân tiêu tốn tương đương với 5,5 ngày lương mỗi tháng. Việc sản xuất insulin tập trung ở một số ít cơ sở sản xuất, trong đó có 3 nhà sản xuất kiểm soát phần lớn thị trường toàn cầu đã dẫn đến sự độc quyền, giá thành cao đối với nhiều người và hệ thống y tế.

3. Việc cho phép các chất tương tự insulin có tác dụng kéo dài (insulin degludec, detemir và glargine) và các biosimilars của chúng nhằm tăng khả năng tiếp cận điều trị bệnh tiểu đường. Điều này cũng có nghĩa là các chất tương tự insulin sinh học có thể đủ điều kiện tham gia chương trình sơ tuyển của WHO; việc sơ tuyển của WHO có thể dẫn đến việc các loại biosimilars đảm bảo chất lượng hơn được đưa vào thị trường quốc tế, tạo ra sự cạnh tranh để hạ giá thành và mang lại cho các quốc gia có có nguồn lực y tế thấp có sự lựa chọn sản phẩm tốt hơn.

4. Các chất tương tự insulin có tác dụng kéo dài mang lại một số lợi ích lâm sàng bổ sung cho bệnh nhân thông qua thời gian tác dụng kéo dài, điều này đảm bảo rằng mức đường huyết có thể được kiểm soát trong thời gian dài hơn mà không cần dùng liều tăng cường. Chúng mang lại lợi ích đặc biệt cho những bệnh nhân có mức đường huyết thấp nguy hiểm với insulin người. Sự linh hoạt hơn trong thời gian và liều lượng các chất tương tự insulin đã được chứng minh là cải thiện chất lượng cuộc sống cho những bệnh nhân mắc bệnh tiểu đường. Tuy nhiên, insulin vẫn là một yếu tố quan trọng trong điều trị bệnh tiểu đường và việc tiếp cận với loại thuốc cứu mạng này phải tiếp tục được hỗ trợ thông qua sự sẵn có và khả năng chi trả tốt hơn.

5. Danh mục cũng bao gồm các chất ức chế Sodium-Glucose Co-Transporter-2 (SGLT2) empagliflozin, canagliflozin và dapagliflozin như là liệu pháp hàng đầu ở người lớn mắc bệnh tiểu đường loại 2. Các loại thuốc uống này đã được chứng minh là mang lại một số lợi ích, bao gồm giảm nguy cơ tử vong, suy thận và các biến cố tim mạch. Bởi vì các chất ức chế SGLT2 vẫn được cấp bằng sáng chế và có giá cao, nên việc cải thiện khả năng tiếp cận với các loại thuốc điều trị bệnh tiểu đường bao gồm insulin và thuốc ức chế SGLT2 là một trong những quy trình của Hiệp định Tiểu đường toàn cầu, do WHO đưa ra vào tháng 4/2021 và là chủ đề chính được thảo luận với các nhà sản xuất thuốc.

6. Thuốc điều trị ung thư

Ung thư là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây ra bệnh tật và tử vong trên toàn thế giới (có gần 10 triệu ca tử vong vào năm 2020, trong đó 70% xảy ra ở các nước có thu nhập thấp và trung bình). Những đột phá mới đã được thực hiện trong điều trị ung thư trong những năm qua, như các loại thuốc nhắm vào đặc điểm phân tử cụ thể của khối u, một số trong số đó mang lại kết quả tốt hơn nhiều so với hóa trị liệu “truyền thống” cho nhiều loại ung thư. 4 loại thuốc mới để điều trị ung thư đã được thêm vào Danh mục thuốc thiết yếu lần này: 1) Enzalutamide - một chất thay thế cho abiraterone, dùng cho bệnh ung thư tuyến tiền liệt; 2) Everolimus - dùng cho u tế bào hình sao, một loại u não ở trẻ em; 3) Ibrutinib - một loại thuốc nhắm mục tiêu cho bệnh bạch cầu mạn tính; và 4) Rasburicase - thuốc điều trị biến chứng nghiêm trọng của một số phương pháp điều trị ung thư.

7. Danh mục cũng đã được mở rộng, bao gồm điều trị nhắm mục tiêu bệnh bạch cầu. Các chỉ định ung thư mới ở trẻ em đã được thêm vào cho 16 loại thuốc đã được liệt kê, bao gồm cả u thần kinh đệm cấp độ thấp (dạng u não phổ biến nhất ở trẻ em). Một nhóm các kháng thể giúp tăng cường phản ứng miễn dịch đối với các tế bào khối u, được gọi là chất ức chế điểm kiểm soát miễn dịch PD-1/PD-L1, không được khuyến khích đưa vào danh sách điều trị một số bệnh ung thư phổi, mặc dù có hiệu quả, chủ yếu là do chúng quá mạnh, giá cao và lo ngại rằng chúng khó quản lý trong các hệ thống y tế có nguồn lực thấp. Các loại thuốc điều trị ung thư khác không được khuyến khích niêm yết do không chắc chắn có thêm lợi ích lâm sàng so với các loại thuốc đã được niêm yết, giá cao và các vấn đề quản lý trong các cơ sở y tế có nguồn lực thấp. Chúng bao gồm osimertinib cho bệnh ung thư phổi, daratumumab cho bệnh đa u tủy và ba loại điều trị (thuốc ức chế CDK4/6, fulvestrant và pertuzumab) cho bệnh ung thư vú.

(Nguồn: Nguyễn Thị Hường; Theo who.int)

Năm 2020, 70% số ca tử vong do bệnh ung thư chủ yếu xảy ra ở:

Đọc văn bản dưới đây và trả lời câu hỏi:

WHO ưu tiên tiếp cận các phương pháp điều trị bệnh tiểu đường và ung thư trong Danh mục thuốc thiết yếu mới

1. Thuốc điều trị bệnh tiểu đường

TS Tedros Adhanom Ghebreyesus - Tổng giám đốc WHO cho biết: bệnh tiểu đường đang gia tăng trên toàn cầu và tăng nhanh hơn ở các nước có thu nhập thấp và trung bình. Quá nhiều người cần insulin nhưng lại gặp khó khăn về tài chính. Danh mục thuốc thiết yếu bao gồm các chất tương tự insulin, cùng với nỗ lực đảm bảo khả năng tiếp cận với tất cả các sản phẩm insulin là một bước quan trọng để đảm bảo tất cả những ai cần sản phẩm cứu mạng này đều có thể tiếp cận được ”.

2. Insulin được phát hiện như một phương pháp điều trị bệnh tiểu đường cách đây 100 năm và nó đã nằm trong Danh mục thuốc thiết yếu của WHO lần đầu tiên vào năm 1977. Tuy nhiên, nguồn cung cấp insulin hạn chế, giá cao ở một số quốc gia có thu nhập thấp, trung bình hiện đang là một rào cản đáng kể đối với việc điều trị bệnh tiểu đường. Ví dụ, ở thủ đô Accra của Ghana, lượng insulin cần thiết cho một tháng sẽ khiến một công nhân tiêu tốn tương đương với 5,5 ngày lương mỗi tháng. Việc sản xuất insulin tập trung ở một số ít cơ sở sản xuất, trong đó có 3 nhà sản xuất kiểm soát phần lớn thị trường toàn cầu đã dẫn đến sự độc quyền, giá thành cao đối với nhiều người và hệ thống y tế.

3. Việc cho phép các chất tương tự insulin có tác dụng kéo dài (insulin degludec, detemir và glargine) và các biosimilars của chúng nhằm tăng khả năng tiếp cận điều trị bệnh tiểu đường. Điều này cũng có nghĩa là các chất tương tự insulin sinh học có thể đủ điều kiện tham gia chương trình sơ tuyển của WHO; việc sơ tuyển của WHO có thể dẫn đến việc các loại biosimilars đảm bảo chất lượng hơn được đưa vào thị trường quốc tế, tạo ra sự cạnh tranh để hạ giá thành và mang lại cho các quốc gia có có nguồn lực y tế thấp có sự lựa chọn sản phẩm tốt hơn.

4. Các chất tương tự insulin có tác dụng kéo dài mang lại một số lợi ích lâm sàng bổ sung cho bệnh nhân thông qua thời gian tác dụng kéo dài, điều này đảm bảo rằng mức đường huyết có thể được kiểm soát trong thời gian dài hơn mà không cần dùng liều tăng cường. Chúng mang lại lợi ích đặc biệt cho những bệnh nhân có mức đường huyết thấp nguy hiểm với insulin người. Sự linh hoạt hơn trong thời gian và liều lượng các chất tương tự insulin đã được chứng minh là cải thiện chất lượng cuộc sống cho những bệnh nhân mắc bệnh tiểu đường. Tuy nhiên, insulin vẫn là một yếu tố quan trọng trong điều trị bệnh tiểu đường và việc tiếp cận với loại thuốc cứu mạng này phải tiếp tục được hỗ trợ thông qua sự sẵn có và khả năng chi trả tốt hơn.

5. Danh mục cũng bao gồm các chất ức chế Sodium-Glucose Co-Transporter-2 (SGLT2) empagliflozin, canagliflozin và dapagliflozin như là liệu pháp hàng đầu ở người lớn mắc bệnh tiểu đường loại 2. Các loại thuốc uống này đã được chứng minh là mang lại một số lợi ích, bao gồm giảm nguy cơ tử vong, suy thận và các biến cố tim mạch. Bởi vì các chất ức chế SGLT2 vẫn được cấp bằng sáng chế và có giá cao, nên việc cải thiện khả năng tiếp cận với các loại thuốc điều trị bệnh tiểu đường bao gồm insulin và thuốc ức chế SGLT2 là một trong những quy trình của Hiệp định Tiểu đường toàn cầu, do WHO đưa ra vào tháng 4/2021 và là chủ đề chính được thảo luận với các nhà sản xuất thuốc.

6. Thuốc điều trị ung thư

Ung thư là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây ra bệnh tật và tử vong trên toàn thế giới (có gần 10 triệu ca tử vong vào năm 2020, trong đó 70% xảy ra ở các nước có thu nhập thấp và trung bình). Những đột phá mới đã được thực hiện trong điều trị ung thư trong những năm qua, như các loại thuốc nhắm vào đặc điểm phân tử cụ thể của khối u, một số trong số đó mang lại kết quả tốt hơn nhiều so với hóa trị liệu “truyền thống” cho nhiều loại ung thư. 4 loại thuốc mới để điều trị ung thư đã được thêm vào Danh mục thuốc thiết yếu lần này: 1) Enzalutamide - một chất thay thế cho abiraterone, dùng cho bệnh ung thư tuyến tiền liệt; 2) Everolimus - dùng cho u tế bào hình sao, một loại u não ở trẻ em; 3) Ibrutinib - một loại thuốc nhắm mục tiêu cho bệnh bạch cầu mạn tính; và 4) Rasburicase - thuốc điều trị biến chứng nghiêm trọng của một số phương pháp điều trị ung thư.

7. Danh mục cũng đã được mở rộng, bao gồm điều trị nhắm mục tiêu bệnh bạch cầu. Các chỉ định ung thư mới ở trẻ em đã được thêm vào cho 16 loại thuốc đã được liệt kê, bao gồm cả u thần kinh đệm cấp độ thấp (dạng u não phổ biến nhất ở trẻ em). Một nhóm các kháng thể giúp tăng cường phản ứng miễn dịch đối với các tế bào khối u, được gọi là chất ức chế điểm kiểm soát miễn dịch PD-1/PD-L1, không được khuyến khích đưa vào danh sách điều trị một số bệnh ung thư phổi, mặc dù có hiệu quả, chủ yếu là do chúng quá mạnh, giá cao và lo ngại rằng chúng khó quản lý trong các hệ thống y tế có nguồn lực thấp. Các loại thuốc điều trị ung thư khác không được khuyến khích niêm yết do không chắc chắn có thêm lợi ích lâm sàng so với các loại thuốc đã được niêm yết, giá cao và các vấn đề quản lý trong các cơ sở y tế có nguồn lực thấp. Chúng bao gồm osimertinib cho bệnh ung thư phổi, daratumumab cho bệnh đa u tủy và ba loại điều trị (thuốc ức chế CDK4/6, fulvestrant và pertuzumab) cho bệnh ung thư vú.

(Nguồn: Nguyễn Thị Hường; Theo who.int)

Theo WHO, việc điều trị bệnh tiểu đường đang gặp những khó khăn nào?

Chọn đáp án không đúng:

Đọc văn bản dưới đây và trả lời câu hỏi:

WHO ưu tiên tiếp cận các phương pháp điều trị bệnh tiểu đường và ung thư trong Danh mục thuốc thiết yếu mới

1. Thuốc điều trị bệnh tiểu đường

TS Tedros Adhanom Ghebreyesus - Tổng giám đốc WHO cho biết: bệnh tiểu đường đang gia tăng trên toàn cầu và tăng nhanh hơn ở các nước có thu nhập thấp và trung bình. Quá nhiều người cần insulin nhưng lại gặp khó khăn về tài chính. Danh mục thuốc thiết yếu bao gồm các chất tương tự insulin, cùng với nỗ lực đảm bảo khả năng tiếp cận với tất cả các sản phẩm insulin là một bước quan trọng để đảm bảo tất cả những ai cần sản phẩm cứu mạng này đều có thể tiếp cận được ”.

2. Insulin được phát hiện như một phương pháp điều trị bệnh tiểu đường cách đây 100 năm và nó đã nằm trong Danh mục thuốc thiết yếu của WHO lần đầu tiên vào năm 1977. Tuy nhiên, nguồn cung cấp insulin hạn chế, giá cao ở một số quốc gia có thu nhập thấp, trung bình hiện đang là một rào cản đáng kể đối với việc điều trị bệnh tiểu đường. Ví dụ, ở thủ đô Accra của Ghana, lượng insulin cần thiết cho một tháng sẽ khiến một công nhân tiêu tốn tương đương với 5,5 ngày lương mỗi tháng. Việc sản xuất insulin tập trung ở một số ít cơ sở sản xuất, trong đó có 3 nhà sản xuất kiểm soát phần lớn thị trường toàn cầu đã dẫn đến sự độc quyền, giá thành cao đối với nhiều người và hệ thống y tế.

3. Việc cho phép các chất tương tự insulin có tác dụng kéo dài (insulin degludec, detemir và glargine) và các biosimilars của chúng nhằm tăng khả năng tiếp cận điều trị bệnh tiểu đường. Điều này cũng có nghĩa là các chất tương tự insulin sinh học có thể đủ điều kiện tham gia chương trình sơ tuyển của WHO; việc sơ tuyển của WHO có thể dẫn đến việc các loại biosimilars đảm bảo chất lượng hơn được đưa vào thị trường quốc tế, tạo ra sự cạnh tranh để hạ giá thành và mang lại cho các quốc gia có có nguồn lực y tế thấp có sự lựa chọn sản phẩm tốt hơn.

4. Các chất tương tự insulin có tác dụng kéo dài mang lại một số lợi ích lâm sàng bổ sung cho bệnh nhân thông qua thời gian tác dụng kéo dài, điều này đảm bảo rằng mức đường huyết có thể được kiểm soát trong thời gian dài hơn mà không cần dùng liều tăng cường. Chúng mang lại lợi ích đặc biệt cho những bệnh nhân có mức đường huyết thấp nguy hiểm với insulin người. Sự linh hoạt hơn trong thời gian và liều lượng các chất tương tự insulin đã được chứng minh là cải thiện chất lượng cuộc sống cho những bệnh nhân mắc bệnh tiểu đường. Tuy nhiên, insulin vẫn là một yếu tố quan trọng trong điều trị bệnh tiểu đường và việc tiếp cận với loại thuốc cứu mạng này phải tiếp tục được hỗ trợ thông qua sự sẵn có và khả năng chi trả tốt hơn.

5. Danh mục cũng bao gồm các chất ức chế Sodium-Glucose Co-Transporter-2 (SGLT2) empagliflozin, canagliflozin và dapagliflozin như là liệu pháp hàng đầu ở người lớn mắc bệnh tiểu đường loại 2. Các loại thuốc uống này đã được chứng minh là mang lại một số lợi ích, bao gồm giảm nguy cơ tử vong, suy thận và các biến cố tim mạch. Bởi vì các chất ức chế SGLT2 vẫn được cấp bằng sáng chế và có giá cao, nên việc cải thiện khả năng tiếp cận với các loại thuốc điều trị bệnh tiểu đường bao gồm insulin và thuốc ức chế SGLT2 là một trong những quy trình của Hiệp định Tiểu đường toàn cầu, do WHO đưa ra vào tháng 4/2021 và là chủ đề chính được thảo luận với các nhà sản xuất thuốc.

6. Thuốc điều trị ung thư

Ung thư là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây ra bệnh tật và tử vong trên toàn thế giới (có gần 10 triệu ca tử vong vào năm 2020, trong đó 70% xảy ra ở các nước có thu nhập thấp và trung bình). Những đột phá mới đã được thực hiện trong điều trị ung thư trong những năm qua, như các loại thuốc nhắm vào đặc điểm phân tử cụ thể của khối u, một số trong số đó mang lại kết quả tốt hơn nhiều so với hóa trị liệu “truyền thống” cho nhiều loại ung thư. 4 loại thuốc mới để điều trị ung thư đã được thêm vào Danh mục thuốc thiết yếu lần này: 1) Enzalutamide - một chất thay thế cho abiraterone, dùng cho bệnh ung thư tuyến tiền liệt; 2) Everolimus - dùng cho u tế bào hình sao, một loại u não ở trẻ em; 3) Ibrutinib - một loại thuốc nhắm mục tiêu cho bệnh bạch cầu mạn tính; và 4) Rasburicase - thuốc điều trị biến chứng nghiêm trọng của một số phương pháp điều trị ung thư.

7. Danh mục cũng đã được mở rộng, bao gồm điều trị nhắm mục tiêu bệnh bạch cầu. Các chỉ định ung thư mới ở trẻ em đã được thêm vào cho 16 loại thuốc đã được liệt kê, bao gồm cả u thần kinh đệm cấp độ thấp (dạng u não phổ biến nhất ở trẻ em). Một nhóm các kháng thể giúp tăng cường phản ứng miễn dịch đối với các tế bào khối u, được gọi là chất ức chế điểm kiểm soát miễn dịch PD-1/PD-L1, không được khuyến khích đưa vào danh sách điều trị một số bệnh ung thư phổi, mặc dù có hiệu quả, chủ yếu là do chúng quá mạnh, giá cao và lo ngại rằng chúng khó quản lý trong các hệ thống y tế có nguồn lực thấp. Các loại thuốc điều trị ung thư khác không được khuyến khích niêm yết do không chắc chắn có thêm lợi ích lâm sàng so với các loại thuốc đã được niêm yết, giá cao và các vấn đề quản lý trong các cơ sở y tế có nguồn lực thấp. Chúng bao gồm osimertinib cho bệnh ung thư phổi, daratumumab cho bệnh đa u tủy và ba loại điều trị (thuốc ức chế CDK4/6, fulvestrant và pertuzumab) cho bệnh ung thư vú.

(Nguồn: Nguyễn Thị Hường; Theo who.int)

Theo bài đọc, insulin là phương pháp điều trị bệnh:

Đọc văn bản dưới đây và trả lời câu hỏi:

WHO ưu tiên tiếp cận các phương pháp điều trị bệnh tiểu đường và ung thư trong Danh mục thuốc thiết yếu mới

1. Thuốc điều trị bệnh tiểu đường

TS Tedros Adhanom Ghebreyesus - Tổng giám đốc WHO cho biết: bệnh tiểu đường đang gia tăng trên toàn cầu và tăng nhanh hơn ở các nước có thu nhập thấp và trung bình. Quá nhiều người cần insulin nhưng lại gặp khó khăn về tài chính. Danh mục thuốc thiết yếu bao gồm các chất tương tự insulin, cùng với nỗ lực đảm bảo khả năng tiếp cận với tất cả các sản phẩm insulin là một bước quan trọng để đảm bảo tất cả những ai cần sản phẩm cứu mạng này đều có thể tiếp cận được ”.

2. Insulin được phát hiện như một phương pháp điều trị bệnh tiểu đường cách đây 100 năm và nó đã nằm trong Danh mục thuốc thiết yếu của WHO lần đầu tiên vào năm 1977. Tuy nhiên, nguồn cung cấp insulin hạn chế, giá cao ở một số quốc gia có thu nhập thấp, trung bình hiện đang là một rào cản đáng kể đối với việc điều trị bệnh tiểu đường. Ví dụ, ở thủ đô Accra của Ghana, lượng insulin cần thiết cho một tháng sẽ khiến một công nhân tiêu tốn tương đương với 5,5 ngày lương mỗi tháng. Việc sản xuất insulin tập trung ở một số ít cơ sở sản xuất, trong đó có 3 nhà sản xuất kiểm soát phần lớn thị trường toàn cầu đã dẫn đến sự độc quyền, giá thành cao đối với nhiều người và hệ thống y tế.

3. Việc cho phép các chất tương tự insulin có tác dụng kéo dài (insulin degludec, detemir và glargine) và các biosimilars của chúng nhằm tăng khả năng tiếp cận điều trị bệnh tiểu đường. Điều này cũng có nghĩa là các chất tương tự insulin sinh học có thể đủ điều kiện tham gia chương trình sơ tuyển của WHO; việc sơ tuyển của WHO có thể dẫn đến việc các loại biosimilars đảm bảo chất lượng hơn được đưa vào thị trường quốc tế, tạo ra sự cạnh tranh để hạ giá thành và mang lại cho các quốc gia có có nguồn lực y tế thấp có sự lựa chọn sản phẩm tốt hơn.

4. Các chất tương tự insulin có tác dụng kéo dài mang lại một số lợi ích lâm sàng bổ sung cho bệnh nhân thông qua thời gian tác dụng kéo dài, điều này đảm bảo rằng mức đường huyết có thể được kiểm soát trong thời gian dài hơn mà không cần dùng liều tăng cường. Chúng mang lại lợi ích đặc biệt cho những bệnh nhân có mức đường huyết thấp nguy hiểm với insulin người. Sự linh hoạt hơn trong thời gian và liều lượng các chất tương tự insulin đã được chứng minh là cải thiện chất lượng cuộc sống cho những bệnh nhân mắc bệnh tiểu đường. Tuy nhiên, insulin vẫn là một yếu tố quan trọng trong điều trị bệnh tiểu đường và việc tiếp cận với loại thuốc cứu mạng này phải tiếp tục được hỗ trợ thông qua sự sẵn có và khả năng chi trả tốt hơn.

5. Danh mục cũng bao gồm các chất ức chế Sodium-Glucose Co-Transporter-2 (SGLT2) empagliflozin, canagliflozin và dapagliflozin như là liệu pháp hàng đầu ở người lớn mắc bệnh tiểu đường loại 2. Các loại thuốc uống này đã được chứng minh là mang lại một số lợi ích, bao gồm giảm nguy cơ tử vong, suy thận và các biến cố tim mạch. Bởi vì các chất ức chế SGLT2 vẫn được cấp bằng sáng chế và có giá cao, nên việc cải thiện khả năng tiếp cận với các loại thuốc điều trị bệnh tiểu đường bao gồm insulin và thuốc ức chế SGLT2 là một trong những quy trình của Hiệp định Tiểu đường toàn cầu, do WHO đưa ra vào tháng 4/2021 và là chủ đề chính được thảo luận với các nhà sản xuất thuốc.

6. Thuốc điều trị ung thư

Ung thư là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây ra bệnh tật và tử vong trên toàn thế giới (có gần 10 triệu ca tử vong vào năm 2020, trong đó 70% xảy ra ở các nước có thu nhập thấp và trung bình). Những đột phá mới đã được thực hiện trong điều trị ung thư trong những năm qua, như các loại thuốc nhắm vào đặc điểm phân tử cụ thể của khối u, một số trong số đó mang lại kết quả tốt hơn nhiều so với hóa trị liệu “truyền thống” cho nhiều loại ung thư. 4 loại thuốc mới để điều trị ung thư đã được thêm vào Danh mục thuốc thiết yếu lần này: 1) Enzalutamide - một chất thay thế cho abiraterone, dùng cho bệnh ung thư tuyến tiền liệt; 2) Everolimus - dùng cho u tế bào hình sao, một loại u não ở trẻ em; 3) Ibrutinib - một loại thuốc nhắm mục tiêu cho bệnh bạch cầu mạn tính; và 4) Rasburicase - thuốc điều trị biến chứng nghiêm trọng của một số phương pháp điều trị ung thư.

7. Danh mục cũng đã được mở rộng, bao gồm điều trị nhắm mục tiêu bệnh bạch cầu. Các chỉ định ung thư mới ở trẻ em đã được thêm vào cho 16 loại thuốc đã được liệt kê, bao gồm cả u thần kinh đệm cấp độ thấp (dạng u não phổ biến nhất ở trẻ em). Một nhóm các kháng thể giúp tăng cường phản ứng miễn dịch đối với các tế bào khối u, được gọi là chất ức chế điểm kiểm soát miễn dịch PD-1/PD-L1, không được khuyến khích đưa vào danh sách điều trị một số bệnh ung thư phổi, mặc dù có hiệu quả, chủ yếu là do chúng quá mạnh, giá cao và lo ngại rằng chúng khó quản lý trong các hệ thống y tế có nguồn lực thấp. Các loại thuốc điều trị ung thư khác không được khuyến khích niêm yết do không chắc chắn có thêm lợi ích lâm sàng so với các loại thuốc đã được niêm yết, giá cao và các vấn đề quản lý trong các cơ sở y tế có nguồn lực thấp. Chúng bao gồm osimertinib cho bệnh ung thư phổi, daratumumab cho bệnh đa u tủy và ba loại điều trị (thuốc ức chế CDK4/6, fulvestrant và pertuzumab) cho bệnh ung thư vú.

(Nguồn: Nguyễn Thị Hường; Theo who.int)

WHO là tên viết tắt của tổ chức nào dưới đây?

Đọc văn bản dưới đây và trả lời câu hỏi:

WHO ưu tiên tiếp cận các phương pháp điều trị bệnh tiểu đường và ung thư trong Danh mục thuốc thiết yếu mới

1. Thuốc điều trị bệnh tiểu đường

TS Tedros Adhanom Ghebreyesus - Tổng giám đốc WHO cho biết: bệnh tiểu đường đang gia tăng trên toàn cầu và tăng nhanh hơn ở các nước có thu nhập thấp và trung bình. Quá nhiều người cần insulin nhưng lại gặp khó khăn về tài chính. Danh mục thuốc thiết yếu bao gồm các chất tương tự insulin, cùng với nỗ lực đảm bảo khả năng tiếp cận với tất cả các sản phẩm insulin là một bước quan trọng để đảm bảo tất cả những ai cần sản phẩm cứu mạng này đều có thể tiếp cận được ”.

2. Insulin được phát hiện như một phương pháp điều trị bệnh tiểu đường cách đây 100 năm và nó đã nằm trong Danh mục thuốc thiết yếu của WHO lần đầu tiên vào năm 1977. Tuy nhiên, nguồn cung cấp insulin hạn chế, giá cao ở một số quốc gia có thu nhập thấp, trung bình hiện đang là một rào cản đáng kể đối với việc điều trị bệnh tiểu đường. Ví dụ, ở thủ đô Accra của Ghana, lượng insulin cần thiết cho một tháng sẽ khiến một công nhân tiêu tốn tương đương với 5,5 ngày lương mỗi tháng. Việc sản xuất insulin tập trung ở một số ít cơ sở sản xuất, trong đó có 3 nhà sản xuất kiểm soát phần lớn thị trường toàn cầu đã dẫn đến sự độc quyền, giá thành cao đối với nhiều người và hệ thống y tế.

3. Việc cho phép các chất tương tự insulin có tác dụng kéo dài (insulin degludec, detemir và glargine) và các biosimilars của chúng nhằm tăng khả năng tiếp cận điều trị bệnh tiểu đường. Điều này cũng có nghĩa là các chất tương tự insulin sinh học có thể đủ điều kiện tham gia chương trình sơ tuyển của WHO; việc sơ tuyển của WHO có thể dẫn đến việc các loại biosimilars đảm bảo chất lượng hơn được đưa vào thị trường quốc tế, tạo ra sự cạnh tranh để hạ giá thành và mang lại cho các quốc gia có có nguồn lực y tế thấp có sự lựa chọn sản phẩm tốt hơn.

4. Các chất tương tự insulin có tác dụng kéo dài mang lại một số lợi ích lâm sàng bổ sung cho bệnh nhân thông qua thời gian tác dụng kéo dài, điều này đảm bảo rằng mức đường huyết có thể được kiểm soát trong thời gian dài hơn mà không cần dùng liều tăng cường. Chúng mang lại lợi ích đặc biệt cho những bệnh nhân có mức đường huyết thấp nguy hiểm với insulin người. Sự linh hoạt hơn trong thời gian và liều lượng các chất tương tự insulin đã được chứng minh là cải thiện chất lượng cuộc sống cho những bệnh nhân mắc bệnh tiểu đường. Tuy nhiên, insulin vẫn là một yếu tố quan trọng trong điều trị bệnh tiểu đường và việc tiếp cận với loại thuốc cứu mạng này phải tiếp tục được hỗ trợ thông qua sự sẵn có và khả năng chi trả tốt hơn.

5. Danh mục cũng bao gồm các chất ức chế Sodium-Glucose Co-Transporter-2 (SGLT2) empagliflozin, canagliflozin và dapagliflozin như là liệu pháp hàng đầu ở người lớn mắc bệnh tiểu đường loại 2. Các loại thuốc uống này đã được chứng minh là mang lại một số lợi ích, bao gồm giảm nguy cơ tử vong, suy thận và các biến cố tim mạch. Bởi vì các chất ức chế SGLT2 vẫn được cấp bằng sáng chế và có giá cao, nên việc cải thiện khả năng tiếp cận với các loại thuốc điều trị bệnh tiểu đường bao gồm insulin và thuốc ức chế SGLT2 là một trong những quy trình của Hiệp định Tiểu đường toàn cầu, do WHO đưa ra vào tháng 4/2021 và là chủ đề chính được thảo luận với các nhà sản xuất thuốc.

6. Thuốc điều trị ung thư

Ung thư là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây ra bệnh tật và tử vong trên toàn thế giới (có gần 10 triệu ca tử vong vào năm 2020, trong đó 70% xảy ra ở các nước có thu nhập thấp và trung bình). Những đột phá mới đã được thực hiện trong điều trị ung thư trong những năm qua, như các loại thuốc nhắm vào đặc điểm phân tử cụ thể của khối u, một số trong số đó mang lại kết quả tốt hơn nhiều so với hóa trị liệu “truyền thống” cho nhiều loại ung thư. 4 loại thuốc mới để điều trị ung thư đã được thêm vào Danh mục thuốc thiết yếu lần này: 1) Enzalutamide - một chất thay thế cho abiraterone, dùng cho bệnh ung thư tuyến tiền liệt; 2) Everolimus - dùng cho u tế bào hình sao, một loại u não ở trẻ em; 3) Ibrutinib - một loại thuốc nhắm mục tiêu cho bệnh bạch cầu mạn tính; và 4) Rasburicase - thuốc điều trị biến chứng nghiêm trọng của một số phương pháp điều trị ung thư.

7. Danh mục cũng đã được mở rộng, bao gồm điều trị nhắm mục tiêu bệnh bạch cầu. Các chỉ định ung thư mới ở trẻ em đã được thêm vào cho 16 loại thuốc đã được liệt kê, bao gồm cả u thần kinh đệm cấp độ thấp (dạng u não phổ biến nhất ở trẻ em). Một nhóm các kháng thể giúp tăng cường phản ứng miễn dịch đối với các tế bào khối u, được gọi là chất ức chế điểm kiểm soát miễn dịch PD-1/PD-L1, không được khuyến khích đưa vào danh sách điều trị một số bệnh ung thư phổi, mặc dù có hiệu quả, chủ yếu là do chúng quá mạnh, giá cao và lo ngại rằng chúng khó quản lý trong các hệ thống y tế có nguồn lực thấp. Các loại thuốc điều trị ung thư khác không được khuyến khích niêm yết do không chắc chắn có thêm lợi ích lâm sàng so với các loại thuốc đã được niêm yết, giá cao và các vấn đề quản lý trong các cơ sở y tế có nguồn lực thấp. Chúng bao gồm osimertinib cho bệnh ung thư phổi, daratumumab cho bệnh đa u tủy và ba loại điều trị (thuốc ức chế CDK4/6, fulvestrant và pertuzumab) cho bệnh ung thư vú.

(Nguồn: Nguyễn Thị Hường; Theo who.int)

Theo bài đọc, loại thuốc thiết yếu nào được WHO ưu tiên?

Đọc văn bản dưới đây và trả lời câu hỏi:

WHO ưu tiên tiếp cận các phương pháp điều trị bệnh tiểu đường và ung thư trong Danh mục thuốc thiết yếu mới

1. Thuốc điều trị bệnh tiểu đường

TS Tedros Adhanom Ghebreyesus - Tổng giám đốc WHO cho biết: bệnh tiểu đường đang gia tăng trên toàn cầu và tăng nhanh hơn ở các nước có thu nhập thấp và trung bình. Quá nhiều người cần insulin nhưng lại gặp khó khăn về tài chính. Danh mục thuốc thiết yếu bao gồm các chất tương tự insulin, cùng với nỗ lực đảm bảo khả năng tiếp cận với tất cả các sản phẩm insulin là một bước quan trọng để đảm bảo tất cả những ai cần sản phẩm cứu mạng này đều có thể tiếp cận được ”.

2. Insulin được phát hiện như một phương pháp điều trị bệnh tiểu đường cách đây 100 năm và nó đã nằm trong Danh mục thuốc thiết yếu của WHO lần đầu tiên vào năm 1977. Tuy nhiên, nguồn cung cấp insulin hạn chế, giá cao ở một số quốc gia có thu nhập thấp, trung bình hiện đang là một rào cản đáng kể đối với việc điều trị bệnh tiểu đường. Ví dụ, ở thủ đô Accra của Ghana, lượng insulin cần thiết cho một tháng sẽ khiến một công nhân tiêu tốn tương đương với 5,5 ngày lương mỗi tháng. Việc sản xuất insulin tập trung ở một số ít cơ sở sản xuất, trong đó có 3 nhà sản xuất kiểm soát phần lớn thị trường toàn cầu đã dẫn đến sự độc quyền, giá thành cao đối với nhiều người và hệ thống y tế.

3. Việc cho phép các chất tương tự insulin có tác dụng kéo dài (insulin degludec, detemir và glargine) và các biosimilars của chúng nhằm tăng khả năng tiếp cận điều trị bệnh tiểu đường. Điều này cũng có nghĩa là các chất tương tự insulin sinh học có thể đủ điều kiện tham gia chương trình sơ tuyển của WHO; việc sơ tuyển của WHO có thể dẫn đến việc các loại biosimilars đảm bảo chất lượng hơn được đưa vào thị trường quốc tế, tạo ra sự cạnh tranh để hạ giá thành và mang lại cho các quốc gia có có nguồn lực y tế thấp có sự lựa chọn sản phẩm tốt hơn.

4. Các chất tương tự insulin có tác dụng kéo dài mang lại một số lợi ích lâm sàng bổ sung cho bệnh nhân thông qua thời gian tác dụng kéo dài, điều này đảm bảo rằng mức đường huyết có thể được kiểm soát trong thời gian dài hơn mà không cần dùng liều tăng cường. Chúng mang lại lợi ích đặc biệt cho những bệnh nhân có mức đường huyết thấp nguy hiểm với insulin người. Sự linh hoạt hơn trong thời gian và liều lượng các chất tương tự insulin đã được chứng minh là cải thiện chất lượng cuộc sống cho những bệnh nhân mắc bệnh tiểu đường. Tuy nhiên, insulin vẫn là một yếu tố quan trọng trong điều trị bệnh tiểu đường và việc tiếp cận với loại thuốc cứu mạng này phải tiếp tục được hỗ trợ thông qua sự sẵn có và khả năng chi trả tốt hơn.

5. Danh mục cũng bao gồm các chất ức chế Sodium-Glucose Co-Transporter-2 (SGLT2) empagliflozin, canagliflozin và dapagliflozin như là liệu pháp hàng đầu ở người lớn mắc bệnh tiểu đường loại 2. Các loại thuốc uống này đã được chứng minh là mang lại một số lợi ích, bao gồm giảm nguy cơ tử vong, suy thận và các biến cố tim mạch. Bởi vì các chất ức chế SGLT2 vẫn được cấp bằng sáng chế và có giá cao, nên việc cải thiện khả năng tiếp cận với các loại thuốc điều trị bệnh tiểu đường bao gồm insulin và thuốc ức chế SGLT2 là một trong những quy trình của Hiệp định Tiểu đường toàn cầu, do WHO đưa ra vào tháng 4/2021 và là chủ đề chính được thảo luận với các nhà sản xuất thuốc.

6. Thuốc điều trị ung thư

Ung thư là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây ra bệnh tật và tử vong trên toàn thế giới (có gần 10 triệu ca tử vong vào năm 2020, trong đó 70% xảy ra ở các nước có thu nhập thấp và trung bình). Những đột phá mới đã được thực hiện trong điều trị ung thư trong những năm qua, như các loại thuốc nhắm vào đặc điểm phân tử cụ thể của khối u, một số trong số đó mang lại kết quả tốt hơn nhiều so với hóa trị liệu “truyền thống” cho nhiều loại ung thư. 4 loại thuốc mới để điều trị ung thư đã được thêm vào Danh mục thuốc thiết yếu lần này: 1) Enzalutamide - một chất thay thế cho abiraterone, dùng cho bệnh ung thư tuyến tiền liệt; 2) Everolimus - dùng cho u tế bào hình sao, một loại u não ở trẻ em; 3) Ibrutinib - một loại thuốc nhắm mục tiêu cho bệnh bạch cầu mạn tính; và 4) Rasburicase - thuốc điều trị biến chứng nghiêm trọng của một số phương pháp điều trị ung thư.

7. Danh mục cũng đã được mở rộng, bao gồm điều trị nhắm mục tiêu bệnh bạch cầu. Các chỉ định ung thư mới ở trẻ em đã được thêm vào cho 16 loại thuốc đã được liệt kê, bao gồm cả u thần kinh đệm cấp độ thấp (dạng u não phổ biến nhất ở trẻ em). Một nhóm các kháng thể giúp tăng cường phản ứng miễn dịch đối với các tế bào khối u, được gọi là chất ức chế điểm kiểm soát miễn dịch PD-1/PD-L1, không được khuyến khích đưa vào danh sách điều trị một số bệnh ung thư phổi, mặc dù có hiệu quả, chủ yếu là do chúng quá mạnh, giá cao và lo ngại rằng chúng khó quản lý trong các hệ thống y tế có nguồn lực thấp. Các loại thuốc điều trị ung thư khác không được khuyến khích niêm yết do không chắc chắn có thêm lợi ích lâm sàng so với các loại thuốc đã được niêm yết, giá cao và các vấn đề quản lý trong các cơ sở y tế có nguồn lực thấp. Chúng bao gồm osimertinib cho bệnh ung thư phổi, daratumumab cho bệnh đa u tủy và ba loại điều trị (thuốc ức chế CDK4/6, fulvestrant và pertuzumab) cho bệnh ung thư vú.

(Nguồn: Nguyễn Thị Hường; Theo who.int)

Diễn đạt nào dưới đây thể hiện rõ nhất ý chính của bài đọc trên?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Mạch máu xấu - Nguyên nhân của bệnh tật và sự suy giảm tuổi thọ

(1) Các mạch máu, còn được gọi  là  các  mao  mạch,  nằm  ở  khắp  cơ thể.  99% mạch máu của con  người  được  cho  là  mao  mạch.  Tổng  chiều  dài  của  các  mao  mạch trong cơ thể của con người  lên đến 100.000 km, tức là có thể  quấn vòng quanh Trái đất 2,5 lần.  Các  mao  mạch  có  vai  trò  quan  trọng trong việc duy trì hoạt động  sống  của  con  người,  giúp  con  người khỏe mạnh. Các mao mạch  khỏe mạnh có thể suy giảm mạnh  ở tuổi 40 trở đi, và đến tuổi 60 thì  khoảng 40% mao mạch trong cơ  thể bị suy giảm. Cùng với sự gia  tăng của tuổi tác, các mao mạch  suy giảm hoặc vỡ ra trở thành các  mạch máu xấu. Sự suy giảm các  mao mạch được các nhà khoa học  ví như những con tàu ma của hệ  thống tuần hoàn máu, ở đó chỉ tồn  tại những mao mạch trống rỗng  mà không có sự lưu thông máu.  

(2) Mỗi mao mạch có đường kính  0,05-0,1 mm (khoảng 1/10 độ dày  của sợi tóc).  Bằng việc sử dụng  các  thiết  bị  chụp  ảnh  sinh  học  tối tân nhất với độ phân giải siêu  cao, các nhà khoa học đã đi sâu  tìm hiểu cơ chế và tác động của  những mao mạch xấu, từ đó tìm ra  các giải pháp để giúp con người  sống khỏe hơn và lâu hơn.  Qua  kính hiển vi và các thiết bị chuyên  dụng, có thể quan sát thấy sự biến  mất  của  các  mao  mạch. Những  nghiên cứu mới nhất đã tiết lộ cơ  chế  xuất  hiện  những  mạch  máu  xấu và phương pháp làm giảm sự  xuất hiện của chúng.

(3) Các nhà khoa học tại Đại học  Y Keio (Nhật Bản) đã tập trung  nghiên  cứu  mối  quan  hệ  giữa  mạch  máu  xấu  và  tuổi  thọ  con  người.  Một  lượng  lớn  dữ  liệu  về  những người sống thọ và bí quyết  sống thọ đã được thu thập. Nhóm  người  được  nghiên  cứu  sống  ở  vùng  đô  thị  có  độ  tuổi  trong  khoảng 85-98. Những người này  được theo dõi 16 chỉ số trong cơ  thể, trong đó đặc biệt chú ý chỉ  số về sức khỏe của đôi chân, chỉ  số về sự tiến triển của xơ cứng  động mạch và điện tâm đồ. Đây  là những chỉ số rất quan trọng để  xác  định  mối  quan  hệ  giữa  các  mao mạch và tuổi thọ.

(4) Các nhà khoa học đã sử dụng  một thiết bị có thể chụp và quan  sát các mao mạch để phát hiện  phạm vi các mạch máu xấu xuất  hiện trên cơ thể. Phạm vi của các  mạch  máu  xấu  xuất  hiện  ở  gốc  móng tay. Khu vực da mỏng ở gốc  móng tay giúp chúng ta quan sát  các mao mạch cũng như các tế  bào máu lưu thông một cách dễ  dàng.  

(5) Đến  tháng  3/2019,  nhóm  nghiên  cứu  của  GS  Yasumichi  Arai (Đại học Y Keio) đã kiểm tra  mao mạch của 1.000 người cao  tuổi để đưa ra kết luận rõ ràng về  mối quan hệ giữa mạch máu và  tuổi  thọ.  Theo  đó,  sự  xuất  hiện  mạch  máu  xấu  càng  nhiều  và  càng sớm sẽ có ảnh hưởng tiêu  cực  đến  tuổi  thọ.  Họ  cũng  phát  hiện ra rằng, các mạch máu xấu  xuất hiện ở giai đoạn khi cơ thể  còn  tương  đối  trẻ  (20-30  tuổi).  Quá  trình  này  diễn  ra  nhanh  chóng khiến những vùng da xấu  không ngừng mở rộng.

(6) Kẻ thù của sắc đẹp và nguyên nhân  của bệnh loãng xương

Mạch máu xấu không chỉ tác  động tiêu cực đến tuổi thọ mà nó  còn là kẻ thù của sắc đẹp. Những  mạch máu xấu hình thành nhiều  dưới da sẽ tiêu diệt các tế bào da,  khiến da trở nên nhăn nheo. Tại  Đại học Y Jichi (Nhật Bản), các  nhà  khoa  học  đã  áp  dụng  công  nghệ  mới  nhất  để  nghiên  cứu  hoạt  động  của  các  mao  mạch.  Trước đây, các nghiên cứu chưa  từng  quan  sát  một  cách  chi  tiết  những mao mạch nhỏ nhất trong  cơ thể. Tuy nhiên, nhờ những kỹ  thuật mới cho phép các nhà khoa  học  của  Đại  học  Y  Jichi  thành  công trong việc phát hiện những  mao mạch nhỏ nhất trong cơ thể  con  người.  Công  nghệ  mới  này  giúp chúng ta hiểu rõ hơn về tầm  quan  trọng  của  các  mao  mạch  cũng như hậu quả xảy ra khi các  mao mạch biến thành các mạch  máu xấu. Họ đã tiến hành nghiên  cứu mối liên hệ giữa mạch máu  xấu với các tế bào da.

(7) Các  mao  mạch  có  nhiệm  vụ  cung cấp oxy và chất dinh dưỡng  cho các tế bào riêng lẻ trên khắp  cơ  thể.  Những  mao  mạch  này  đóng  vai  trò  quan  trọng  đối  với  sắc  đẹp  và  sức  khỏe  của  con  người.  Nếu  các  mạch  máu  xấu  hình  thành  dưới  da,  chúng  sẽ  ngăn chặn việc cung cấp oxy và  dinh dưỡng cho các tế bào, làm  tăng các tế bào tổn hại da, khiến  da mất khả năng hồi phục. Chúng  có thể làm cho da nhăn nheo và  chảy sệ. Khi các mạch máu xấu  xuất hiện sẽ  đẩy nhanh quá trình  lão hóa,  là  nguyên  nhân  gây  ra  một loạt các căn bệnh liên quan  như:  huyết  áp  cao,  tiểu  đường,  các chứng bệnh về tim mạch và  ung  thư...  Không  chỉ  có  vậy,  khi  cơ thể xuất hiện mạch máu xấu  sẽ  xuất  hiện  những  căn  bệnh  khác như tóc rụng; bàn tay, bàn  chân lạnh hơn nhiệt độ cơ thể do  lượng nhiệt vận chuyển qua mạch  máu đến chúng bị kém đi. Ngoài  ra,  các  mạch  máu  xấu  còn  ảnh  hưởng  trực  tiếp  đến  chức  năng  gan,  thận;  làm  giảm  hiệu  quả  của thuốc trong quá trình điều trị  bệnh, đặc biệt là những loại thuốc  rất  quan  trọng  trong  cuộc  chiến  chống ung thư.

(8) Các  nhà  khoa  học  của  Viện  Max Planck (Đức) đã tìm ra mối  liên hệ giữa các mạch máu xấu  với  bệnh  loãng  xương.  Trong  nghiên  cứu  của  mình,  GS  Ralf  Adam (Viện Max Planck) đã tiến  hành thí nghiệm trên những con  chuột khỏe mạnh và những con  chuột già. Nhóm nghiên cứu của  ông đã tiên phong trong việc chụp  ảnh  thành  công  các  mao  mạch  trong  xương.  Những  hình  ảnh  cho  thấy,  những  con  chuột  già  bị loãng xương có rất ít các mao  mạch  trong  xương.  Nghiên  cứu  chỉ ra rằng, các mao mạch xấu và  trống rỗng làm loãng xương. Các  mao mạch có tác dụng cung cấp  canxi và các dưỡng chất giúp hình  thành  mô  xương  mới.  Khi  mao  mạch  trở  nên  xấu  đi,  việc  cung  cấp canxi cho xương không còn,  khiến các mô xương bị hoại tử.

(9) Kẻ lấy cắp trí nhớ

Nghiên cứu về vai trò của mạch  máu cũng như tác động tiêu cực  của mạch máu xấu đến não bộ,  lần đầu tiên, các nhà khoa học đã  phát hiện ra rằng, mạch máu xấu  là nguyên nhân gây ra chứng mất  trí nhớ. Các nhà khoa học thuộc  Đại học Nam California (Mỹ) đã  tập trung nghiên cứu yếu tố mấu  chốt liên quan đến các mao mạch  xấu trong não. Sử dụng kính hiển  vi đặc biệt, họ đã quan sát rất rõ  các tế bào nội mô. Những tế nào  này  hình  thành  giống  như  bức  tường của mạch máu, bên cạnh  những tế bào ngoại mạch. Những  tế bào nội mô tạo thành lớp niêm  mạc cho các mao mạch, giúp cho  máu tuần hoàn trong cơ thể; còn  những  tế  bào  ngoại  mạch  dính  chặt bên ngoài các mao mạch và  cố định ở đó. Các tế bào ngoại  mạch được dính kết lại để bảo vệ  cấu  trúc  các  mao  mạch.  Trong  các mao mạch khỏe mạnh, lượng  oxy và dinh dưỡng được liên kết  thông qua các lỗ hổng của tế bào  nội mô và vận chuyển đến các tế  bào xung quanh. Nhưng nếu các  tế  bào  ngoại  mạch  bắt  đầu  bóc  tách  làm  cho  phần  bảo  vệ  các  mao mạch không còn, khiến các  tế bào nội mô mất khả năng hỗ trợ  và trở nên yếu ớt. Những khoảng  trống  bên  trong  mao  mạch  trở  nên  rộng  hơn,  kết  quả  là  một  lượng lớn oxy và chất dinh dưỡng  bị  rò  rỉ  ra  ngoài.  Khi  đó,  máu  không  thể  lưu  thông  qua  những  chỗ bị rò rỉ, khiến các mạch máu  xấu không ngừng phát triển. GS  Berislav  Zlokovic  (Đại  học  Nam  California),  nhà  khoa  học  hàng  đầu  thế  giới  chuyên  nghiên  cứu  về các mạch máu não cho rằng,  tế bào ngoại mạch chỉ có ở những  mạch máu não, và “Tế bào ngoại  mạch  là  những  người  gác  cổng  các mao mạch trong não giúp tái  tạo protein. Nhưng nếu các tế bào  ngoại mạch tổn thương, nghĩa là  máu  không  thể  lưu  thông  bình  thường trong não”.

(10) Nhóm  nghiên  cứu  của  GS  Berislav  Zlokovic  quyết  định  tìm  hiểu những triệu chứng xuất hiện  trong  não  khi  các  tế  bào  ngoại  mạch  biến  mất.  Để  làm  được  việc  đó,  họ  đã  thử  nghiệm  trên  những con chuột bình thường và  những con chuột bị giảm 25% khả  năng tự tạo ra tế bào ngoại mạch  thông qua kỹ thuật di truyền. Thử  nghiệm  của  nhóm  GS  Berislav  Zlokovic là cho 2 con chuột chạy  trên  bánh  xe  quay,  sau  đó  cho  dừng bánh xe quay một cách đột  ngột.  Kết  quả  cho  thấy,  những  con chuột khỏe mạnh dễ dàng xử  lý tình huống bằng cách tiếp tục  cho bánh xe quay, nhưng những  con chuột bị giảm 25% khả năng  tự  tạo  ra  tế  bào  ngoại  mạch  lại  không thể kiểm soát được bánh  xe.  Từ  đó,  họ  đi  đến  kết  luận,  những mao mạch xấu làm giảm  khả  năng  hoạt  động  của  não  trước những phản ứng đột ngột.  Điều này dẫn đến triệu chứng mất  trí nhớ.  

(11) Trong  một  trường  hợp  khác,  các nhà nghiên cứu tại Bệnh viện  Đại  học  Ehime  và  Đại  học  Mie  (Nhật Bản) đã tiến hành một cuộc  kiểm tra sức khỏe đặc biệt, gọi là  kiểm tra chống lão hóa. Họ nghiên  cứu  những  bất  thường  của  não  ở giai đoạn sớm nhất để có thời  gian đưa ra các biện pháp trị liệu  hiệu quả nhất. Trong nghiên cứu  của mình, GS Hidekaru Tomimoto  (Đại học Mie, là một trong những  chuyên gia hàng đầu nghiên cứu  về vai trò của các mao mạch liên  quan tới chứng mất trí nhớ) nhận  thấy,  não  của  người  mắc  bệnh  Alzheimer có số lượng mao mạch  giảm  khoảng  29%  so  với  người  khỏe mạnh và những mạch máu  xấu  xuất  hiện  nhiều  hơn,  từ  đó  làm xuất hiện các Amyloid beta.  Các  nhà  khoa  học  tin  rằng,  khi  Amyloid  beta  xuất  hiện  với  số  lượng lớn trong não sẽ dẫn đến  tình  trạng  bệnh  Alzheimer.  Tuy  nhiên,  chứng  mất  trí  nhớ  không  chỉ  do  các  mạch  máu  xấu  gây  nên mà còn do các chứng bệnh  khác  gây  ra.  Nhưng  một  điều  chắc  chắn  rằng,  để  ngăn  chặn  bệnh Alzheimer thì điều cần làm  là phải ngăn chặn việc hình thành  các mạch máu xấu.

(12) Nghiên cứu của các nhà khoa  học nêu trên cũng đã chỉ ra một số  nguyên nhân dẫn đến sự xuất hiện  của những mạch máu xấu trong cơ  thể như: ăn nhiều, hút thuốc lá, bị  huyết  áp  cao,  lười  tập  thể  dục...  Chính vì vậy, cách tốt nhất để ngăn  ngừa sự xuất hiện các mạch máu  xấu  là  duy  trì  một  lối  sống  lành  mạnh: ăn uống khoa học (không  ăn  quá  nhiều),  không  hút  thuốc  lá, tập thể dục hoặc chơi một môn  thể thao nào đó hàng ngày... Một  trong những giải pháp thú vị mà  các  nhà  khoa  học  khuyên  mọi  người  là  thường  xuyên  thực  hiện  động tác thể dục  nâng cao gót hai  chân trong khi duỗi thẳng cơ lưng  và sau đó thả gót chân xuống. Đây  là giải pháp đơn giản không cần sự  hỗ trợ của thiết bị, đồng thời có thể  thực hiện ở bất cứ thời gian và địa  điểm nào.

(Nguồn: “Mạch máu xấu - Nguyên nhân của bệnh tật và sự suy giảm tuổi thọ”, Đỗ Thị Thanh Huyền, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)

Giải pháp ngăn ngừa sự xuất hiện các mạch máu xấu là gì?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Mạch máu xấu - Nguyên nhân của bệnh tật và sự suy giảm tuổi thọ

(1) Các mạch máu, còn được gọi  là  các  mao  mạch,  nằm  ở  khắp  cơ thể.  99% mạch máu của con  người  được  cho  là  mao  mạch.  Tổng  chiều  dài  của  các  mao  mạch trong cơ thể của con người  lên đến 100.000 km, tức là có thể  quấn vòng quanh Trái đất 2,5 lần.  Các  mao  mạch  có  vai  trò  quan  trọng trong việc duy trì hoạt động  sống  của  con  người,  giúp  con  người khỏe mạnh. Các mao mạch  khỏe mạnh có thể suy giảm mạnh  ở tuổi 40 trở đi, và đến tuổi 60 thì  khoảng 40% mao mạch trong cơ  thể bị suy giảm. Cùng với sự gia  tăng của tuổi tác, các mao mạch  suy giảm hoặc vỡ ra trở thành các  mạch máu xấu. Sự suy giảm các  mao mạch được các nhà khoa học  ví như những con tàu ma của hệ  thống tuần hoàn máu, ở đó chỉ tồn  tại những mao mạch trống rỗng  mà không có sự lưu thông máu.  

(2) Mỗi mao mạch có đường kính  0,05-0,1 mm (khoảng 1/10 độ dày  của sợi tóc).  Bằng việc sử dụng  các  thiết  bị  chụp  ảnh  sinh  học  tối tân nhất với độ phân giải siêu  cao, các nhà khoa học đã đi sâu  tìm hiểu cơ chế và tác động của  những mao mạch xấu, từ đó tìm ra  các giải pháp để giúp con người  sống khỏe hơn và lâu hơn.  Qua  kính hiển vi và các thiết bị chuyên  dụng, có thể quan sát thấy sự biến  mất  của  các  mao  mạch. Những  nghiên cứu mới nhất đã tiết lộ cơ  chế  xuất  hiện  những  mạch  máu  xấu và phương pháp làm giảm sự  xuất hiện của chúng.

(3) Các nhà khoa học tại Đại học  Y Keio (Nhật Bản) đã tập trung  nghiên  cứu  mối  quan  hệ  giữa  mạch  máu  xấu  và  tuổi  thọ  con  người.  Một  lượng  lớn  dữ  liệu  về  những người sống thọ và bí quyết  sống thọ đã được thu thập. Nhóm  người  được  nghiên  cứu  sống  ở  vùng  đô  thị  có  độ  tuổi  trong  khoảng 85-98. Những người này  được theo dõi 16 chỉ số trong cơ  thể, trong đó đặc biệt chú ý chỉ  số về sức khỏe của đôi chân, chỉ  số về sự tiến triển của xơ cứng  động mạch và điện tâm đồ. Đây  là những chỉ số rất quan trọng để  xác  định  mối  quan  hệ  giữa  các  mao mạch và tuổi thọ.

(4) Các nhà khoa học đã sử dụng  một thiết bị có thể chụp và quan  sát các mao mạch để phát hiện  phạm vi các mạch máu xấu xuất  hiện trên cơ thể. Phạm vi của các  mạch  máu  xấu  xuất  hiện  ở  gốc  móng tay. Khu vực da mỏng ở gốc  móng tay giúp chúng ta quan sát  các mao mạch cũng như các tế  bào máu lưu thông một cách dễ  dàng.  

(5) Đến  tháng  3/2019,  nhóm  nghiên  cứu  của  GS  Yasumichi  Arai (Đại học Y Keio) đã kiểm tra  mao mạch của 1.000 người cao  tuổi để đưa ra kết luận rõ ràng về  mối quan hệ giữa mạch máu và  tuổi  thọ.  Theo  đó,  sự  xuất  hiện  mạch  máu  xấu  càng  nhiều  và  càng sớm sẽ có ảnh hưởng tiêu  cực  đến  tuổi  thọ.  Họ  cũng  phát  hiện ra rằng, các mạch máu xấu  xuất hiện ở giai đoạn khi cơ thể  còn  tương  đối  trẻ  (20-30  tuổi).  Quá  trình  này  diễn  ra  nhanh  chóng khiến những vùng da xấu  không ngừng mở rộng.

(6) Kẻ thù của sắc đẹp và nguyên nhân  của bệnh loãng xương

Mạch máu xấu không chỉ tác  động tiêu cực đến tuổi thọ mà nó  còn là kẻ thù của sắc đẹp. Những  mạch máu xấu hình thành nhiều  dưới da sẽ tiêu diệt các tế bào da,  khiến da trở nên nhăn nheo. Tại  Đại học Y Jichi (Nhật Bản), các  nhà  khoa  học  đã  áp  dụng  công  nghệ  mới  nhất  để  nghiên  cứu  hoạt  động  của  các  mao  mạch.  Trước đây, các nghiên cứu chưa  từng  quan  sát  một  cách  chi  tiết  những mao mạch nhỏ nhất trong  cơ thể. Tuy nhiên, nhờ những kỹ  thuật mới cho phép các nhà khoa  học  của  Đại  học  Y  Jichi  thành  công trong việc phát hiện những  mao mạch nhỏ nhất trong cơ thể  con  người.  Công  nghệ  mới  này  giúp chúng ta hiểu rõ hơn về tầm  quan  trọng  của  các  mao  mạch  cũng như hậu quả xảy ra khi các  mao mạch biến thành các mạch  máu xấu. Họ đã tiến hành nghiên  cứu mối liên hệ giữa mạch máu  xấu với các tế bào da.

(7) Các  mao  mạch  có  nhiệm  vụ  cung cấp oxy và chất dinh dưỡng  cho các tế bào riêng lẻ trên khắp  cơ  thể.  Những  mao  mạch  này  đóng  vai  trò  quan  trọng  đối  với  sắc  đẹp  và  sức  khỏe  của  con  người.  Nếu  các  mạch  máu  xấu  hình  thành  dưới  da,  chúng  sẽ  ngăn chặn việc cung cấp oxy và  dinh dưỡng cho các tế bào, làm  tăng các tế bào tổn hại da, khiến  da mất khả năng hồi phục. Chúng  có thể làm cho da nhăn nheo và  chảy sệ. Khi các mạch máu xấu  xuất hiện sẽ  đẩy nhanh quá trình  lão hóa,  là  nguyên  nhân  gây  ra  một loạt các căn bệnh liên quan  như:  huyết  áp  cao,  tiểu  đường,  các chứng bệnh về tim mạch và  ung  thư...  Không  chỉ  có  vậy,  khi  cơ thể xuất hiện mạch máu xấu  sẽ  xuất  hiện  những  căn  bệnh  khác như tóc rụng; bàn tay, bàn  chân lạnh hơn nhiệt độ cơ thể do  lượng nhiệt vận chuyển qua mạch  máu đến chúng bị kém đi. Ngoài  ra,  các  mạch  máu  xấu  còn  ảnh  hưởng  trực  tiếp  đến  chức  năng  gan,  thận;  làm  giảm  hiệu  quả  của thuốc trong quá trình điều trị  bệnh, đặc biệt là những loại thuốc  rất  quan  trọng  trong  cuộc  chiến  chống ung thư.

(8) Các  nhà  khoa  học  của  Viện  Max Planck (Đức) đã tìm ra mối  liên hệ giữa các mạch máu xấu  với  bệnh  loãng  xương.  Trong  nghiên  cứu  của  mình,  GS  Ralf  Adam (Viện Max Planck) đã tiến  hành thí nghiệm trên những con  chuột khỏe mạnh và những con  chuột già. Nhóm nghiên cứu của  ông đã tiên phong trong việc chụp  ảnh  thành  công  các  mao  mạch  trong  xương.  Những  hình  ảnh  cho  thấy,  những  con  chuột  già  bị loãng xương có rất ít các mao  mạch  trong  xương.  Nghiên  cứu  chỉ ra rằng, các mao mạch xấu và  trống rỗng làm loãng xương. Các  mao mạch có tác dụng cung cấp  canxi và các dưỡng chất giúp hình  thành  mô  xương  mới.  Khi  mao  mạch  trở  nên  xấu  đi,  việc  cung  cấp canxi cho xương không còn,  khiến các mô xương bị hoại tử.

(9) Kẻ lấy cắp trí nhớ

Nghiên cứu về vai trò của mạch  máu cũng như tác động tiêu cực  của mạch máu xấu đến não bộ,  lần đầu tiên, các nhà khoa học đã  phát hiện ra rằng, mạch máu xấu  là nguyên nhân gây ra chứng mất  trí nhớ. Các nhà khoa học thuộc  Đại học Nam California (Mỹ) đã  tập trung nghiên cứu yếu tố mấu  chốt liên quan đến các mao mạch  xấu trong não. Sử dụng kính hiển  vi đặc biệt, họ đã quan sát rất rõ  các tế bào nội mô. Những tế nào  này  hình  thành  giống  như  bức  tường của mạch máu, bên cạnh  những tế bào ngoại mạch. Những  tế bào nội mô tạo thành lớp niêm  mạc cho các mao mạch, giúp cho  máu tuần hoàn trong cơ thể; còn  những  tế  bào  ngoại  mạch  dính  chặt bên ngoài các mao mạch và  cố định ở đó. Các tế bào ngoại  mạch được dính kết lại để bảo vệ  cấu  trúc  các  mao  mạch.  Trong  các mao mạch khỏe mạnh, lượng  oxy và dinh dưỡng được liên kết  thông qua các lỗ hổng của tế bào  nội mô và vận chuyển đến các tế  bào xung quanh. Nhưng nếu các  tế  bào  ngoại  mạch  bắt  đầu  bóc  tách  làm  cho  phần  bảo  vệ  các  mao mạch không còn, khiến các  tế bào nội mô mất khả năng hỗ trợ  và trở nên yếu ớt. Những khoảng  trống  bên  trong  mao  mạch  trở  nên  rộng  hơn,  kết  quả  là  một  lượng lớn oxy và chất dinh dưỡng  bị  rò  rỉ  ra  ngoài.  Khi  đó,  máu  không  thể  lưu  thông  qua  những  chỗ bị rò rỉ, khiến các mạch máu  xấu không ngừng phát triển. GS  Berislav  Zlokovic  (Đại  học  Nam  California),  nhà  khoa  học  hàng  đầu  thế  giới  chuyên  nghiên  cứu  về các mạch máu não cho rằng,  tế bào ngoại mạch chỉ có ở những  mạch máu não, và “Tế bào ngoại  mạch  là  những  người  gác  cổng  các mao mạch trong não giúp tái  tạo protein. Nhưng nếu các tế bào  ngoại mạch tổn thương, nghĩa là  máu  không  thể  lưu  thông  bình  thường trong não”.

(10) Nhóm  nghiên  cứu  của  GS  Berislav  Zlokovic  quyết  định  tìm  hiểu những triệu chứng xuất hiện  trong  não  khi  các  tế  bào  ngoại  mạch  biến  mất.  Để  làm  được  việc  đó,  họ  đã  thử  nghiệm  trên  những con chuột bình thường và  những con chuột bị giảm 25% khả  năng tự tạo ra tế bào ngoại mạch  thông qua kỹ thuật di truyền. Thử  nghiệm  của  nhóm  GS  Berislav  Zlokovic là cho 2 con chuột chạy  trên  bánh  xe  quay,  sau  đó  cho  dừng bánh xe quay một cách đột  ngột.  Kết  quả  cho  thấy,  những  con chuột khỏe mạnh dễ dàng xử  lý tình huống bằng cách tiếp tục  cho bánh xe quay, nhưng những  con chuột bị giảm 25% khả năng  tự  tạo  ra  tế  bào  ngoại  mạch  lại  không thể kiểm soát được bánh  xe.  Từ  đó,  họ  đi  đến  kết  luận,  những mao mạch xấu làm giảm  khả  năng  hoạt  động  của  não  trước những phản ứng đột ngột.  Điều này dẫn đến triệu chứng mất  trí nhớ.  

(11) Trong  một  trường  hợp  khác,  các nhà nghiên cứu tại Bệnh viện  Đại  học  Ehime  và  Đại  học  Mie  (Nhật Bản) đã tiến hành một cuộc  kiểm tra sức khỏe đặc biệt, gọi là  kiểm tra chống lão hóa. Họ nghiên  cứu  những  bất  thường  của  não  ở giai đoạn sớm nhất để có thời  gian đưa ra các biện pháp trị liệu  hiệu quả nhất. Trong nghiên cứu  của mình, GS Hidekaru Tomimoto  (Đại học Mie, là một trong những  chuyên gia hàng đầu nghiên cứu  về vai trò của các mao mạch liên  quan tới chứng mất trí nhớ) nhận  thấy,  não  của  người  mắc  bệnh  Alzheimer có số lượng mao mạch  giảm  khoảng  29%  so  với  người  khỏe mạnh và những mạch máu  xấu  xuất  hiện  nhiều  hơn,  từ  đó  làm xuất hiện các Amyloid beta.  Các  nhà  khoa  học  tin  rằng,  khi  Amyloid  beta  xuất  hiện  với  số  lượng lớn trong não sẽ dẫn đến  tình  trạng  bệnh  Alzheimer.  Tuy  nhiên,  chứng  mất  trí  nhớ  không  chỉ  do  các  mạch  máu  xấu  gây  nên mà còn do các chứng bệnh  khác  gây  ra.  Nhưng  một  điều  chắc  chắn  rằng,  để  ngăn  chặn  bệnh Alzheimer thì điều cần làm  là phải ngăn chặn việc hình thành  các mạch máu xấu.

(12) Nghiên cứu của các nhà khoa  học nêu trên cũng đã chỉ ra một số  nguyên nhân dẫn đến sự xuất hiện  của những mạch máu xấu trong cơ  thể như: ăn nhiều, hút thuốc lá, bị  huyết  áp  cao,  lười  tập  thể  dục...  Chính vì vậy, cách tốt nhất để ngăn  ngừa sự xuất hiện các mạch máu  xấu  là  duy  trì  một  lối  sống  lành  mạnh: ăn uống khoa học (không  ăn  quá  nhiều),  không  hút  thuốc  lá, tập thể dục hoặc chơi một môn  thể thao nào đó hàng ngày... Một  trong những giải pháp thú vị mà  các  nhà  khoa  học  khuyên  mọi  người  là  thường  xuyên  thực  hiện  động tác thể dục  nâng cao gót hai  chân trong khi duỗi thẳng cơ lưng  và sau đó thả gót chân xuống. Đây  là giải pháp đơn giản không cần sự  hỗ trợ của thiết bị, đồng thời có thể  thực hiện ở bất cứ thời gian và địa  điểm nào.

(Nguồn: “Mạch máu xấu - Nguyên nhân của bệnh tật và sự suy giảm tuổi thọ”, Đỗ Thị Thanh Huyền, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)

Các mạch máu xấu có thể gây ra căn bệnh nào?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Mạch máu xấu - Nguyên nhân của bệnh tật và sự suy giảm tuổi thọ

(1) Các mạch máu, còn được gọi  là  các  mao  mạch,  nằm  ở  khắp  cơ thể.  99% mạch máu của con  người  được  cho  là  mao  mạch.  Tổng  chiều  dài  của  các  mao  mạch trong cơ thể của con người  lên đến 100.000 km, tức là có thể  quấn vòng quanh Trái đất 2,5 lần.  Các  mao  mạch  có  vai  trò  quan  trọng trong việc duy trì hoạt động  sống  của  con  người,  giúp  con  người khỏe mạnh. Các mao mạch  khỏe mạnh có thể suy giảm mạnh  ở tuổi 40 trở đi, và đến tuổi 60 thì  khoảng 40% mao mạch trong cơ  thể bị suy giảm. Cùng với sự gia  tăng của tuổi tác, các mao mạch  suy giảm hoặc vỡ ra trở thành các  mạch máu xấu. Sự suy giảm các  mao mạch được các nhà khoa học  ví như những con tàu ma của hệ  thống tuần hoàn máu, ở đó chỉ tồn  tại những mao mạch trống rỗng  mà không có sự lưu thông máu.  

(2) Mỗi mao mạch có đường kính  0,05-0,1 mm (khoảng 1/10 độ dày  của sợi tóc).  Bằng việc sử dụng  các  thiết  bị  chụp  ảnh  sinh  học  tối tân nhất với độ phân giải siêu  cao, các nhà khoa học đã đi sâu  tìm hiểu cơ chế và tác động của  những mao mạch xấu, từ đó tìm ra  các giải pháp để giúp con người  sống khỏe hơn và lâu hơn.  Qua  kính hiển vi và các thiết bị chuyên  dụng, có thể quan sát thấy sự biến  mất  của  các  mao  mạch. Những  nghiên cứu mới nhất đã tiết lộ cơ  chế  xuất  hiện  những  mạch  máu  xấu và phương pháp làm giảm sự  xuất hiện của chúng.

(3) Các nhà khoa học tại Đại học  Y Keio (Nhật Bản) đã tập trung  nghiên  cứu  mối  quan  hệ  giữa  mạch  máu  xấu  và  tuổi  thọ  con  người.  Một  lượng  lớn  dữ  liệu  về  những người sống thọ và bí quyết  sống thọ đã được thu thập. Nhóm  người  được  nghiên  cứu  sống  ở  vùng  đô  thị  có  độ  tuổi  trong  khoảng 85-98. Những người này  được theo dõi 16 chỉ số trong cơ  thể, trong đó đặc biệt chú ý chỉ  số về sức khỏe của đôi chân, chỉ  số về sự tiến triển của xơ cứng  động mạch và điện tâm đồ. Đây  là những chỉ số rất quan trọng để  xác  định  mối  quan  hệ  giữa  các  mao mạch và tuổi thọ.

(4) Các nhà khoa học đã sử dụng  một thiết bị có thể chụp và quan  sát các mao mạch để phát hiện  phạm vi các mạch máu xấu xuất  hiện trên cơ thể. Phạm vi của các  mạch  máu  xấu  xuất  hiện  ở  gốc  móng tay. Khu vực da mỏng ở gốc  móng tay giúp chúng ta quan sát  các mao mạch cũng như các tế  bào máu lưu thông một cách dễ  dàng.  

(5) Đến  tháng  3/2019,  nhóm  nghiên  cứu  của  GS  Yasumichi  Arai (Đại học Y Keio) đã kiểm tra  mao mạch của 1.000 người cao  tuổi để đưa ra kết luận rõ ràng về  mối quan hệ giữa mạch máu và  tuổi  thọ.  Theo  đó,  sự  xuất  hiện  mạch  máu  xấu  càng  nhiều  và  càng sớm sẽ có ảnh hưởng tiêu  cực  đến  tuổi  thọ.  Họ  cũng  phát  hiện ra rằng, các mạch máu xấu  xuất hiện ở giai đoạn khi cơ thể  còn  tương  đối  trẻ  (20-30  tuổi).  Quá  trình  này  diễn  ra  nhanh  chóng khiến những vùng da xấu  không ngừng mở rộng.

(6) Kẻ thù của sắc đẹp và nguyên nhân  của bệnh loãng xương

Mạch máu xấu không chỉ tác  động tiêu cực đến tuổi thọ mà nó  còn là kẻ thù của sắc đẹp. Những  mạch máu xấu hình thành nhiều  dưới da sẽ tiêu diệt các tế bào da,  khiến da trở nên nhăn nheo. Tại  Đại học Y Jichi (Nhật Bản), các  nhà  khoa  học  đã  áp  dụng  công  nghệ  mới  nhất  để  nghiên  cứu  hoạt  động  của  các  mao  mạch.  Trước đây, các nghiên cứu chưa  từng  quan  sát  một  cách  chi  tiết  những mao mạch nhỏ nhất trong  cơ thể. Tuy nhiên, nhờ những kỹ  thuật mới cho phép các nhà khoa  học  của  Đại  học  Y  Jichi  thành  công trong việc phát hiện những  mao mạch nhỏ nhất trong cơ thể  con  người.  Công  nghệ  mới  này  giúp chúng ta hiểu rõ hơn về tầm  quan  trọng  của  các  mao  mạch  cũng như hậu quả xảy ra khi các  mao mạch biến thành các mạch  máu xấu. Họ đã tiến hành nghiên  cứu mối liên hệ giữa mạch máu  xấu với các tế bào da.

(7) Các  mao  mạch  có  nhiệm  vụ  cung cấp oxy và chất dinh dưỡng  cho các tế bào riêng lẻ trên khắp  cơ  thể.  Những  mao  mạch  này  đóng  vai  trò  quan  trọng  đối  với  sắc  đẹp  và  sức  khỏe  của  con  người.  Nếu  các  mạch  máu  xấu  hình  thành  dưới  da,  chúng  sẽ  ngăn chặn việc cung cấp oxy và  dinh dưỡng cho các tế bào, làm  tăng các tế bào tổn hại da, khiến  da mất khả năng hồi phục. Chúng  có thể làm cho da nhăn nheo và  chảy sệ. Khi các mạch máu xấu  xuất hiện sẽ  đẩy nhanh quá trình  lão hóa,  là  nguyên  nhân  gây  ra  một loạt các căn bệnh liên quan  như:  huyết  áp  cao,  tiểu  đường,  các chứng bệnh về tim mạch và  ung  thư...  Không  chỉ  có  vậy,  khi  cơ thể xuất hiện mạch máu xấu  sẽ  xuất  hiện  những  căn  bệnh  khác như tóc rụng; bàn tay, bàn  chân lạnh hơn nhiệt độ cơ thể do  lượng nhiệt vận chuyển qua mạch  máu đến chúng bị kém đi. Ngoài  ra,  các  mạch  máu  xấu  còn  ảnh  hưởng  trực  tiếp  đến  chức  năng  gan,  thận;  làm  giảm  hiệu  quả  của thuốc trong quá trình điều trị  bệnh, đặc biệt là những loại thuốc  rất  quan  trọng  trong  cuộc  chiến  chống ung thư.

(8) Các  nhà  khoa  học  của  Viện  Max Planck (Đức) đã tìm ra mối  liên hệ giữa các mạch máu xấu  với  bệnh  loãng  xương.  Trong  nghiên  cứu  của  mình,  GS  Ralf  Adam (Viện Max Planck) đã tiến  hành thí nghiệm trên những con  chuột khỏe mạnh và những con  chuột già. Nhóm nghiên cứu của  ông đã tiên phong trong việc chụp  ảnh  thành  công  các  mao  mạch  trong  xương.  Những  hình  ảnh  cho  thấy,  những  con  chuột  già  bị loãng xương có rất ít các mao  mạch  trong  xương.  Nghiên  cứu  chỉ ra rằng, các mao mạch xấu và  trống rỗng làm loãng xương. Các  mao mạch có tác dụng cung cấp  canxi và các dưỡng chất giúp hình  thành  mô  xương  mới.  Khi  mao  mạch  trở  nên  xấu  đi,  việc  cung  cấp canxi cho xương không còn,  khiến các mô xương bị hoại tử.

(9) Kẻ lấy cắp trí nhớ

Nghiên cứu về vai trò của mạch  máu cũng như tác động tiêu cực  của mạch máu xấu đến não bộ,  lần đầu tiên, các nhà khoa học đã  phát hiện ra rằng, mạch máu xấu  là nguyên nhân gây ra chứng mất  trí nhớ. Các nhà khoa học thuộc  Đại học Nam California (Mỹ) đã  tập trung nghiên cứu yếu tố mấu  chốt liên quan đến các mao mạch  xấu trong não. Sử dụng kính hiển  vi đặc biệt, họ đã quan sát rất rõ  các tế bào nội mô. Những tế nào  này  hình  thành  giống  như  bức  tường của mạch máu, bên cạnh  những tế bào ngoại mạch. Những  tế bào nội mô tạo thành lớp niêm  mạc cho các mao mạch, giúp cho  máu tuần hoàn trong cơ thể; còn  những  tế  bào  ngoại  mạch  dính  chặt bên ngoài các mao mạch và  cố định ở đó. Các tế bào ngoại  mạch được dính kết lại để bảo vệ  cấu  trúc  các  mao  mạch.  Trong  các mao mạch khỏe mạnh, lượng  oxy và dinh dưỡng được liên kết  thông qua các lỗ hổng của tế bào  nội mô và vận chuyển đến các tế  bào xung quanh. Nhưng nếu các  tế  bào  ngoại  mạch  bắt  đầu  bóc  tách  làm  cho  phần  bảo  vệ  các  mao mạch không còn, khiến các  tế bào nội mô mất khả năng hỗ trợ  và trở nên yếu ớt. Những khoảng  trống  bên  trong  mao  mạch  trở  nên  rộng  hơn,  kết  quả  là  một  lượng lớn oxy và chất dinh dưỡng  bị  rò  rỉ  ra  ngoài.  Khi  đó,  máu  không  thể  lưu  thông  qua  những  chỗ bị rò rỉ, khiến các mạch máu  xấu không ngừng phát triển. GS  Berislav  Zlokovic  (Đại  học  Nam  California),  nhà  khoa  học  hàng  đầu  thế  giới  chuyên  nghiên  cứu  về các mạch máu não cho rằng,  tế bào ngoại mạch chỉ có ở những  mạch máu não, và “Tế bào ngoại  mạch  là  những  người  gác  cổng  các mao mạch trong não giúp tái  tạo protein. Nhưng nếu các tế bào  ngoại mạch tổn thương, nghĩa là  máu  không  thể  lưu  thông  bình  thường trong não”.

(10) Nhóm  nghiên  cứu  của  GS  Berislav  Zlokovic  quyết  định  tìm  hiểu những triệu chứng xuất hiện  trong  não  khi  các  tế  bào  ngoại  mạch  biến  mất.  Để  làm  được  việc  đó,  họ  đã  thử  nghiệm  trên  những con chuột bình thường và  những con chuột bị giảm 25% khả  năng tự tạo ra tế bào ngoại mạch  thông qua kỹ thuật di truyền. Thử  nghiệm  của  nhóm  GS  Berislav  Zlokovic là cho 2 con chuột chạy  trên  bánh  xe  quay,  sau  đó  cho  dừng bánh xe quay một cách đột  ngột.  Kết  quả  cho  thấy,  những  con chuột khỏe mạnh dễ dàng xử  lý tình huống bằng cách tiếp tục  cho bánh xe quay, nhưng những  con chuột bị giảm 25% khả năng  tự  tạo  ra  tế  bào  ngoại  mạch  lại  không thể kiểm soát được bánh  xe.  Từ  đó,  họ  đi  đến  kết  luận,  những mao mạch xấu làm giảm  khả  năng  hoạt  động  của  não  trước những phản ứng đột ngột.  Điều này dẫn đến triệu chứng mất  trí nhớ.  

(11) Trong  một  trường  hợp  khác,  các nhà nghiên cứu tại Bệnh viện  Đại  học  Ehime  và  Đại  học  Mie  (Nhật Bản) đã tiến hành một cuộc  kiểm tra sức khỏe đặc biệt, gọi là  kiểm tra chống lão hóa. Họ nghiên  cứu  những  bất  thường  của  não  ở giai đoạn sớm nhất để có thời  gian đưa ra các biện pháp trị liệu  hiệu quả nhất. Trong nghiên cứu  của mình, GS Hidekaru Tomimoto  (Đại học Mie, là một trong những  chuyên gia hàng đầu nghiên cứu  về vai trò của các mao mạch liên  quan tới chứng mất trí nhớ) nhận  thấy,  não  của  người  mắc  bệnh  Alzheimer có số lượng mao mạch  giảm  khoảng  29%  so  với  người  khỏe mạnh và những mạch máu  xấu  xuất  hiện  nhiều  hơn,  từ  đó  làm xuất hiện các Amyloid beta.  Các  nhà  khoa  học  tin  rằng,  khi  Amyloid  beta  xuất  hiện  với  số  lượng lớn trong não sẽ dẫn đến  tình  trạng  bệnh  Alzheimer.  Tuy  nhiên,  chứng  mất  trí  nhớ  không  chỉ  do  các  mạch  máu  xấu  gây  nên mà còn do các chứng bệnh  khác  gây  ra.  Nhưng  một  điều  chắc  chắn  rằng,  để  ngăn  chặn  bệnh Alzheimer thì điều cần làm  là phải ngăn chặn việc hình thành  các mạch máu xấu.

(12) Nghiên cứu của các nhà khoa  học nêu trên cũng đã chỉ ra một số  nguyên nhân dẫn đến sự xuất hiện  của những mạch máu xấu trong cơ  thể như: ăn nhiều, hút thuốc lá, bị  huyết  áp  cao,  lười  tập  thể  dục...  Chính vì vậy, cách tốt nhất để ngăn  ngừa sự xuất hiện các mạch máu  xấu  là  duy  trì  một  lối  sống  lành  mạnh: ăn uống khoa học (không  ăn  quá  nhiều),  không  hút  thuốc  lá, tập thể dục hoặc chơi một môn  thể thao nào đó hàng ngày... Một  trong những giải pháp thú vị mà  các  nhà  khoa  học  khuyên  mọi  người  là  thường  xuyên  thực  hiện  động tác thể dục  nâng cao gót hai  chân trong khi duỗi thẳng cơ lưng  và sau đó thả gót chân xuống. Đây  là giải pháp đơn giản không cần sự  hỗ trợ của thiết bị, đồng thời có thể  thực hiện ở bất cứ thời gian và địa  điểm nào.

(Nguồn: “Mạch máu xấu - Nguyên nhân của bệnh tật và sự suy giảm tuổi thọ”, Đỗ Thị Thanh Huyền, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)

Tại sao các mao mạch xấu lại ảnh hưởng đến sắc đẹp?  

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Mạch máu xấu - Nguyên nhân của bệnh tật và sự suy giảm tuổi thọ

(1) Các mạch máu, còn được gọi  là  các  mao  mạch,  nằm  ở  khắp  cơ thể.  99% mạch máu của con  người  được  cho  là  mao  mạch.  Tổng  chiều  dài  của  các  mao  mạch trong cơ thể của con người  lên đến 100.000 km, tức là có thể  quấn vòng quanh Trái đất 2,5 lần.  Các  mao  mạch  có  vai  trò  quan  trọng trong việc duy trì hoạt động  sống  của  con  người,  giúp  con  người khỏe mạnh. Các mao mạch  khỏe mạnh có thể suy giảm mạnh  ở tuổi 40 trở đi, và đến tuổi 60 thì  khoảng 40% mao mạch trong cơ  thể bị suy giảm. Cùng với sự gia  tăng của tuổi tác, các mao mạch  suy giảm hoặc vỡ ra trở thành các  mạch máu xấu. Sự suy giảm các  mao mạch được các nhà khoa học  ví như những con tàu ma của hệ  thống tuần hoàn máu, ở đó chỉ tồn  tại những mao mạch trống rỗng  mà không có sự lưu thông máu.  

(2) Mỗi mao mạch có đường kính  0,05-0,1 mm (khoảng 1/10 độ dày  của sợi tóc).  Bằng việc sử dụng  các  thiết  bị  chụp  ảnh  sinh  học  tối tân nhất với độ phân giải siêu  cao, các nhà khoa học đã đi sâu  tìm hiểu cơ chế và tác động của  những mao mạch xấu, từ đó tìm ra  các giải pháp để giúp con người  sống khỏe hơn và lâu hơn.  Qua  kính hiển vi và các thiết bị chuyên  dụng, có thể quan sát thấy sự biến  mất  của  các  mao  mạch. Những  nghiên cứu mới nhất đã tiết lộ cơ  chế  xuất  hiện  những  mạch  máu  xấu và phương pháp làm giảm sự  xuất hiện của chúng.

(3) Các nhà khoa học tại Đại học  Y Keio (Nhật Bản) đã tập trung  nghiên  cứu  mối  quan  hệ  giữa  mạch  máu  xấu  và  tuổi  thọ  con  người.  Một  lượng  lớn  dữ  liệu  về  những người sống thọ và bí quyết  sống thọ đã được thu thập. Nhóm  người  được  nghiên  cứu  sống  ở  vùng  đô  thị  có  độ  tuổi  trong  khoảng 85-98. Những người này  được theo dõi 16 chỉ số trong cơ  thể, trong đó đặc biệt chú ý chỉ  số về sức khỏe của đôi chân, chỉ  số về sự tiến triển của xơ cứng  động mạch và điện tâm đồ. Đây  là những chỉ số rất quan trọng để  xác  định  mối  quan  hệ  giữa  các  mao mạch và tuổi thọ.

(4) Các nhà khoa học đã sử dụng  một thiết bị có thể chụp và quan  sát các mao mạch để phát hiện  phạm vi các mạch máu xấu xuất  hiện trên cơ thể. Phạm vi của các  mạch  máu  xấu  xuất  hiện  ở  gốc  móng tay. Khu vực da mỏng ở gốc  móng tay giúp chúng ta quan sát  các mao mạch cũng như các tế  bào máu lưu thông một cách dễ  dàng.  

(5) Đến  tháng  3/2019,  nhóm  nghiên  cứu  của  GS  Yasumichi  Arai (Đại học Y Keio) đã kiểm tra  mao mạch của 1.000 người cao  tuổi để đưa ra kết luận rõ ràng về  mối quan hệ giữa mạch máu và  tuổi  thọ.  Theo  đó,  sự  xuất  hiện  mạch  máu  xấu  càng  nhiều  và  càng sớm sẽ có ảnh hưởng tiêu  cực  đến  tuổi  thọ.  Họ  cũng  phát  hiện ra rằng, các mạch máu xấu  xuất hiện ở giai đoạn khi cơ thể  còn  tương  đối  trẻ  (20-30  tuổi).  Quá  trình  này  diễn  ra  nhanh  chóng khiến những vùng da xấu  không ngừng mở rộng.

(6) Kẻ thù của sắc đẹp và nguyên nhân  của bệnh loãng xương

Mạch máu xấu không chỉ tác  động tiêu cực đến tuổi thọ mà nó  còn là kẻ thù của sắc đẹp. Những  mạch máu xấu hình thành nhiều  dưới da sẽ tiêu diệt các tế bào da,  khiến da trở nên nhăn nheo. Tại  Đại học Y Jichi (Nhật Bản), các  nhà  khoa  học  đã  áp  dụng  công  nghệ  mới  nhất  để  nghiên  cứu  hoạt  động  của  các  mao  mạch.  Trước đây, các nghiên cứu chưa  từng  quan  sát  một  cách  chi  tiết  những mao mạch nhỏ nhất trong  cơ thể. Tuy nhiên, nhờ những kỹ  thuật mới cho phép các nhà khoa  học  của  Đại  học  Y  Jichi  thành  công trong việc phát hiện những  mao mạch nhỏ nhất trong cơ thể  con  người.  Công  nghệ  mới  này  giúp chúng ta hiểu rõ hơn về tầm  quan  trọng  của  các  mao  mạch  cũng như hậu quả xảy ra khi các  mao mạch biến thành các mạch  máu xấu. Họ đã tiến hành nghiên  cứu mối liên hệ giữa mạch máu  xấu với các tế bào da.

(7) Các  mao  mạch  có  nhiệm  vụ  cung cấp oxy và chất dinh dưỡng  cho các tế bào riêng lẻ trên khắp  cơ  thể.  Những  mao  mạch  này  đóng  vai  trò  quan  trọng  đối  với  sắc  đẹp  và  sức  khỏe  của  con  người.  Nếu  các  mạch  máu  xấu  hình  thành  dưới  da,  chúng  sẽ  ngăn chặn việc cung cấp oxy và  dinh dưỡng cho các tế bào, làm  tăng các tế bào tổn hại da, khiến  da mất khả năng hồi phục. Chúng  có thể làm cho da nhăn nheo và  chảy sệ. Khi các mạch máu xấu  xuất hiện sẽ  đẩy nhanh quá trình  lão hóa,  là  nguyên  nhân  gây  ra  một loạt các căn bệnh liên quan  như:  huyết  áp  cao,  tiểu  đường,  các chứng bệnh về tim mạch và  ung  thư...  Không  chỉ  có  vậy,  khi  cơ thể xuất hiện mạch máu xấu  sẽ  xuất  hiện  những  căn  bệnh  khác như tóc rụng; bàn tay, bàn  chân lạnh hơn nhiệt độ cơ thể do  lượng nhiệt vận chuyển qua mạch  máu đến chúng bị kém đi. Ngoài  ra,  các  mạch  máu  xấu  còn  ảnh  hưởng  trực  tiếp  đến  chức  năng  gan,  thận;  làm  giảm  hiệu  quả  của thuốc trong quá trình điều trị  bệnh, đặc biệt là những loại thuốc  rất  quan  trọng  trong  cuộc  chiến  chống ung thư.

(8) Các  nhà  khoa  học  của  Viện  Max Planck (Đức) đã tìm ra mối  liên hệ giữa các mạch máu xấu  với  bệnh  loãng  xương.  Trong  nghiên  cứu  của  mình,  GS  Ralf  Adam (Viện Max Planck) đã tiến  hành thí nghiệm trên những con  chuột khỏe mạnh và những con  chuột già. Nhóm nghiên cứu của  ông đã tiên phong trong việc chụp  ảnh  thành  công  các  mao  mạch  trong  xương.  Những  hình  ảnh  cho  thấy,  những  con  chuột  già  bị loãng xương có rất ít các mao  mạch  trong  xương.  Nghiên  cứu  chỉ ra rằng, các mao mạch xấu và  trống rỗng làm loãng xương. Các  mao mạch có tác dụng cung cấp  canxi và các dưỡng chất giúp hình  thành  mô  xương  mới.  Khi  mao  mạch  trở  nên  xấu  đi,  việc  cung  cấp canxi cho xương không còn,  khiến các mô xương bị hoại tử.

(9) Kẻ lấy cắp trí nhớ

Nghiên cứu về vai trò của mạch  máu cũng như tác động tiêu cực  của mạch máu xấu đến não bộ,  lần đầu tiên, các nhà khoa học đã  phát hiện ra rằng, mạch máu xấu  là nguyên nhân gây ra chứng mất  trí nhớ. Các nhà khoa học thuộc  Đại học Nam California (Mỹ) đã  tập trung nghiên cứu yếu tố mấu  chốt liên quan đến các mao mạch  xấu trong não. Sử dụng kính hiển  vi đặc biệt, họ đã quan sát rất rõ  các tế bào nội mô. Những tế nào  này  hình  thành  giống  như  bức  tường của mạch máu, bên cạnh  những tế bào ngoại mạch. Những  tế bào nội mô tạo thành lớp niêm  mạc cho các mao mạch, giúp cho  máu tuần hoàn trong cơ thể; còn  những  tế  bào  ngoại  mạch  dính  chặt bên ngoài các mao mạch và  cố định ở đó. Các tế bào ngoại  mạch được dính kết lại để bảo vệ  cấu  trúc  các  mao  mạch.  Trong  các mao mạch khỏe mạnh, lượng  oxy và dinh dưỡng được liên kết  thông qua các lỗ hổng của tế bào  nội mô và vận chuyển đến các tế  bào xung quanh. Nhưng nếu các  tế  bào  ngoại  mạch  bắt  đầu  bóc  tách  làm  cho  phần  bảo  vệ  các  mao mạch không còn, khiến các  tế bào nội mô mất khả năng hỗ trợ  và trở nên yếu ớt. Những khoảng  trống  bên  trong  mao  mạch  trở  nên  rộng  hơn,  kết  quả  là  một  lượng lớn oxy và chất dinh dưỡng  bị  rò  rỉ  ra  ngoài.  Khi  đó,  máu  không  thể  lưu  thông  qua  những  chỗ bị rò rỉ, khiến các mạch máu  xấu không ngừng phát triển. GS  Berislav  Zlokovic  (Đại  học  Nam  California),  nhà  khoa  học  hàng  đầu  thế  giới  chuyên  nghiên  cứu  về các mạch máu não cho rằng,  tế bào ngoại mạch chỉ có ở những  mạch máu não, và “Tế bào ngoại  mạch  là  những  người  gác  cổng  các mao mạch trong não giúp tái  tạo protein. Nhưng nếu các tế bào  ngoại mạch tổn thương, nghĩa là  máu  không  thể  lưu  thông  bình  thường trong não”.

(10) Nhóm  nghiên  cứu  của  GS  Berislav  Zlokovic  quyết  định  tìm  hiểu những triệu chứng xuất hiện  trong  não  khi  các  tế  bào  ngoại  mạch  biến  mất.  Để  làm  được  việc  đó,  họ  đã  thử  nghiệm  trên  những con chuột bình thường và  những con chuột bị giảm 25% khả  năng tự tạo ra tế bào ngoại mạch  thông qua kỹ thuật di truyền. Thử  nghiệm  của  nhóm  GS  Berislav  Zlokovic là cho 2 con chuột chạy  trên  bánh  xe  quay,  sau  đó  cho  dừng bánh xe quay một cách đột  ngột.  Kết  quả  cho  thấy,  những  con chuột khỏe mạnh dễ dàng xử  lý tình huống bằng cách tiếp tục  cho bánh xe quay, nhưng những  con chuột bị giảm 25% khả năng  tự  tạo  ra  tế  bào  ngoại  mạch  lại  không thể kiểm soát được bánh  xe.  Từ  đó,  họ  đi  đến  kết  luận,  những mao mạch xấu làm giảm  khả  năng  hoạt  động  của  não  trước những phản ứng đột ngột.  Điều này dẫn đến triệu chứng mất  trí nhớ.  

(11) Trong  một  trường  hợp  khác,  các nhà nghiên cứu tại Bệnh viện  Đại  học  Ehime  và  Đại  học  Mie  (Nhật Bản) đã tiến hành một cuộc  kiểm tra sức khỏe đặc biệt, gọi là  kiểm tra chống lão hóa. Họ nghiên  cứu  những  bất  thường  của  não  ở giai đoạn sớm nhất để có thời  gian đưa ra các biện pháp trị liệu  hiệu quả nhất. Trong nghiên cứu  của mình, GS Hidekaru Tomimoto  (Đại học Mie, là một trong những  chuyên gia hàng đầu nghiên cứu  về vai trò của các mao mạch liên  quan tới chứng mất trí nhớ) nhận  thấy,  não  của  người  mắc  bệnh  Alzheimer có số lượng mao mạch  giảm  khoảng  29%  so  với  người  khỏe mạnh và những mạch máu  xấu  xuất  hiện  nhiều  hơn,  từ  đó  làm xuất hiện các Amyloid beta.  Các  nhà  khoa  học  tin  rằng,  khi  Amyloid  beta  xuất  hiện  với  số  lượng lớn trong não sẽ dẫn đến  tình  trạng  bệnh  Alzheimer.  Tuy  nhiên,  chứng  mất  trí  nhớ  không  chỉ  do  các  mạch  máu  xấu  gây  nên mà còn do các chứng bệnh  khác  gây  ra.  Nhưng  một  điều  chắc  chắn  rằng,  để  ngăn  chặn  bệnh Alzheimer thì điều cần làm  là phải ngăn chặn việc hình thành  các mạch máu xấu.

(12) Nghiên cứu của các nhà khoa  học nêu trên cũng đã chỉ ra một số  nguyên nhân dẫn đến sự xuất hiện  của những mạch máu xấu trong cơ  thể như: ăn nhiều, hút thuốc lá, bị  huyết  áp  cao,  lười  tập  thể  dục...  Chính vì vậy, cách tốt nhất để ngăn  ngừa sự xuất hiện các mạch máu  xấu  là  duy  trì  một  lối  sống  lành  mạnh: ăn uống khoa học (không  ăn  quá  nhiều),  không  hút  thuốc  lá, tập thể dục hoặc chơi một môn  thể thao nào đó hàng ngày... Một  trong những giải pháp thú vị mà  các  nhà  khoa  học  khuyên  mọi  người  là  thường  xuyên  thực  hiện  động tác thể dục  nâng cao gót hai  chân trong khi duỗi thẳng cơ lưng  và sau đó thả gót chân xuống. Đây  là giải pháp đơn giản không cần sự  hỗ trợ của thiết bị, đồng thời có thể  thực hiện ở bất cứ thời gian và địa  điểm nào.

(Nguồn: “Mạch máu xấu - Nguyên nhân của bệnh tật và sự suy giảm tuổi thọ”, Đỗ Thị Thanh Huyền, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)

Các mạch máu xấu  có thể xuất hiện ở giai đoạn nào?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Mạch máu xấu - Nguyên nhân của bệnh tật và sự suy giảm tuổi thọ

(1) Các mạch máu, còn được gọi  là  các  mao  mạch,  nằm  ở  khắp  cơ thể.  99% mạch máu của con  người  được  cho  là  mao  mạch.  Tổng  chiều  dài  của  các  mao  mạch trong cơ thể của con người  lên đến 100.000 km, tức là có thể  quấn vòng quanh Trái đất 2,5 lần.  Các  mao  mạch  có  vai  trò  quan  trọng trong việc duy trì hoạt động  sống  của  con  người,  giúp  con  người khỏe mạnh. Các mao mạch  khỏe mạnh có thể suy giảm mạnh  ở tuổi 40 trở đi, và đến tuổi 60 thì  khoảng 40% mao mạch trong cơ  thể bị suy giảm. Cùng với sự gia  tăng của tuổi tác, các mao mạch  suy giảm hoặc vỡ ra trở thành các  mạch máu xấu. Sự suy giảm các  mao mạch được các nhà khoa học  ví như những con tàu ma của hệ  thống tuần hoàn máu, ở đó chỉ tồn  tại những mao mạch trống rỗng  mà không có sự lưu thông máu.  

(2) Mỗi mao mạch có đường kính  0,05-0,1 mm (khoảng 1/10 độ dày  của sợi tóc).  Bằng việc sử dụng  các  thiết  bị  chụp  ảnh  sinh  học  tối tân nhất với độ phân giải siêu  cao, các nhà khoa học đã đi sâu  tìm hiểu cơ chế và tác động của  những mao mạch xấu, từ đó tìm ra  các giải pháp để giúp con người  sống khỏe hơn và lâu hơn.  Qua  kính hiển vi và các thiết bị chuyên  dụng, có thể quan sát thấy sự biến  mất  của  các  mao  mạch. Những  nghiên cứu mới nhất đã tiết lộ cơ  chế  xuất  hiện  những  mạch  máu  xấu và phương pháp làm giảm sự  xuất hiện của chúng.

(3) Các nhà khoa học tại Đại học  Y Keio (Nhật Bản) đã tập trung  nghiên  cứu  mối  quan  hệ  giữa  mạch  máu  xấu  và  tuổi  thọ  con  người.  Một  lượng  lớn  dữ  liệu  về  những người sống thọ và bí quyết  sống thọ đã được thu thập. Nhóm  người  được  nghiên  cứu  sống  ở  vùng  đô  thị  có  độ  tuổi  trong  khoảng 85-98. Những người này  được theo dõi 16 chỉ số trong cơ  thể, trong đó đặc biệt chú ý chỉ  số về sức khỏe của đôi chân, chỉ  số về sự tiến triển của xơ cứng  động mạch và điện tâm đồ. Đây  là những chỉ số rất quan trọng để  xác  định  mối  quan  hệ  giữa  các  mao mạch và tuổi thọ.

(4) Các nhà khoa học đã sử dụng  một thiết bị có thể chụp và quan  sát các mao mạch để phát hiện  phạm vi các mạch máu xấu xuất  hiện trên cơ thể. Phạm vi của các  mạch  máu  xấu  xuất  hiện  ở  gốc  móng tay. Khu vực da mỏng ở gốc  móng tay giúp chúng ta quan sát  các mao mạch cũng như các tế  bào máu lưu thông một cách dễ  dàng.  

(5) Đến  tháng  3/2019,  nhóm  nghiên  cứu  của  GS  Yasumichi  Arai (Đại học Y Keio) đã kiểm tra  mao mạch của 1.000 người cao  tuổi để đưa ra kết luận rõ ràng về  mối quan hệ giữa mạch máu và  tuổi  thọ.  Theo  đó,  sự  xuất  hiện  mạch  máu  xấu  càng  nhiều  và  càng sớm sẽ có ảnh hưởng tiêu  cực  đến  tuổi  thọ.  Họ  cũng  phát  hiện ra rằng, các mạch máu xấu  xuất hiện ở giai đoạn khi cơ thể  còn  tương  đối  trẻ  (20-30  tuổi).  Quá  trình  này  diễn  ra  nhanh  chóng khiến những vùng da xấu  không ngừng mở rộng.

(6) Kẻ thù của sắc đẹp và nguyên nhân  của bệnh loãng xương

Mạch máu xấu không chỉ tác  động tiêu cực đến tuổi thọ mà nó  còn là kẻ thù của sắc đẹp. Những  mạch máu xấu hình thành nhiều  dưới da sẽ tiêu diệt các tế bào da,  khiến da trở nên nhăn nheo. Tại  Đại học Y Jichi (Nhật Bản), các  nhà  khoa  học  đã  áp  dụng  công  nghệ  mới  nhất  để  nghiên  cứu  hoạt  động  của  các  mao  mạch.  Trước đây, các nghiên cứu chưa  từng  quan  sát  một  cách  chi  tiết  những mao mạch nhỏ nhất trong  cơ thể. Tuy nhiên, nhờ những kỹ  thuật mới cho phép các nhà khoa  học  của  Đại  học  Y  Jichi  thành  công trong việc phát hiện những  mao mạch nhỏ nhất trong cơ thể  con  người.  Công  nghệ  mới  này  giúp chúng ta hiểu rõ hơn về tầm  quan  trọng  của  các  mao  mạch  cũng như hậu quả xảy ra khi các  mao mạch biến thành các mạch  máu xấu. Họ đã tiến hành nghiên  cứu mối liên hệ giữa mạch máu  xấu với các tế bào da.

(7) Các  mao  mạch  có  nhiệm  vụ  cung cấp oxy và chất dinh dưỡng  cho các tế bào riêng lẻ trên khắp  cơ  thể.  Những  mao  mạch  này  đóng  vai  trò  quan  trọng  đối  với  sắc  đẹp  và  sức  khỏe  của  con  người.  Nếu  các  mạch  máu  xấu  hình  thành  dưới  da,  chúng  sẽ  ngăn chặn việc cung cấp oxy và  dinh dưỡng cho các tế bào, làm  tăng các tế bào tổn hại da, khiến  da mất khả năng hồi phục. Chúng  có thể làm cho da nhăn nheo và  chảy sệ. Khi các mạch máu xấu  xuất hiện sẽ  đẩy nhanh quá trình  lão hóa,  là  nguyên  nhân  gây  ra  một loạt các căn bệnh liên quan  như:  huyết  áp  cao,  tiểu  đường,  các chứng bệnh về tim mạch và  ung  thư...  Không  chỉ  có  vậy,  khi  cơ thể xuất hiện mạch máu xấu  sẽ  xuất  hiện  những  căn  bệnh  khác như tóc rụng; bàn tay, bàn  chân lạnh hơn nhiệt độ cơ thể do  lượng nhiệt vận chuyển qua mạch  máu đến chúng bị kém đi. Ngoài  ra,  các  mạch  máu  xấu  còn  ảnh  hưởng  trực  tiếp  đến  chức  năng  gan,  thận;  làm  giảm  hiệu  quả  của thuốc trong quá trình điều trị  bệnh, đặc biệt là những loại thuốc  rất  quan  trọng  trong  cuộc  chiến  chống ung thư.

(8) Các  nhà  khoa  học  của  Viện  Max Planck (Đức) đã tìm ra mối  liên hệ giữa các mạch máu xấu  với  bệnh  loãng  xương.  Trong  nghiên  cứu  của  mình,  GS  Ralf  Adam (Viện Max Planck) đã tiến  hành thí nghiệm trên những con  chuột khỏe mạnh và những con  chuột già. Nhóm nghiên cứu của  ông đã tiên phong trong việc chụp  ảnh  thành  công  các  mao  mạch  trong  xương.  Những  hình  ảnh  cho  thấy,  những  con  chuột  già  bị loãng xương có rất ít các mao  mạch  trong  xương.  Nghiên  cứu  chỉ ra rằng, các mao mạch xấu và  trống rỗng làm loãng xương. Các  mao mạch có tác dụng cung cấp  canxi và các dưỡng chất giúp hình  thành  mô  xương  mới.  Khi  mao  mạch  trở  nên  xấu  đi,  việc  cung  cấp canxi cho xương không còn,  khiến các mô xương bị hoại tử.

(9) Kẻ lấy cắp trí nhớ

Nghiên cứu về vai trò của mạch  máu cũng như tác động tiêu cực  của mạch máu xấu đến não bộ,  lần đầu tiên, các nhà khoa học đã  phát hiện ra rằng, mạch máu xấu  là nguyên nhân gây ra chứng mất  trí nhớ. Các nhà khoa học thuộc  Đại học Nam California (Mỹ) đã  tập trung nghiên cứu yếu tố mấu  chốt liên quan đến các mao mạch  xấu trong não. Sử dụng kính hiển  vi đặc biệt, họ đã quan sát rất rõ  các tế bào nội mô. Những tế nào  này  hình  thành  giống  như  bức  tường của mạch máu, bên cạnh  những tế bào ngoại mạch. Những  tế bào nội mô tạo thành lớp niêm  mạc cho các mao mạch, giúp cho  máu tuần hoàn trong cơ thể; còn  những  tế  bào  ngoại  mạch  dính  chặt bên ngoài các mao mạch và  cố định ở đó. Các tế bào ngoại  mạch được dính kết lại để bảo vệ  cấu  trúc  các  mao  mạch.  Trong  các mao mạch khỏe mạnh, lượng  oxy và dinh dưỡng được liên kết  thông qua các lỗ hổng của tế bào  nội mô và vận chuyển đến các tế  bào xung quanh. Nhưng nếu các  tế  bào  ngoại  mạch  bắt  đầu  bóc  tách  làm  cho  phần  bảo  vệ  các  mao mạch không còn, khiến các  tế bào nội mô mất khả năng hỗ trợ  và trở nên yếu ớt. Những khoảng  trống  bên  trong  mao  mạch  trở  nên  rộng  hơn,  kết  quả  là  một  lượng lớn oxy và chất dinh dưỡng  bị  rò  rỉ  ra  ngoài.  Khi  đó,  máu  không  thể  lưu  thông  qua  những  chỗ bị rò rỉ, khiến các mạch máu  xấu không ngừng phát triển. GS  Berislav  Zlokovic  (Đại  học  Nam  California),  nhà  khoa  học  hàng  đầu  thế  giới  chuyên  nghiên  cứu  về các mạch máu não cho rằng,  tế bào ngoại mạch chỉ có ở những  mạch máu não, và “Tế bào ngoại  mạch  là  những  người  gác  cổng  các mao mạch trong não giúp tái  tạo protein. Nhưng nếu các tế bào  ngoại mạch tổn thương, nghĩa là  máu  không  thể  lưu  thông  bình  thường trong não”.

(10) Nhóm  nghiên  cứu  của  GS  Berislav  Zlokovic  quyết  định  tìm  hiểu những triệu chứng xuất hiện  trong  não  khi  các  tế  bào  ngoại  mạch  biến  mất.  Để  làm  được  việc  đó,  họ  đã  thử  nghiệm  trên  những con chuột bình thường và  những con chuột bị giảm 25% khả  năng tự tạo ra tế bào ngoại mạch  thông qua kỹ thuật di truyền. Thử  nghiệm  của  nhóm  GS  Berislav  Zlokovic là cho 2 con chuột chạy  trên  bánh  xe  quay,  sau  đó  cho  dừng bánh xe quay một cách đột  ngột.  Kết  quả  cho  thấy,  những  con chuột khỏe mạnh dễ dàng xử  lý tình huống bằng cách tiếp tục  cho bánh xe quay, nhưng những  con chuột bị giảm 25% khả năng  tự  tạo  ra  tế  bào  ngoại  mạch  lại  không thể kiểm soát được bánh  xe.  Từ  đó,  họ  đi  đến  kết  luận,  những mao mạch xấu làm giảm  khả  năng  hoạt  động  của  não  trước những phản ứng đột ngột.  Điều này dẫn đến triệu chứng mất  trí nhớ.  

(11) Trong  một  trường  hợp  khác,  các nhà nghiên cứu tại Bệnh viện  Đại  học  Ehime  và  Đại  học  Mie  (Nhật Bản) đã tiến hành một cuộc  kiểm tra sức khỏe đặc biệt, gọi là  kiểm tra chống lão hóa. Họ nghiên  cứu  những  bất  thường  của  não  ở giai đoạn sớm nhất để có thời  gian đưa ra các biện pháp trị liệu  hiệu quả nhất. Trong nghiên cứu  của mình, GS Hidekaru Tomimoto  (Đại học Mie, là một trong những  chuyên gia hàng đầu nghiên cứu  về vai trò của các mao mạch liên  quan tới chứng mất trí nhớ) nhận  thấy,  não  của  người  mắc  bệnh  Alzheimer có số lượng mao mạch  giảm  khoảng  29%  so  với  người  khỏe mạnh và những mạch máu  xấu  xuất  hiện  nhiều  hơn,  từ  đó  làm xuất hiện các Amyloid beta.  Các  nhà  khoa  học  tin  rằng,  khi  Amyloid  beta  xuất  hiện  với  số  lượng lớn trong não sẽ dẫn đến  tình  trạng  bệnh  Alzheimer.  Tuy  nhiên,  chứng  mất  trí  nhớ  không  chỉ  do  các  mạch  máu  xấu  gây  nên mà còn do các chứng bệnh  khác  gây  ra.  Nhưng  một  điều  chắc  chắn  rằng,  để  ngăn  chặn  bệnh Alzheimer thì điều cần làm  là phải ngăn chặn việc hình thành  các mạch máu xấu.

(12) Nghiên cứu của các nhà khoa  học nêu trên cũng đã chỉ ra một số  nguyên nhân dẫn đến sự xuất hiện  của những mạch máu xấu trong cơ  thể như: ăn nhiều, hút thuốc lá, bị  huyết  áp  cao,  lười  tập  thể  dục...  Chính vì vậy, cách tốt nhất để ngăn  ngừa sự xuất hiện các mạch máu  xấu  là  duy  trì  một  lối  sống  lành  mạnh: ăn uống khoa học (không  ăn  quá  nhiều),  không  hút  thuốc  lá, tập thể dục hoặc chơi một môn  thể thao nào đó hàng ngày... Một  trong những giải pháp thú vị mà  các  nhà  khoa  học  khuyên  mọi  người  là  thường  xuyên  thực  hiện  động tác thể dục  nâng cao gót hai  chân trong khi duỗi thẳng cơ lưng  và sau đó thả gót chân xuống. Đây  là giải pháp đơn giản không cần sự  hỗ trợ của thiết bị, đồng thời có thể  thực hiện ở bất cứ thời gian và địa  điểm nào.

(Nguồn: “Mạch máu xấu - Nguyên nhân của bệnh tật và sự suy giảm tuổi thọ”, Đỗ Thị Thanh Huyền, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)

Theo văn bản, các nhà nghiên cứu đã phát hiện các mạch  máu  xấu  xuất  hiện  ở  vị trí nào trên cơ thể?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Mạch máu xấu - Nguyên nhân của bệnh tật và sự suy giảm tuổi thọ

(1) Các mạch máu, còn được gọi  là  các  mao  mạch,  nằm  ở  khắp  cơ thể.  99% mạch máu của con  người  được  cho  là  mao  mạch.  Tổng  chiều  dài  của  các  mao  mạch trong cơ thể của con người  lên đến 100.000 km, tức là có thể  quấn vòng quanh Trái đất 2,5 lần.  Các  mao  mạch  có  vai  trò  quan  trọng trong việc duy trì hoạt động  sống  của  con  người,  giúp  con  người khỏe mạnh. Các mao mạch  khỏe mạnh có thể suy giảm mạnh  ở tuổi 40 trở đi, và đến tuổi 60 thì  khoảng 40% mao mạch trong cơ  thể bị suy giảm. Cùng với sự gia  tăng của tuổi tác, các mao mạch  suy giảm hoặc vỡ ra trở thành các  mạch máu xấu. Sự suy giảm các  mao mạch được các nhà khoa học  ví như những con tàu ma của hệ  thống tuần hoàn máu, ở đó chỉ tồn  tại những mao mạch trống rỗng  mà không có sự lưu thông máu.  

(2) Mỗi mao mạch có đường kính  0,05-0,1 mm (khoảng 1/10 độ dày  của sợi tóc).  Bằng việc sử dụng  các  thiết  bị  chụp  ảnh  sinh  học  tối tân nhất với độ phân giải siêu  cao, các nhà khoa học đã đi sâu  tìm hiểu cơ chế và tác động của  những mao mạch xấu, từ đó tìm ra  các giải pháp để giúp con người  sống khỏe hơn và lâu hơn.  Qua  kính hiển vi và các thiết bị chuyên  dụng, có thể quan sát thấy sự biến  mất  của  các  mao  mạch. Những  nghiên cứu mới nhất đã tiết lộ cơ  chế  xuất  hiện  những  mạch  máu  xấu và phương pháp làm giảm sự  xuất hiện của chúng.

(3) Các nhà khoa học tại Đại học  Y Keio (Nhật Bản) đã tập trung  nghiên  cứu  mối  quan  hệ  giữa  mạch  máu  xấu  và  tuổi  thọ  con  người.  Một  lượng  lớn  dữ  liệu  về  những người sống thọ và bí quyết  sống thọ đã được thu thập. Nhóm  người  được  nghiên  cứu  sống  ở  vùng  đô  thị  có  độ  tuổi  trong  khoảng 85-98. Những người này  được theo dõi 16 chỉ số trong cơ  thể, trong đó đặc biệt chú ý chỉ  số về sức khỏe của đôi chân, chỉ  số về sự tiến triển của xơ cứng  động mạch và điện tâm đồ. Đây  là những chỉ số rất quan trọng để  xác  định  mối  quan  hệ  giữa  các  mao mạch và tuổi thọ.

(4) Các nhà khoa học đã sử dụng  một thiết bị có thể chụp và quan  sát các mao mạch để phát hiện  phạm vi các mạch máu xấu xuất  hiện trên cơ thể. Phạm vi của các  mạch  máu  xấu  xuất  hiện  ở  gốc  móng tay. Khu vực da mỏng ở gốc  móng tay giúp chúng ta quan sát  các mao mạch cũng như các tế  bào máu lưu thông một cách dễ  dàng.  

(5) Đến  tháng  3/2019,  nhóm  nghiên  cứu  của  GS  Yasumichi  Arai (Đại học Y Keio) đã kiểm tra  mao mạch của 1.000 người cao  tuổi để đưa ra kết luận rõ ràng về  mối quan hệ giữa mạch máu và  tuổi  thọ.  Theo  đó,  sự  xuất  hiện  mạch  máu  xấu  càng  nhiều  và  càng sớm sẽ có ảnh hưởng tiêu  cực  đến  tuổi  thọ.  Họ  cũng  phát  hiện ra rằng, các mạch máu xấu  xuất hiện ở giai đoạn khi cơ thể  còn  tương  đối  trẻ  (20-30  tuổi).  Quá  trình  này  diễn  ra  nhanh  chóng khiến những vùng da xấu  không ngừng mở rộng.

(6) Kẻ thù của sắc đẹp và nguyên nhân  của bệnh loãng xương

Mạch máu xấu không chỉ tác  động tiêu cực đến tuổi thọ mà nó  còn là kẻ thù của sắc đẹp. Những  mạch máu xấu hình thành nhiều  dưới da sẽ tiêu diệt các tế bào da,  khiến da trở nên nhăn nheo. Tại  Đại học Y Jichi (Nhật Bản), các  nhà  khoa  học  đã  áp  dụng  công  nghệ  mới  nhất  để  nghiên  cứu  hoạt  động  của  các  mao  mạch.  Trước đây, các nghiên cứu chưa  từng  quan  sát  một  cách  chi  tiết  những mao mạch nhỏ nhất trong  cơ thể. Tuy nhiên, nhờ những kỹ  thuật mới cho phép các nhà khoa  học  của  Đại  học  Y  Jichi  thành  công trong việc phát hiện những  mao mạch nhỏ nhất trong cơ thể  con  người.  Công  nghệ  mới  này  giúp chúng ta hiểu rõ hơn về tầm  quan  trọng  của  các  mao  mạch  cũng như hậu quả xảy ra khi các  mao mạch biến thành các mạch  máu xấu. Họ đã tiến hành nghiên  cứu mối liên hệ giữa mạch máu  xấu với các tế bào da.

(7) Các  mao  mạch  có  nhiệm  vụ  cung cấp oxy và chất dinh dưỡng  cho các tế bào riêng lẻ trên khắp  cơ  thể.  Những  mao  mạch  này  đóng  vai  trò  quan  trọng  đối  với  sắc  đẹp  và  sức  khỏe  của  con  người.  Nếu  các  mạch  máu  xấu  hình  thành  dưới  da,  chúng  sẽ  ngăn chặn việc cung cấp oxy và  dinh dưỡng cho các tế bào, làm  tăng các tế bào tổn hại da, khiến  da mất khả năng hồi phục. Chúng  có thể làm cho da nhăn nheo và  chảy sệ. Khi các mạch máu xấu  xuất hiện sẽ  đẩy nhanh quá trình  lão hóa,  là  nguyên  nhân  gây  ra  một loạt các căn bệnh liên quan  như:  huyết  áp  cao,  tiểu  đường,  các chứng bệnh về tim mạch và  ung  thư...  Không  chỉ  có  vậy,  khi  cơ thể xuất hiện mạch máu xấu  sẽ  xuất  hiện  những  căn  bệnh  khác như tóc rụng; bàn tay, bàn  chân lạnh hơn nhiệt độ cơ thể do  lượng nhiệt vận chuyển qua mạch  máu đến chúng bị kém đi. Ngoài  ra,  các  mạch  máu  xấu  còn  ảnh  hưởng  trực  tiếp  đến  chức  năng  gan,  thận;  làm  giảm  hiệu  quả  của thuốc trong quá trình điều trị  bệnh, đặc biệt là những loại thuốc  rất  quan  trọng  trong  cuộc  chiến  chống ung thư.

(8) Các  nhà  khoa  học  của  Viện  Max Planck (Đức) đã tìm ra mối  liên hệ giữa các mạch máu xấu  với  bệnh  loãng  xương.  Trong  nghiên  cứu  của  mình,  GS  Ralf  Adam (Viện Max Planck) đã tiến  hành thí nghiệm trên những con  chuột khỏe mạnh và những con  chuột già. Nhóm nghiên cứu của  ông đã tiên phong trong việc chụp  ảnh  thành  công  các  mao  mạch  trong  xương.  Những  hình  ảnh  cho  thấy,  những  con  chuột  già  bị loãng xương có rất ít các mao  mạch  trong  xương.  Nghiên  cứu  chỉ ra rằng, các mao mạch xấu và  trống rỗng làm loãng xương. Các  mao mạch có tác dụng cung cấp  canxi và các dưỡng chất giúp hình  thành  mô  xương  mới.  Khi  mao  mạch  trở  nên  xấu  đi,  việc  cung  cấp canxi cho xương không còn,  khiến các mô xương bị hoại tử.

(9) Kẻ lấy cắp trí nhớ

Nghiên cứu về vai trò của mạch  máu cũng như tác động tiêu cực  của mạch máu xấu đến não bộ,  lần đầu tiên, các nhà khoa học đã  phát hiện ra rằng, mạch máu xấu  là nguyên nhân gây ra chứng mất  trí nhớ. Các nhà khoa học thuộc  Đại học Nam California (Mỹ) đã  tập trung nghiên cứu yếu tố mấu  chốt liên quan đến các mao mạch  xấu trong não. Sử dụng kính hiển  vi đặc biệt, họ đã quan sát rất rõ  các tế bào nội mô. Những tế nào  này  hình  thành  giống  như  bức  tường của mạch máu, bên cạnh  những tế bào ngoại mạch. Những  tế bào nội mô tạo thành lớp niêm  mạc cho các mao mạch, giúp cho  máu tuần hoàn trong cơ thể; còn  những  tế  bào  ngoại  mạch  dính  chặt bên ngoài các mao mạch và  cố định ở đó. Các tế bào ngoại  mạch được dính kết lại để bảo vệ  cấu  trúc  các  mao  mạch.  Trong  các mao mạch khỏe mạnh, lượng  oxy và dinh dưỡng được liên kết  thông qua các lỗ hổng của tế bào  nội mô và vận chuyển đến các tế  bào xung quanh. Nhưng nếu các  tế  bào  ngoại  mạch  bắt  đầu  bóc  tách  làm  cho  phần  bảo  vệ  các  mao mạch không còn, khiến các  tế bào nội mô mất khả năng hỗ trợ  và trở nên yếu ớt. Những khoảng  trống  bên  trong  mao  mạch  trở  nên  rộng  hơn,  kết  quả  là  một  lượng lớn oxy và chất dinh dưỡng  bị  rò  rỉ  ra  ngoài.  Khi  đó,  máu  không  thể  lưu  thông  qua  những  chỗ bị rò rỉ, khiến các mạch máu  xấu không ngừng phát triển. GS  Berislav  Zlokovic  (Đại  học  Nam  California),  nhà  khoa  học  hàng  đầu  thế  giới  chuyên  nghiên  cứu  về các mạch máu não cho rằng,  tế bào ngoại mạch chỉ có ở những  mạch máu não, và “Tế bào ngoại  mạch  là  những  người  gác  cổng  các mao mạch trong não giúp tái  tạo protein. Nhưng nếu các tế bào  ngoại mạch tổn thương, nghĩa là  máu  không  thể  lưu  thông  bình  thường trong não”.

(10) Nhóm  nghiên  cứu  của  GS  Berislav  Zlokovic  quyết  định  tìm  hiểu những triệu chứng xuất hiện  trong  não  khi  các  tế  bào  ngoại  mạch  biến  mất.  Để  làm  được  việc  đó,  họ  đã  thử  nghiệm  trên  những con chuột bình thường và  những con chuột bị giảm 25% khả  năng tự tạo ra tế bào ngoại mạch  thông qua kỹ thuật di truyền. Thử  nghiệm  của  nhóm  GS  Berislav  Zlokovic là cho 2 con chuột chạy  trên  bánh  xe  quay,  sau  đó  cho  dừng bánh xe quay một cách đột  ngột.  Kết  quả  cho  thấy,  những  con chuột khỏe mạnh dễ dàng xử  lý tình huống bằng cách tiếp tục  cho bánh xe quay, nhưng những  con chuột bị giảm 25% khả năng  tự  tạo  ra  tế  bào  ngoại  mạch  lại  không thể kiểm soát được bánh  xe.  Từ  đó,  họ  đi  đến  kết  luận,  những mao mạch xấu làm giảm  khả  năng  hoạt  động  của  não  trước những phản ứng đột ngột.  Điều này dẫn đến triệu chứng mất  trí nhớ.  

(11) Trong  một  trường  hợp  khác,  các nhà nghiên cứu tại Bệnh viện  Đại  học  Ehime  và  Đại  học  Mie  (Nhật Bản) đã tiến hành một cuộc  kiểm tra sức khỏe đặc biệt, gọi là  kiểm tra chống lão hóa. Họ nghiên  cứu  những  bất  thường  của  não  ở giai đoạn sớm nhất để có thời  gian đưa ra các biện pháp trị liệu  hiệu quả nhất. Trong nghiên cứu  của mình, GS Hidekaru Tomimoto  (Đại học Mie, là một trong những  chuyên gia hàng đầu nghiên cứu  về vai trò của các mao mạch liên  quan tới chứng mất trí nhớ) nhận  thấy,  não  của  người  mắc  bệnh  Alzheimer có số lượng mao mạch  giảm  khoảng  29%  so  với  người  khỏe mạnh và những mạch máu  xấu  xuất  hiện  nhiều  hơn,  từ  đó  làm xuất hiện các Amyloid beta.  Các  nhà  khoa  học  tin  rằng,  khi  Amyloid  beta  xuất  hiện  với  số  lượng lớn trong não sẽ dẫn đến  tình  trạng  bệnh  Alzheimer.  Tuy  nhiên,  chứng  mất  trí  nhớ  không  chỉ  do  các  mạch  máu  xấu  gây  nên mà còn do các chứng bệnh  khác  gây  ra.  Nhưng  một  điều  chắc  chắn  rằng,  để  ngăn  chặn  bệnh Alzheimer thì điều cần làm  là phải ngăn chặn việc hình thành  các mạch máu xấu.

(12) Nghiên cứu của các nhà khoa  học nêu trên cũng đã chỉ ra một số  nguyên nhân dẫn đến sự xuất hiện  của những mạch máu xấu trong cơ  thể như: ăn nhiều, hút thuốc lá, bị  huyết  áp  cao,  lười  tập  thể  dục...  Chính vì vậy, cách tốt nhất để ngăn  ngừa sự xuất hiện các mạch máu  xấu  là  duy  trì  một  lối  sống  lành  mạnh: ăn uống khoa học (không  ăn  quá  nhiều),  không  hút  thuốc  lá, tập thể dục hoặc chơi một môn  thể thao nào đó hàng ngày... Một  trong những giải pháp thú vị mà  các  nhà  khoa  học  khuyên  mọi  người  là  thường  xuyên  thực  hiện  động tác thể dục  nâng cao gót hai  chân trong khi duỗi thẳng cơ lưng  và sau đó thả gót chân xuống. Đây  là giải pháp đơn giản không cần sự  hỗ trợ của thiết bị, đồng thời có thể  thực hiện ở bất cứ thời gian và địa  điểm nào.

(Nguồn: “Mạch máu xấu - Nguyên nhân của bệnh tật và sự suy giảm tuổi thọ”, Đỗ Thị Thanh Huyền, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)

Mỗi mao mạch có đường kính bao nhiêu?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Mạch máu xấu - Nguyên nhân của bệnh tật và sự suy giảm tuổi thọ

(1) Các mạch máu, còn được gọi  là  các  mao  mạch,  nằm  ở  khắp  cơ thể.  99% mạch máu của con  người  được  cho  là  mao  mạch.  Tổng  chiều  dài  của  các  mao  mạch trong cơ thể của con người  lên đến 100.000 km, tức là có thể  quấn vòng quanh Trái đất 2,5 lần.  Các  mao  mạch  có  vai  trò  quan  trọng trong việc duy trì hoạt động  sống  của  con  người,  giúp  con  người khỏe mạnh. Các mao mạch  khỏe mạnh có thể suy giảm mạnh  ở tuổi 40 trở đi, và đến tuổi 60 thì  khoảng 40% mao mạch trong cơ  thể bị suy giảm. Cùng với sự gia  tăng của tuổi tác, các mao mạch  suy giảm hoặc vỡ ra trở thành các  mạch máu xấu. Sự suy giảm các  mao mạch được các nhà khoa học  ví như những con tàu ma của hệ  thống tuần hoàn máu, ở đó chỉ tồn  tại những mao mạch trống rỗng  mà không có sự lưu thông máu.  

(2) Mỗi mao mạch có đường kính  0,05-0,1 mm (khoảng 1/10 độ dày  của sợi tóc).  Bằng việc sử dụng  các  thiết  bị  chụp  ảnh  sinh  học  tối tân nhất với độ phân giải siêu  cao, các nhà khoa học đã đi sâu  tìm hiểu cơ chế và tác động của  những mao mạch xấu, từ đó tìm ra  các giải pháp để giúp con người  sống khỏe hơn và lâu hơn.  Qua  kính hiển vi và các thiết bị chuyên  dụng, có thể quan sát thấy sự biến  mất  của  các  mao  mạch. Những  nghiên cứu mới nhất đã tiết lộ cơ  chế  xuất  hiện  những  mạch  máu  xấu và phương pháp làm giảm sự  xuất hiện của chúng.

(3) Các nhà khoa học tại Đại học  Y Keio (Nhật Bản) đã tập trung  nghiên  cứu  mối  quan  hệ  giữa  mạch  máu  xấu  và  tuổi  thọ  con  người.  Một  lượng  lớn  dữ  liệu  về  những người sống thọ và bí quyết  sống thọ đã được thu thập. Nhóm  người  được  nghiên  cứu  sống  ở  vùng  đô  thị  có  độ  tuổi  trong  khoảng 85-98. Những người này  được theo dõi 16 chỉ số trong cơ  thể, trong đó đặc biệt chú ý chỉ  số về sức khỏe của đôi chân, chỉ  số về sự tiến triển của xơ cứng  động mạch và điện tâm đồ. Đây  là những chỉ số rất quan trọng để  xác  định  mối  quan  hệ  giữa  các  mao mạch và tuổi thọ.

(4) Các nhà khoa học đã sử dụng  một thiết bị có thể chụp và quan  sát các mao mạch để phát hiện  phạm vi các mạch máu xấu xuất  hiện trên cơ thể. Phạm vi của các  mạch  máu  xấu  xuất  hiện  ở  gốc  móng tay. Khu vực da mỏng ở gốc  móng tay giúp chúng ta quan sát  các mao mạch cũng như các tế  bào máu lưu thông một cách dễ  dàng.  

(5) Đến  tháng  3/2019,  nhóm  nghiên  cứu  của  GS  Yasumichi  Arai (Đại học Y Keio) đã kiểm tra  mao mạch của 1.000 người cao  tuổi để đưa ra kết luận rõ ràng về  mối quan hệ giữa mạch máu và  tuổi  thọ.  Theo  đó,  sự  xuất  hiện  mạch  máu  xấu  càng  nhiều  và  càng sớm sẽ có ảnh hưởng tiêu  cực  đến  tuổi  thọ.  Họ  cũng  phát  hiện ra rằng, các mạch máu xấu  xuất hiện ở giai đoạn khi cơ thể  còn  tương  đối  trẻ  (20-30  tuổi).  Quá  trình  này  diễn  ra  nhanh  chóng khiến những vùng da xấu  không ngừng mở rộng.

(6) Kẻ thù của sắc đẹp và nguyên nhân  của bệnh loãng xương

Mạch máu xấu không chỉ tác  động tiêu cực đến tuổi thọ mà nó  còn là kẻ thù của sắc đẹp. Những  mạch máu xấu hình thành nhiều  dưới da sẽ tiêu diệt các tế bào da,  khiến da trở nên nhăn nheo. Tại  Đại học Y Jichi (Nhật Bản), các  nhà  khoa  học  đã  áp  dụng  công  nghệ  mới  nhất  để  nghiên  cứu  hoạt  động  của  các  mao  mạch.  Trước đây, các nghiên cứu chưa  từng  quan  sát  một  cách  chi  tiết  những mao mạch nhỏ nhất trong  cơ thể. Tuy nhiên, nhờ những kỹ  thuật mới cho phép các nhà khoa  học  của  Đại  học  Y  Jichi  thành  công trong việc phát hiện những  mao mạch nhỏ nhất trong cơ thể  con  người.  Công  nghệ  mới  này  giúp chúng ta hiểu rõ hơn về tầm  quan  trọng  của  các  mao  mạch  cũng như hậu quả xảy ra khi các  mao mạch biến thành các mạch  máu xấu. Họ đã tiến hành nghiên  cứu mối liên hệ giữa mạch máu  xấu với các tế bào da.

(7) Các  mao  mạch  có  nhiệm  vụ  cung cấp oxy và chất dinh dưỡng  cho các tế bào riêng lẻ trên khắp  cơ  thể.  Những  mao  mạch  này  đóng  vai  trò  quan  trọng  đối  với  sắc  đẹp  và  sức  khỏe  của  con  người.  Nếu  các  mạch  máu  xấu  hình  thành  dưới  da,  chúng  sẽ  ngăn chặn việc cung cấp oxy và  dinh dưỡng cho các tế bào, làm  tăng các tế bào tổn hại da, khiến  da mất khả năng hồi phục. Chúng  có thể làm cho da nhăn nheo và  chảy sệ. Khi các mạch máu xấu  xuất hiện sẽ  đẩy nhanh quá trình  lão hóa,  là  nguyên  nhân  gây  ra  một loạt các căn bệnh liên quan  như:  huyết  áp  cao,  tiểu  đường,  các chứng bệnh về tim mạch và  ung  thư...  Không  chỉ  có  vậy,  khi  cơ thể xuất hiện mạch máu xấu  sẽ  xuất  hiện  những  căn  bệnh  khác như tóc rụng; bàn tay, bàn  chân lạnh hơn nhiệt độ cơ thể do  lượng nhiệt vận chuyển qua mạch  máu đến chúng bị kém đi. Ngoài  ra,  các  mạch  máu  xấu  còn  ảnh  hưởng  trực  tiếp  đến  chức  năng  gan,  thận;  làm  giảm  hiệu  quả  của thuốc trong quá trình điều trị  bệnh, đặc biệt là những loại thuốc  rất  quan  trọng  trong  cuộc  chiến  chống ung thư.

(8) Các  nhà  khoa  học  của  Viện  Max Planck (Đức) đã tìm ra mối  liên hệ giữa các mạch máu xấu  với  bệnh  loãng  xương.  Trong  nghiên  cứu  của  mình,  GS  Ralf  Adam (Viện Max Planck) đã tiến  hành thí nghiệm trên những con  chuột khỏe mạnh và những con  chuột già. Nhóm nghiên cứu của  ông đã tiên phong trong việc chụp  ảnh  thành  công  các  mao  mạch  trong  xương.  Những  hình  ảnh  cho  thấy,  những  con  chuột  già  bị loãng xương có rất ít các mao  mạch  trong  xương.  Nghiên  cứu  chỉ ra rằng, các mao mạch xấu và  trống rỗng làm loãng xương. Các  mao mạch có tác dụng cung cấp  canxi và các dưỡng chất giúp hình  thành  mô  xương  mới.  Khi  mao  mạch  trở  nên  xấu  đi,  việc  cung  cấp canxi cho xương không còn,  khiến các mô xương bị hoại tử.

(9) Kẻ lấy cắp trí nhớ

Nghiên cứu về vai trò của mạch  máu cũng như tác động tiêu cực  của mạch máu xấu đến não bộ,  lần đầu tiên, các nhà khoa học đã  phát hiện ra rằng, mạch máu xấu  là nguyên nhân gây ra chứng mất  trí nhớ. Các nhà khoa học thuộc  Đại học Nam California (Mỹ) đã  tập trung nghiên cứu yếu tố mấu  chốt liên quan đến các mao mạch  xấu trong não. Sử dụng kính hiển  vi đặc biệt, họ đã quan sát rất rõ  các tế bào nội mô. Những tế nào  này  hình  thành  giống  như  bức  tường của mạch máu, bên cạnh  những tế bào ngoại mạch. Những  tế bào nội mô tạo thành lớp niêm  mạc cho các mao mạch, giúp cho  máu tuần hoàn trong cơ thể; còn  những  tế  bào  ngoại  mạch  dính  chặt bên ngoài các mao mạch và  cố định ở đó. Các tế bào ngoại  mạch được dính kết lại để bảo vệ  cấu  trúc  các  mao  mạch.  Trong  các mao mạch khỏe mạnh, lượng  oxy và dinh dưỡng được liên kết  thông qua các lỗ hổng của tế bào  nội mô và vận chuyển đến các tế  bào xung quanh. Nhưng nếu các  tế  bào  ngoại  mạch  bắt  đầu  bóc  tách  làm  cho  phần  bảo  vệ  các  mao mạch không còn, khiến các  tế bào nội mô mất khả năng hỗ trợ  và trở nên yếu ớt. Những khoảng  trống  bên  trong  mao  mạch  trở  nên  rộng  hơn,  kết  quả  là  một  lượng lớn oxy và chất dinh dưỡng  bị  rò  rỉ  ra  ngoài.  Khi  đó,  máu  không  thể  lưu  thông  qua  những  chỗ bị rò rỉ, khiến các mạch máu  xấu không ngừng phát triển. GS  Berislav  Zlokovic  (Đại  học  Nam  California),  nhà  khoa  học  hàng  đầu  thế  giới  chuyên  nghiên  cứu  về các mạch máu não cho rằng,  tế bào ngoại mạch chỉ có ở những  mạch máu não, và “Tế bào ngoại  mạch  là  những  người  gác  cổng  các mao mạch trong não giúp tái  tạo protein. Nhưng nếu các tế bào  ngoại mạch tổn thương, nghĩa là  máu  không  thể  lưu  thông  bình  thường trong não”.

(10) Nhóm  nghiên  cứu  của  GS  Berislav  Zlokovic  quyết  định  tìm  hiểu những triệu chứng xuất hiện  trong  não  khi  các  tế  bào  ngoại  mạch  biến  mất.  Để  làm  được  việc  đó,  họ  đã  thử  nghiệm  trên  những con chuột bình thường và  những con chuột bị giảm 25% khả  năng tự tạo ra tế bào ngoại mạch  thông qua kỹ thuật di truyền. Thử  nghiệm  của  nhóm  GS  Berislav  Zlokovic là cho 2 con chuột chạy  trên  bánh  xe  quay,  sau  đó  cho  dừng bánh xe quay một cách đột  ngột.  Kết  quả  cho  thấy,  những  con chuột khỏe mạnh dễ dàng xử  lý tình huống bằng cách tiếp tục  cho bánh xe quay, nhưng những  con chuột bị giảm 25% khả năng  tự  tạo  ra  tế  bào  ngoại  mạch  lại  không thể kiểm soát được bánh  xe.  Từ  đó,  họ  đi  đến  kết  luận,  những mao mạch xấu làm giảm  khả  năng  hoạt  động  của  não  trước những phản ứng đột ngột.  Điều này dẫn đến triệu chứng mất  trí nhớ.  

(11) Trong  một  trường  hợp  khác,  các nhà nghiên cứu tại Bệnh viện  Đại  học  Ehime  và  Đại  học  Mie  (Nhật Bản) đã tiến hành một cuộc  kiểm tra sức khỏe đặc biệt, gọi là  kiểm tra chống lão hóa. Họ nghiên  cứu  những  bất  thường  của  não  ở giai đoạn sớm nhất để có thời  gian đưa ra các biện pháp trị liệu  hiệu quả nhất. Trong nghiên cứu  của mình, GS Hidekaru Tomimoto  (Đại học Mie, là một trong những  chuyên gia hàng đầu nghiên cứu  về vai trò của các mao mạch liên  quan tới chứng mất trí nhớ) nhận  thấy,  não  của  người  mắc  bệnh  Alzheimer có số lượng mao mạch  giảm  khoảng  29%  so  với  người  khỏe mạnh và những mạch máu  xấu  xuất  hiện  nhiều  hơn,  từ  đó  làm xuất hiện các Amyloid beta.  Các  nhà  khoa  học  tin  rằng,  khi  Amyloid  beta  xuất  hiện  với  số  lượng lớn trong não sẽ dẫn đến  tình  trạng  bệnh  Alzheimer.  Tuy  nhiên,  chứng  mất  trí  nhớ  không  chỉ  do  các  mạch  máu  xấu  gây  nên mà còn do các chứng bệnh  khác  gây  ra.  Nhưng  một  điều  chắc  chắn  rằng,  để  ngăn  chặn  bệnh Alzheimer thì điều cần làm  là phải ngăn chặn việc hình thành  các mạch máu xấu.

(12) Nghiên cứu của các nhà khoa  học nêu trên cũng đã chỉ ra một số  nguyên nhân dẫn đến sự xuất hiện  của những mạch máu xấu trong cơ  thể như: ăn nhiều, hút thuốc lá, bị  huyết  áp  cao,  lười  tập  thể  dục...  Chính vì vậy, cách tốt nhất để ngăn  ngừa sự xuất hiện các mạch máu  xấu  là  duy  trì  một  lối  sống  lành  mạnh: ăn uống khoa học (không  ăn  quá  nhiều),  không  hút  thuốc  lá, tập thể dục hoặc chơi một môn  thể thao nào đó hàng ngày... Một  trong những giải pháp thú vị mà  các  nhà  khoa  học  khuyên  mọi  người  là  thường  xuyên  thực  hiện  động tác thể dục  nâng cao gót hai  chân trong khi duỗi thẳng cơ lưng  và sau đó thả gót chân xuống. Đây  là giải pháp đơn giản không cần sự  hỗ trợ của thiết bị, đồng thời có thể  thực hiện ở bất cứ thời gian và địa  điểm nào.

(Nguồn: “Mạch máu xấu - Nguyên nhân của bệnh tật và sự suy giảm tuổi thọ”, Đỗ Thị Thanh Huyền, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)

Các  mao  mạch trong cơ thể của con người có chiều dài khoảng bao nhiêu?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Mạch máu xấu - Nguyên nhân của bệnh tật và sự suy giảm tuổi thọ

(1) Các mạch máu, còn được gọi  là  các  mao  mạch,  nằm  ở  khắp  cơ thể.  99% mạch máu của con  người  được  cho  là  mao  mạch.  Tổng  chiều  dài  của  các  mao  mạch trong cơ thể của con người  lên đến 100.000 km, tức là có thể  quấn vòng quanh Trái đất 2,5 lần.  Các  mao  mạch  có  vai  trò  quan  trọng trong việc duy trì hoạt động  sống  của  con  người,  giúp  con  người khỏe mạnh. Các mao mạch  khỏe mạnh có thể suy giảm mạnh  ở tuổi 40 trở đi, và đến tuổi 60 thì  khoảng 40% mao mạch trong cơ  thể bị suy giảm. Cùng với sự gia  tăng của tuổi tác, các mao mạch  suy giảm hoặc vỡ ra trở thành các  mạch máu xấu. Sự suy giảm các  mao mạch được các nhà khoa học  ví như những con tàu ma của hệ  thống tuần hoàn máu, ở đó chỉ tồn  tại những mao mạch trống rỗng  mà không có sự lưu thông máu.  

(2) Mỗi mao mạch có đường kính  0,05-0,1 mm (khoảng 1/10 độ dày  của sợi tóc).  Bằng việc sử dụng  các  thiết  bị  chụp  ảnh  sinh  học  tối tân nhất với độ phân giải siêu  cao, các nhà khoa học đã đi sâu  tìm hiểu cơ chế và tác động của  những mao mạch xấu, từ đó tìm ra  các giải pháp để giúp con người  sống khỏe hơn và lâu hơn.  Qua  kính hiển vi và các thiết bị chuyên  dụng, có thể quan sát thấy sự biến  mất  của  các  mao  mạch. Những  nghiên cứu mới nhất đã tiết lộ cơ  chế  xuất  hiện  những  mạch  máu  xấu và phương pháp làm giảm sự  xuất hiện của chúng.

(3) Các nhà khoa học tại Đại học  Y Keio (Nhật Bản) đã tập trung  nghiên  cứu  mối  quan  hệ  giữa  mạch  máu  xấu  và  tuổi  thọ  con  người.  Một  lượng  lớn  dữ  liệu  về  những người sống thọ và bí quyết  sống thọ đã được thu thập. Nhóm  người  được  nghiên  cứu  sống  ở  vùng  đô  thị  có  độ  tuổi  trong  khoảng 85-98. Những người này  được theo dõi 16 chỉ số trong cơ  thể, trong đó đặc biệt chú ý chỉ  số về sức khỏe của đôi chân, chỉ  số về sự tiến triển của xơ cứng  động mạch và điện tâm đồ. Đây  là những chỉ số rất quan trọng để  xác  định  mối  quan  hệ  giữa  các  mao mạch và tuổi thọ.

(4) Các nhà khoa học đã sử dụng  một thiết bị có thể chụp và quan  sát các mao mạch để phát hiện  phạm vi các mạch máu xấu xuất  hiện trên cơ thể. Phạm vi của các  mạch  máu  xấu  xuất  hiện  ở  gốc  móng tay. Khu vực da mỏng ở gốc  móng tay giúp chúng ta quan sát  các mao mạch cũng như các tế  bào máu lưu thông một cách dễ  dàng.  

(5) Đến  tháng  3/2019,  nhóm  nghiên  cứu  của  GS  Yasumichi  Arai (Đại học Y Keio) đã kiểm tra  mao mạch của 1.000 người cao  tuổi để đưa ra kết luận rõ ràng về  mối quan hệ giữa mạch máu và  tuổi  thọ.  Theo  đó,  sự  xuất  hiện  mạch  máu  xấu  càng  nhiều  và  càng sớm sẽ có ảnh hưởng tiêu  cực  đến  tuổi  thọ.  Họ  cũng  phát  hiện ra rằng, các mạch máu xấu  xuất hiện ở giai đoạn khi cơ thể  còn  tương  đối  trẻ  (20-30  tuổi).  Quá  trình  này  diễn  ra  nhanh  chóng khiến những vùng da xấu  không ngừng mở rộng.

(6) Kẻ thù của sắc đẹp và nguyên nhân  của bệnh loãng xương

Mạch máu xấu không chỉ tác  động tiêu cực đến tuổi thọ mà nó  còn là kẻ thù của sắc đẹp. Những  mạch máu xấu hình thành nhiều  dưới da sẽ tiêu diệt các tế bào da,  khiến da trở nên nhăn nheo. Tại  Đại học Y Jichi (Nhật Bản), các  nhà  khoa  học  đã  áp  dụng  công  nghệ  mới  nhất  để  nghiên  cứu  hoạt  động  của  các  mao  mạch.  Trước đây, các nghiên cứu chưa  từng  quan  sát  một  cách  chi  tiết  những mao mạch nhỏ nhất trong  cơ thể. Tuy nhiên, nhờ những kỹ  thuật mới cho phép các nhà khoa  học  của  Đại  học  Y  Jichi  thành  công trong việc phát hiện những  mao mạch nhỏ nhất trong cơ thể  con  người.  Công  nghệ  mới  này  giúp chúng ta hiểu rõ hơn về tầm  quan  trọng  của  các  mao  mạch  cũng như hậu quả xảy ra khi các  mao mạch biến thành các mạch  máu xấu. Họ đã tiến hành nghiên  cứu mối liên hệ giữa mạch máu  xấu với các tế bào da.

(7) Các  mao  mạch  có  nhiệm  vụ  cung cấp oxy và chất dinh dưỡng  cho các tế bào riêng lẻ trên khắp  cơ  thể.  Những  mao  mạch  này  đóng  vai  trò  quan  trọng  đối  với  sắc  đẹp  và  sức  khỏe  của  con  người.  Nếu  các  mạch  máu  xấu  hình  thành  dưới  da,  chúng  sẽ  ngăn chặn việc cung cấp oxy và  dinh dưỡng cho các tế bào, làm  tăng các tế bào tổn hại da, khiến  da mất khả năng hồi phục. Chúng  có thể làm cho da nhăn nheo và  chảy sệ. Khi các mạch máu xấu  xuất hiện sẽ  đẩy nhanh quá trình  lão hóa,  là  nguyên  nhân  gây  ra  một loạt các căn bệnh liên quan  như:  huyết  áp  cao,  tiểu  đường,  các chứng bệnh về tim mạch và  ung  thư...  Không  chỉ  có  vậy,  khi  cơ thể xuất hiện mạch máu xấu  sẽ  xuất  hiện  những  căn  bệnh  khác như tóc rụng; bàn tay, bàn  chân lạnh hơn nhiệt độ cơ thể do  lượng nhiệt vận chuyển qua mạch  máu đến chúng bị kém đi. Ngoài  ra,  các  mạch  máu  xấu  còn  ảnh  hưởng  trực  tiếp  đến  chức  năng  gan,  thận;  làm  giảm  hiệu  quả  của thuốc trong quá trình điều trị  bệnh, đặc biệt là những loại thuốc  rất  quan  trọng  trong  cuộc  chiến  chống ung thư.

(8) Các  nhà  khoa  học  của  Viện  Max Planck (Đức) đã tìm ra mối  liên hệ giữa các mạch máu xấu  với  bệnh  loãng  xương.  Trong  nghiên  cứu  của  mình,  GS  Ralf  Adam (Viện Max Planck) đã tiến  hành thí nghiệm trên những con  chuột khỏe mạnh và những con  chuột già. Nhóm nghiên cứu của  ông đã tiên phong trong việc chụp  ảnh  thành  công  các  mao  mạch  trong  xương.  Những  hình  ảnh  cho  thấy,  những  con  chuột  già  bị loãng xương có rất ít các mao  mạch  trong  xương.  Nghiên  cứu  chỉ ra rằng, các mao mạch xấu và  trống rỗng làm loãng xương. Các  mao mạch có tác dụng cung cấp  canxi và các dưỡng chất giúp hình  thành  mô  xương  mới.  Khi  mao  mạch  trở  nên  xấu  đi,  việc  cung  cấp canxi cho xương không còn,  khiến các mô xương bị hoại tử.

(9) Kẻ lấy cắp trí nhớ

Nghiên cứu về vai trò của mạch  máu cũng như tác động tiêu cực  của mạch máu xấu đến não bộ,  lần đầu tiên, các nhà khoa học đã  phát hiện ra rằng, mạch máu xấu  là nguyên nhân gây ra chứng mất  trí nhớ. Các nhà khoa học thuộc  Đại học Nam California (Mỹ) đã  tập trung nghiên cứu yếu tố mấu  chốt liên quan đến các mao mạch  xấu trong não. Sử dụng kính hiển  vi đặc biệt, họ đã quan sát rất rõ  các tế bào nội mô. Những tế nào  này  hình  thành  giống  như  bức  tường của mạch máu, bên cạnh  những tế bào ngoại mạch. Những  tế bào nội mô tạo thành lớp niêm  mạc cho các mao mạch, giúp cho  máu tuần hoàn trong cơ thể; còn  những  tế  bào  ngoại  mạch  dính  chặt bên ngoài các mao mạch và  cố định ở đó. Các tế bào ngoại  mạch được dính kết lại để bảo vệ  cấu  trúc  các  mao  mạch.  Trong  các mao mạch khỏe mạnh, lượng  oxy và dinh dưỡng được liên kết  thông qua các lỗ hổng của tế bào  nội mô và vận chuyển đến các tế  bào xung quanh. Nhưng nếu các  tế  bào  ngoại  mạch  bắt  đầu  bóc  tách  làm  cho  phần  bảo  vệ  các  mao mạch không còn, khiến các  tế bào nội mô mất khả năng hỗ trợ  và trở nên yếu ớt. Những khoảng  trống  bên  trong  mao  mạch  trở  nên  rộng  hơn,  kết  quả  là  một  lượng lớn oxy và chất dinh dưỡng  bị  rò  rỉ  ra  ngoài.  Khi  đó,  máu  không  thể  lưu  thông  qua  những  chỗ bị rò rỉ, khiến các mạch máu  xấu không ngừng phát triển. GS  Berislav  Zlokovic  (Đại  học  Nam  California),  nhà  khoa  học  hàng  đầu  thế  giới  chuyên  nghiên  cứu  về các mạch máu não cho rằng,  tế bào ngoại mạch chỉ có ở những  mạch máu não, và “Tế bào ngoại  mạch  là  những  người  gác  cổng  các mao mạch trong não giúp tái  tạo protein. Nhưng nếu các tế bào  ngoại mạch tổn thương, nghĩa là  máu  không  thể  lưu  thông  bình  thường trong não”.

(10) Nhóm  nghiên  cứu  của  GS  Berislav  Zlokovic  quyết  định  tìm  hiểu những triệu chứng xuất hiện  trong  não  khi  các  tế  bào  ngoại  mạch  biến  mất.  Để  làm  được  việc  đó,  họ  đã  thử  nghiệm  trên  những con chuột bình thường và  những con chuột bị giảm 25% khả  năng tự tạo ra tế bào ngoại mạch  thông qua kỹ thuật di truyền. Thử  nghiệm  của  nhóm  GS  Berislav  Zlokovic là cho 2 con chuột chạy  trên  bánh  xe  quay,  sau  đó  cho  dừng bánh xe quay một cách đột  ngột.  Kết  quả  cho  thấy,  những  con chuột khỏe mạnh dễ dàng xử  lý tình huống bằng cách tiếp tục  cho bánh xe quay, nhưng những  con chuột bị giảm 25% khả năng  tự  tạo  ra  tế  bào  ngoại  mạch  lại  không thể kiểm soát được bánh  xe.  Từ  đó,  họ  đi  đến  kết  luận,  những mao mạch xấu làm giảm  khả  năng  hoạt  động  của  não  trước những phản ứng đột ngột.  Điều này dẫn đến triệu chứng mất  trí nhớ.  

(11) Trong  một  trường  hợp  khác,  các nhà nghiên cứu tại Bệnh viện  Đại  học  Ehime  và  Đại  học  Mie  (Nhật Bản) đã tiến hành một cuộc  kiểm tra sức khỏe đặc biệt, gọi là  kiểm tra chống lão hóa. Họ nghiên  cứu  những  bất  thường  của  não  ở giai đoạn sớm nhất để có thời  gian đưa ra các biện pháp trị liệu  hiệu quả nhất. Trong nghiên cứu  của mình, GS Hidekaru Tomimoto  (Đại học Mie, là một trong những  chuyên gia hàng đầu nghiên cứu  về vai trò của các mao mạch liên  quan tới chứng mất trí nhớ) nhận  thấy,  não  của  người  mắc  bệnh  Alzheimer có số lượng mao mạch  giảm  khoảng  29%  so  với  người  khỏe mạnh và những mạch máu  xấu  xuất  hiện  nhiều  hơn,  từ  đó  làm xuất hiện các Amyloid beta.  Các  nhà  khoa  học  tin  rằng,  khi  Amyloid  beta  xuất  hiện  với  số  lượng lớn trong não sẽ dẫn đến  tình  trạng  bệnh  Alzheimer.  Tuy  nhiên,  chứng  mất  trí  nhớ  không  chỉ  do  các  mạch  máu  xấu  gây  nên mà còn do các chứng bệnh  khác  gây  ra.  Nhưng  một  điều  chắc  chắn  rằng,  để  ngăn  chặn  bệnh Alzheimer thì điều cần làm  là phải ngăn chặn việc hình thành  các mạch máu xấu.

(12) Nghiên cứu của các nhà khoa  học nêu trên cũng đã chỉ ra một số  nguyên nhân dẫn đến sự xuất hiện  của những mạch máu xấu trong cơ  thể như: ăn nhiều, hút thuốc lá, bị  huyết  áp  cao,  lười  tập  thể  dục...  Chính vì vậy, cách tốt nhất để ngăn  ngừa sự xuất hiện các mạch máu  xấu  là  duy  trì  một  lối  sống  lành  mạnh: ăn uống khoa học (không  ăn  quá  nhiều),  không  hút  thuốc  lá, tập thể dục hoặc chơi một môn  thể thao nào đó hàng ngày... Một  trong những giải pháp thú vị mà  các  nhà  khoa  học  khuyên  mọi  người  là  thường  xuyên  thực  hiện  động tác thể dục  nâng cao gót hai  chân trong khi duỗi thẳng cơ lưng  và sau đó thả gót chân xuống. Đây  là giải pháp đơn giản không cần sự  hỗ trợ của thiết bị, đồng thời có thể  thực hiện ở bất cứ thời gian và địa  điểm nào.

(Nguồn: “Mạch máu xấu - Nguyên nhân của bệnh tật và sự suy giảm tuổi thọ”, Đỗ Thị Thanh Huyền, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)

Các mạch máu còn có tên gọi là?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Mạch máu xấu - Nguyên nhân của bệnh tật và sự suy giảm tuổi thọ

(1) Các mạch máu, còn được gọi  là  các  mao  mạch,  nằm  ở  khắp  cơ thể.  99% mạch máu của con  người  được  cho  là  mao  mạch.  Tổng  chiều  dài  của  các  mao  mạch trong cơ thể của con người  lên đến 100.000 km, tức là có thể  quấn vòng quanh Trái đất 2,5 lần.  Các  mao  mạch  có  vai  trò  quan  trọng trong việc duy trì hoạt động  sống  của  con  người,  giúp  con  người khỏe mạnh. Các mao mạch  khỏe mạnh có thể suy giảm mạnh  ở tuổi 40 trở đi, và đến tuổi 60 thì  khoảng 40% mao mạch trong cơ  thể bị suy giảm. Cùng với sự gia  tăng của tuổi tác, các mao mạch  suy giảm hoặc vỡ ra trở thành các  mạch máu xấu. Sự suy giảm các  mao mạch được các nhà khoa học  ví như những con tàu ma của hệ  thống tuần hoàn máu, ở đó chỉ tồn  tại những mao mạch trống rỗng  mà không có sự lưu thông máu.  

(2) Mỗi mao mạch có đường kính  0,05-0,1 mm (khoảng 1/10 độ dày  của sợi tóc).  Bằng việc sử dụng  các  thiết  bị  chụp  ảnh  sinh  học  tối tân nhất với độ phân giải siêu  cao, các nhà khoa học đã đi sâu  tìm hiểu cơ chế và tác động của  những mao mạch xấu, từ đó tìm ra  các giải pháp để giúp con người  sống khỏe hơn và lâu hơn.  Qua  kính hiển vi và các thiết bị chuyên  dụng, có thể quan sát thấy sự biến  mất  của  các  mao  mạch. Những  nghiên cứu mới nhất đã tiết lộ cơ  chế  xuất  hiện  những  mạch  máu  xấu và phương pháp làm giảm sự  xuất hiện của chúng.

(3) Các nhà khoa học tại Đại học  Y Keio (Nhật Bản) đã tập trung  nghiên  cứu  mối  quan  hệ  giữa  mạch  máu  xấu  và  tuổi  thọ  con  người.  Một  lượng  lớn  dữ  liệu  về  những người sống thọ và bí quyết  sống thọ đã được thu thập. Nhóm  người  được  nghiên  cứu  sống  ở  vùng  đô  thị  có  độ  tuổi  trong  khoảng 85-98. Những người này  được theo dõi 16 chỉ số trong cơ  thể, trong đó đặc biệt chú ý chỉ  số về sức khỏe của đôi chân, chỉ  số về sự tiến triển của xơ cứng  động mạch và điện tâm đồ. Đây  là những chỉ số rất quan trọng để  xác  định  mối  quan  hệ  giữa  các  mao mạch và tuổi thọ.

(4) Các nhà khoa học đã sử dụng  một thiết bị có thể chụp và quan  sát các mao mạch để phát hiện  phạm vi các mạch máu xấu xuất  hiện trên cơ thể. Phạm vi của các  mạch  máu  xấu  xuất  hiện  ở  gốc  móng tay. Khu vực da mỏng ở gốc  móng tay giúp chúng ta quan sát  các mao mạch cũng như các tế  bào máu lưu thông một cách dễ  dàng.  

(5) Đến  tháng  3/2019,  nhóm  nghiên  cứu  của  GS  Yasumichi  Arai (Đại học Y Keio) đã kiểm tra  mao mạch của 1.000 người cao  tuổi để đưa ra kết luận rõ ràng về  mối quan hệ giữa mạch máu và  tuổi  thọ.  Theo  đó,  sự  xuất  hiện  mạch  máu  xấu  càng  nhiều  và  càng sớm sẽ có ảnh hưởng tiêu  cực  đến  tuổi  thọ.  Họ  cũng  phát  hiện ra rằng, các mạch máu xấu  xuất hiện ở giai đoạn khi cơ thể  còn  tương  đối  trẻ  (20-30  tuổi).  Quá  trình  này  diễn  ra  nhanh  chóng khiến những vùng da xấu  không ngừng mở rộng.

(6) Kẻ thù của sắc đẹp và nguyên nhân  của bệnh loãng xương

Mạch máu xấu không chỉ tác  động tiêu cực đến tuổi thọ mà nó  còn là kẻ thù của sắc đẹp. Những  mạch máu xấu hình thành nhiều  dưới da sẽ tiêu diệt các tế bào da,  khiến da trở nên nhăn nheo. Tại  Đại học Y Jichi (Nhật Bản), các  nhà  khoa  học  đã  áp  dụng  công  nghệ  mới  nhất  để  nghiên  cứu  hoạt  động  của  các  mao  mạch.  Trước đây, các nghiên cứu chưa  từng  quan  sát  một  cách  chi  tiết  những mao mạch nhỏ nhất trong  cơ thể. Tuy nhiên, nhờ những kỹ  thuật mới cho phép các nhà khoa  học  của  Đại  học  Y  Jichi  thành  công trong việc phát hiện những  mao mạch nhỏ nhất trong cơ thể  con  người.  Công  nghệ  mới  này  giúp chúng ta hiểu rõ hơn về tầm  quan  trọng  của  các  mao  mạch  cũng như hậu quả xảy ra khi các  mao mạch biến thành các mạch  máu xấu. Họ đã tiến hành nghiên  cứu mối liên hệ giữa mạch máu  xấu với các tế bào da.

(7) Các  mao  mạch  có  nhiệm  vụ  cung cấp oxy và chất dinh dưỡng  cho các tế bào riêng lẻ trên khắp  cơ  thể.  Những  mao  mạch  này  đóng  vai  trò  quan  trọng  đối  với  sắc  đẹp  và  sức  khỏe  của  con  người.  Nếu  các  mạch  máu  xấu  hình  thành  dưới  da,  chúng  sẽ  ngăn chặn việc cung cấp oxy và  dinh dưỡng cho các tế bào, làm  tăng các tế bào tổn hại da, khiến  da mất khả năng hồi phục. Chúng  có thể làm cho da nhăn nheo và  chảy sệ. Khi các mạch máu xấu  xuất hiện sẽ  đẩy nhanh quá trình  lão hóa,  là  nguyên  nhân  gây  ra  một loạt các căn bệnh liên quan  như:  huyết  áp  cao,  tiểu  đường,  các chứng bệnh về tim mạch và  ung  thư...  Không  chỉ  có  vậy,  khi  cơ thể xuất hiện mạch máu xấu  sẽ  xuất  hiện  những  căn  bệnh  khác như tóc rụng; bàn tay, bàn  chân lạnh hơn nhiệt độ cơ thể do  lượng nhiệt vận chuyển qua mạch  máu đến chúng bị kém đi. Ngoài  ra,  các  mạch  máu  xấu  còn  ảnh  hưởng  trực  tiếp  đến  chức  năng  gan,  thận;  làm  giảm  hiệu  quả  của thuốc trong quá trình điều trị  bệnh, đặc biệt là những loại thuốc  rất  quan  trọng  trong  cuộc  chiến  chống ung thư.

(8) Các  nhà  khoa  học  của  Viện  Max Planck (Đức) đã tìm ra mối  liên hệ giữa các mạch máu xấu  với  bệnh  loãng  xương.  Trong  nghiên  cứu  của  mình,  GS  Ralf  Adam (Viện Max Planck) đã tiến  hành thí nghiệm trên những con  chuột khỏe mạnh và những con  chuột già. Nhóm nghiên cứu của  ông đã tiên phong trong việc chụp  ảnh  thành  công  các  mao  mạch  trong  xương.  Những  hình  ảnh  cho  thấy,  những  con  chuột  già  bị loãng xương có rất ít các mao  mạch  trong  xương.  Nghiên  cứu  chỉ ra rằng, các mao mạch xấu và  trống rỗng làm loãng xương. Các  mao mạch có tác dụng cung cấp  canxi và các dưỡng chất giúp hình  thành  mô  xương  mới.  Khi  mao  mạch  trở  nên  xấu  đi,  việc  cung  cấp canxi cho xương không còn,  khiến các mô xương bị hoại tử.

(9) Kẻ lấy cắp trí nhớ

Nghiên cứu về vai trò của mạch  máu cũng như tác động tiêu cực  của mạch máu xấu đến não bộ,  lần đầu tiên, các nhà khoa học đã  phát hiện ra rằng, mạch máu xấu  là nguyên nhân gây ra chứng mất  trí nhớ. Các nhà khoa học thuộc  Đại học Nam California (Mỹ) đã  tập trung nghiên cứu yếu tố mấu  chốt liên quan đến các mao mạch  xấu trong não. Sử dụng kính hiển  vi đặc biệt, họ đã quan sát rất rõ  các tế bào nội mô. Những tế nào  này  hình  thành  giống  như  bức  tường của mạch máu, bên cạnh  những tế bào ngoại mạch. Những  tế bào nội mô tạo thành lớp niêm  mạc cho các mao mạch, giúp cho  máu tuần hoàn trong cơ thể; còn  những  tế  bào  ngoại  mạch  dính  chặt bên ngoài các mao mạch và  cố định ở đó. Các tế bào ngoại  mạch được dính kết lại để bảo vệ  cấu  trúc  các  mao  mạch.  Trong  các mao mạch khỏe mạnh, lượng  oxy và dinh dưỡng được liên kết  thông qua các lỗ hổng của tế bào  nội mô và vận chuyển đến các tế  bào xung quanh. Nhưng nếu các  tế  bào  ngoại  mạch  bắt  đầu  bóc  tách  làm  cho  phần  bảo  vệ  các  mao mạch không còn, khiến các  tế bào nội mô mất khả năng hỗ trợ  và trở nên yếu ớt. Những khoảng  trống  bên  trong  mao  mạch  trở  nên  rộng  hơn,  kết  quả  là  một  lượng lớn oxy và chất dinh dưỡng  bị  rò  rỉ  ra  ngoài.  Khi  đó,  máu  không  thể  lưu  thông  qua  những  chỗ bị rò rỉ, khiến các mạch máu  xấu không ngừng phát triển. GS  Berislav  Zlokovic  (Đại  học  Nam  California),  nhà  khoa  học  hàng  đầu  thế  giới  chuyên  nghiên  cứu  về các mạch máu não cho rằng,  tế bào ngoại mạch chỉ có ở những  mạch máu não, và “Tế bào ngoại  mạch  là  những  người  gác  cổng  các mao mạch trong não giúp tái  tạo protein. Nhưng nếu các tế bào  ngoại mạch tổn thương, nghĩa là  máu  không  thể  lưu  thông  bình  thường trong não”.

(10) Nhóm  nghiên  cứu  của  GS  Berislav  Zlokovic  quyết  định  tìm  hiểu những triệu chứng xuất hiện  trong  não  khi  các  tế  bào  ngoại  mạch  biến  mất.  Để  làm  được  việc  đó,  họ  đã  thử  nghiệm  trên  những con chuột bình thường và  những con chuột bị giảm 25% khả  năng tự tạo ra tế bào ngoại mạch  thông qua kỹ thuật di truyền. Thử  nghiệm  của  nhóm  GS  Berislav  Zlokovic là cho 2 con chuột chạy  trên  bánh  xe  quay,  sau  đó  cho  dừng bánh xe quay một cách đột  ngột.  Kết  quả  cho  thấy,  những  con chuột khỏe mạnh dễ dàng xử  lý tình huống bằng cách tiếp tục  cho bánh xe quay, nhưng những  con chuột bị giảm 25% khả năng  tự  tạo  ra  tế  bào  ngoại  mạch  lại  không thể kiểm soát được bánh  xe.  Từ  đó,  họ  đi  đến  kết  luận,  những mao mạch xấu làm giảm  khả  năng  hoạt  động  của  não  trước những phản ứng đột ngột.  Điều này dẫn đến triệu chứng mất  trí nhớ.  

(11) Trong  một  trường  hợp  khác,  các nhà nghiên cứu tại Bệnh viện  Đại  học  Ehime  và  Đại  học  Mie  (Nhật Bản) đã tiến hành một cuộc  kiểm tra sức khỏe đặc biệt, gọi là  kiểm tra chống lão hóa. Họ nghiên  cứu  những  bất  thường  của  não  ở giai đoạn sớm nhất để có thời  gian đưa ra các biện pháp trị liệu  hiệu quả nhất. Trong nghiên cứu  của mình, GS Hidekaru Tomimoto  (Đại học Mie, là một trong những  chuyên gia hàng đầu nghiên cứu  về vai trò của các mao mạch liên  quan tới chứng mất trí nhớ) nhận  thấy,  não  của  người  mắc  bệnh  Alzheimer có số lượng mao mạch  giảm  khoảng  29%  so  với  người  khỏe mạnh và những mạch máu  xấu  xuất  hiện  nhiều  hơn,  từ  đó  làm xuất hiện các Amyloid beta.  Các  nhà  khoa  học  tin  rằng,  khi  Amyloid  beta  xuất  hiện  với  số  lượng lớn trong não sẽ dẫn đến  tình  trạng  bệnh  Alzheimer.  Tuy  nhiên,  chứng  mất  trí  nhớ  không  chỉ  do  các  mạch  máu  xấu  gây  nên mà còn do các chứng bệnh  khác  gây  ra.  Nhưng  một  điều  chắc  chắn  rằng,  để  ngăn  chặn  bệnh Alzheimer thì điều cần làm  là phải ngăn chặn việc hình thành  các mạch máu xấu.

(12) Nghiên cứu của các nhà khoa  học nêu trên cũng đã chỉ ra một số  nguyên nhân dẫn đến sự xuất hiện  của những mạch máu xấu trong cơ  thể như: ăn nhiều, hút thuốc lá, bị  huyết  áp  cao,  lười  tập  thể  dục...  Chính vì vậy, cách tốt nhất để ngăn  ngừa sự xuất hiện các mạch máu  xấu  là  duy  trì  một  lối  sống  lành  mạnh: ăn uống khoa học (không  ăn  quá  nhiều),  không  hút  thuốc  lá, tập thể dục hoặc chơi một môn  thể thao nào đó hàng ngày... Một  trong những giải pháp thú vị mà  các  nhà  khoa  học  khuyên  mọi  người  là  thường  xuyên  thực  hiện  động tác thể dục  nâng cao gót hai  chân trong khi duỗi thẳng cơ lưng  và sau đó thả gót chân xuống. Đây  là giải pháp đơn giản không cần sự  hỗ trợ của thiết bị, đồng thời có thể  thực hiện ở bất cứ thời gian và địa  điểm nào.

(Nguồn: “Mạch máu xấu - Nguyên nhân của bệnh tật và sự suy giảm tuổi thọ”, Đỗ Thị Thanh Huyền, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)

Nội dung chính của văn bản trên là?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

HOÀNG LIÊN CHÂN GÀ – DƯỢC LIỆU QUÝ ĐA TÁC DỤNG

(1) Hoàng liên chân gà ( Coptis  chinensis  Franch) là cây  thân thảo, sống lâu năm,  ưa sống  ở vùng núi cao  1.000-2.500 m, mưa nhiều,  ẩm ướt.  Hiện  nay,  loài  dược  liệu  này  được  trồng nhiều tại Trung Quốc, chủ yếu  ở các tỉnh Tứ Xuyên, Vân Nam, Hồ  Bắc,  Thiểm  Tây,  Hồ  Nam,  Giang  Tây, Triết Giang, Sơn Tây. Tại Việt  Nam,  Hoàng  liên  chân  gà  phân  bố  chủ yếu ở huyện Sa Pa (Lào Cai) và  huyện Quản Bạ (Hà Giang). Hoàng  liên chân gà thuộc diện quý hiếm, đã  được đưa vào Sách đỏ của Liên minh  bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN)  năm 1980, Sách đỏ  Ấn Độ 1980 và  Sách đỏ Việt Nam năm 1996.  

(2) Trong y học cổ truyền, Hoàng liên  chân  gà  có  vị  đắng,  tính  hàn.  Quy  kinh vào tâm, can, đởm, tiểu trường.  Có  tác  dụng  thanh  nhiệt  táo  thấp,  chủ trị các bệnh vị tràng thấp nhiệt  dẫn đến chứng lỵ, tiêu chảy; thanh  tâm  trừ  phiền:  tâm  hỏa  thịnh  gây  phiền muộn, mất ngủ, miệng lưỡi lở  loét; giải nhiệt độc ung nhọt, sốt cao,  phiền táo, chóng mặt, nói nhảm, mê  cuồng, lưỡi đỏ, mạch sác; thanh can  sáng mắt, điều trị các bệnh do can  hỏa gây đau mắt, đỏ mắt, chảy nước  mắt; giải độc ba đậu, khinh phấn.

(3) Ngày nay, dược liệu này đã được  nhiều  nhà  khoa  học  trên  thế  giới  nghiên cứu về thành phần hóa học  và tác dụng dược lý.

Thành  phần  hóa  học:  thân,  rễ  Hoàng  liên  chân  gà  có  chứa  nhiều  alcaloid  (5-8%),  với  các  thành  phần  chính  là  berberin,  palmatin,  jatrorrhizin,  coptisin,  epiberberin,  columbamin,  worenin,  magnoflorin...  Các thành phần alcaloid của Hoàng  liên  chân  gà  được  tìm  thấy  trong  hầu  hết  các  bộ  phận  của  cây,  tuy  nhiên  tỷ  lệ  alcaloid  trong  các  bộ  phận của cây thay đổi theo các giai  đoạn sinh trưởng và mùa. Vào tháng  9-10, ở thân và rễ nhỏ có hàm lượng  berberin cao; ở lá già trước khi rụng  (tháng 7-10) hàm lượng alcaloid cũng  thường cao; ở hoa có khoảng 0,56%  và hạt chứa 0,23% berberin. Ngoài  ra,  trong  thân,  rễ  của  Hoàng  liên  chân gà còn có tinh bột, acid hữu cơ  như acid ferulic... Trong số các thành  phần  hóa  học  nêu  trên,  berberin  được y học quan tâm nhiều nhất, tiếp  đến là palmatin.

Tác  dụng  dược  lý:  các  kết  quả  nghiên  cứu  cho  thấy,  Hoàng  liên  chân gà có nhiều tác dụng dược lý  khác nhau:

- Kháng khuẩn, kháng virus, kháng  nấm: nhóm nghiên cứu của Hàn Quốc  do Bae EA (1998) đứng đầu đã đánh  giá tác dụng của Hoàng liên chân gà  trên vi khuẩn  Helicobacter pylori , kết  quả  cho  thấy,  nước  sắc  từ  loài  cây  này có tác dụng làm giảm 16% hoạt  tính men urease và ức chế mạnh sự  phát triển của vi khuẩn  Helicobacter  pylori .  Các  nghiên  cứu  khác  cũng  đã chứng minh nước sắc Hoàng liên  chân  gà  và  hoạt  chất  berberin  có  phổ  kháng  khuẩn  rộng  đối  với  một  số chủng gram (+) và gram (-). Nước  sắc  thể  hiện  tác  dụng  ức  chế  một  số  vi  khuẩn  tùy  theo  độ  pha  loãng  khác nhau như:  Shigella shigac ,  Sh.  dysenteriae ,  Bacillus  tuberculosis ,  Bacillus  cholera ,  Staphylococcus  aureus ,  Bacillus  paratyphi ,  Bacillus  coli ,  Bacillus proteus ,  Streptococcus  hemolyticus ,  Vitrio cholera ,  Baccillus  subtilis ...  Cơ  chế  tác  dụng  kháng  khuẩn được giải thích là do berberin  ức chế tổng hợp ARN, ADN và protein  đối  với  vi  khuẩn.  Ngoài  ra,  Hoàng  liên chân gà còn có tác dụng kháng  nấm  và  virus.  Kết  quả  nghiên  cứu  cho thấy, nước sắc Hoàng liên chân  gà với nồng độ 50% khi thí nghiệm  trên phôi gà có tác dụng ức chế sự  phát triển của virus cúm chủng PR8,  56S8, P.M.

- Giảm hội chứng ruột kích thích  và điều trị viêm đường tiêu hóa: năm  2011,  Yungwui  Tjong  và  cộng  sự  (Hồng Kông, Trung Quốc) đã nghiên  cứu chiết xuất rễ Hoàng liên chân gà  và nhận thấy chúng có tác dụng giảm  những  cơn  đau  nội  tạng  trên  động  vật thực nghiệm, cơ chế có thể là do  làm  giảm  hormon  cholecystokinin  và serotonin - là những chất làm co  cơ  trơn  dẫn  tới  tăng  nhu  động  đại  tràng.  Cũng  trong  năm  này,  nhóm  nghiên  cứu  của  Qian  Zhang  và  cộng sự (Trung Quốc) đã cho thấy  tác  dụng  điều  trị  viêm  đường  tiêu  hóa của dược liệu Hoàng liên chân  gà. Theo đó, dịch chiết nước Hoàng  liên chân gà với liều 300 mg/kg cân  nặng và berberin với liều 120 mg/kg  cân nặng đã có tác dụng làm giảm  tổn thương đường tiêu hóa gây ra bởi  lip oposaccharose  theo  cơ  chế  làm  tăng hoạt động của SOD và GSH-Px, ức chế hoạt động của TLR4 và NF-jB  ở hồi tràng.

(4)  Đặc biệt, một số nghiên cứu được  công bố năm 2018 cho thấy, Hoàng  liên chân gà có tiềm năng để điều trị  bệnh  Alzheimer,  bảo  vệ  thần  kinh,  thận. Cụ thể, nhóm nghiên cứu của  Cao Thảo Nguyên và cộng sự (Việt  Nam)  đã  điều  tra  thành  phần  hóa  học  một  chiết  xuất  nước  của  dược  liệu  Hoàng  liên  chân  gà  và  xác  định  được  2  protoberberines  bậc  bốn (1, 2) và 1 amide ba vòng mới  (3), cùng với 5 hợp chất đã biết (4,  5, 6, 7, 8). Các hợp chất 4, 5 và 7  cho  thấy  sự  ức  chế  mạnh  đối  với  acetylcholinesterase  (AChE)  tương  ứng với các giá trị IC 50  là 1,1; 5,6 và  12,9 μ M. Hợp chất 2 và 4 cho thấy sự  ức chế butyrylcholinesterase (BChE)  tương ứng với giá trị IC 50  là 11,5 và  27,8 μ M. Qua nghiên cứu này, các tác  giả kết luận Hoàng liên chân gà là  dược liệu tiềm năng để điều trị bệnh  Alzheimer.  Tại  Trung  Quốc,  Yujuan  Li và cộng sự đã nghiên cứu tác dụng  bảo vệ thần kinh của polysaccharide  Hoàng liên chân gà trên mô hình giun  tròn  ( Caenorhabditis  elegans )  biến  đổi gen bị bệnh Alzheimer được gây  độc bằng amyloid-beta (A β ). Những  dữ liệu nghiên cứu chứng minh rằng  polysaccharide Hoàng liên chân gà  có thể làm giảm độc tính do A β  gây  ra bằng cách trì hoãn sự lão hóa, làm  giảm tốc độ tê liệt, ức chế sự lắng  đọng của A β , và tăng mức biểu hiện  của gen HSP trong giun tròn biến đổi  gen. Bên cạnh đó, Ying-Ying Wang và  cộng sự (Trung Quốc) đã chứng minh  rằng berberine (thành phần hoạt chất  chính của Hoàng liên chân gà) có thể  bảo  vệ  chức  năng  của  podocytes  thông qua ức chế chuyển TGF- β 1 từ  các tế bào Mesangial cầu thận sang  podocyte. Đây là một trong những cơ  chế tiềm năng của tác dụng bảo vệ  đối với bệnh thận do tiểu đường.  

(5) Không chỉ dừng lại ở đó, Hoàng  liên chân gà còn được các công trình  nghiên cứu khoa học gần đây chứng  minh là dược liệu tiềm năng để điều trị  các bệnh về sa sút trí tuệ, tiểu đường,  phòng ngừa xơ vữa động mạch, lợi  mật, chống ung thư, hạ huyết áp, an  thần... Những tác dụng này đã được  Đỗ Huy Bích và cộng sự ghi chép lại  trong bộ sách  Cây thuốc và động vật  làm thuốc ở Việt Nam  do Nhà xuất  bản Khoa học và Kỹ thuật phát hành.

(6) Việt Nam là một quốc gia sở hữu  nguồn tài nguyên cây thuốc và tri thức  sử  dụng  cây  thuốc  vô  cùng  phong  phú, đa dạng. Nhu cầu sử dụng dược  liệu phục vụ cho việc chăm sóc sức  khỏe cộng đồng tương đối cao. Trước  tình trạng cạn kiệt nguồn Hoàng liên  chân gà ở nước ta cùng với việc xác  định  được  những  vai  trò  phòng  và  chữa bệnh hết sức quan trọng của vị  thuốc này trong y dược học cổ truyền  và y dược học hiện đại, cần phải có  những hướng nghiên cứu mới về cây  Hoàng liên chân gà nhằm phát triển  nguồn dược liệu và tiềm năng chữa  bệnh từ dược liệu quý này.

(7) Để bảo tồn các cây thuốc quý nói  chung, Hoàng liên chân gà nói riêng,  cách tốt nhất là hình thành nên chuỗi  giá trị cho chúng để bảo tồn và phát  triển bền vững trong thực tiễn cuộc  sống. Một số hoạt động nghiên cứu  cơ bản trong chuỗi giá trị như sau:  nghiên cứu quy trình kỹ thuật nhân  giống,  sản  xuất  giống  Hoàng  liên  chân  gà;  nghiên  cứu  quy  trình  kỹ  thuật  trồng  và  xây  dựng  mô  hình  trồng  Hoàng  liên  chân  gà;  sơ  chế,  chế biến tại vùng nguyên liệu để tạo  dược liệu Hoàng liên chân gà; nghiên  cứu  đánh  giá  các  thành  phần  hóa  học, tác dụng dược lý của dược liệu  trồng được so với dược liệu thu hái tự  nhiên và dược liệu nhập khẩu; nghiên  cứu bào chế sản phẩm bảo vệ sức  khỏe có sử dụng Hoàng liên chân gà  và các dược liệu khác đảm bảo được  tính an toàn, hiệu quả, đủ điều kiện  đưa ra thị trường.

(8) Nói  cách  khác,  nghiên  cứu  xây  dựng  cơ  chế  bảo  tồn  giống,  cơ  sở  sản xuất giống, hình thành các vùng  chuyên  canh  trồng  nguyên  liệu,  cơ  sở chế biến tại vùng nguyên liệu, tạo  ra những sản phẩm được bào chế từ  Hoàng liên chân gà là việc làm thiết  thực và cần thiết để bảo tồn nguồn  gen, tạo dược liệu quý cho y học cổ  truyền Việt Nam, góp phần chăm sóc  sức khỏe cộng đồng.

(Nguồn: “Hoàng liên chân gà – dược liệu quý đa tác dụng”, Phùng Tuấn Giang, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 12, năm 2018)

Qúa trình nghiên cứu, tạo ra những sản phẩm được bào chế từ  Hoàng liên chân gà mang ý nghĩa?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

HOÀNG LIÊN CHÂN GÀ – DƯỢC LIỆU QUÝ ĐA TÁC DỤNG

(1) Hoàng liên chân gà ( Coptis  chinensis  Franch) là cây  thân thảo, sống lâu năm,  ưa sống  ở vùng núi cao  1.000-2.500 m, mưa nhiều,  ẩm ướt.  Hiện  nay,  loài  dược  liệu  này  được  trồng nhiều tại Trung Quốc, chủ yếu  ở các tỉnh Tứ Xuyên, Vân Nam, Hồ  Bắc,  Thiểm  Tây,  Hồ  Nam,  Giang  Tây, Triết Giang, Sơn Tây. Tại Việt  Nam,  Hoàng  liên  chân  gà  phân  bố  chủ yếu ở huyện Sa Pa (Lào Cai) và  huyện Quản Bạ (Hà Giang). Hoàng  liên chân gà thuộc diện quý hiếm, đã  được đưa vào Sách đỏ của Liên minh  bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN)  năm 1980, Sách đỏ  Ấn Độ 1980 và  Sách đỏ Việt Nam năm 1996.  

(2) Trong y học cổ truyền, Hoàng liên  chân  gà  có  vị  đắng,  tính  hàn.  Quy  kinh vào tâm, can, đởm, tiểu trường.  Có  tác  dụng  thanh  nhiệt  táo  thấp,  chủ trị các bệnh vị tràng thấp nhiệt  dẫn đến chứng lỵ, tiêu chảy; thanh  tâm  trừ  phiền:  tâm  hỏa  thịnh  gây  phiền muộn, mất ngủ, miệng lưỡi lở  loét; giải nhiệt độc ung nhọt, sốt cao,  phiền táo, chóng mặt, nói nhảm, mê  cuồng, lưỡi đỏ, mạch sác; thanh can  sáng mắt, điều trị các bệnh do can  hỏa gây đau mắt, đỏ mắt, chảy nước  mắt; giải độc ba đậu, khinh phấn.

(3) Ngày nay, dược liệu này đã được  nhiều  nhà  khoa  học  trên  thế  giới  nghiên cứu về thành phần hóa học  và tác dụng dược lý.

Thành  phần  hóa  học:  thân,  rễ  Hoàng  liên  chân  gà  có  chứa  nhiều  alcaloid  (5-8%),  với  các  thành  phần  chính  là  berberin,  palmatin,  jatrorrhizin,  coptisin,  epiberberin,  columbamin,  worenin,  magnoflorin...  Các thành phần alcaloid của Hoàng  liên  chân  gà  được  tìm  thấy  trong  hầu  hết  các  bộ  phận  của  cây,  tuy  nhiên  tỷ  lệ  alcaloid  trong  các  bộ  phận của cây thay đổi theo các giai  đoạn sinh trưởng và mùa. Vào tháng  9-10, ở thân và rễ nhỏ có hàm lượng  berberin cao; ở lá già trước khi rụng  (tháng 7-10) hàm lượng alcaloid cũng  thường cao; ở hoa có khoảng 0,56%  và hạt chứa 0,23% berberin. Ngoài  ra,  trong  thân,  rễ  của  Hoàng  liên  chân gà còn có tinh bột, acid hữu cơ  như acid ferulic... Trong số các thành  phần  hóa  học  nêu  trên,  berberin  được y học quan tâm nhiều nhất, tiếp  đến là palmatin.

Tác  dụng  dược  lý:  các  kết  quả  nghiên  cứu  cho  thấy,  Hoàng  liên  chân gà có nhiều tác dụng dược lý  khác nhau:

- Kháng khuẩn, kháng virus, kháng  nấm: nhóm nghiên cứu của Hàn Quốc  do Bae EA (1998) đứng đầu đã đánh  giá tác dụng của Hoàng liên chân gà  trên vi khuẩn  Helicobacter pylori , kết  quả  cho  thấy,  nước  sắc  từ  loài  cây  này có tác dụng làm giảm 16% hoạt  tính men urease và ức chế mạnh sự  phát triển của vi khuẩn  Helicobacter  pylori .  Các  nghiên  cứu  khác  cũng  đã chứng minh nước sắc Hoàng liên  chân  gà  và  hoạt  chất  berberin  có  phổ  kháng  khuẩn  rộng  đối  với  một  số chủng gram (+) và gram (-). Nước  sắc  thể  hiện  tác  dụng  ức  chế  một  số  vi  khuẩn  tùy  theo  độ  pha  loãng  khác nhau như:  Shigella shigac ,  Sh.  dysenteriae ,  Bacillus  tuberculosis ,  Bacillus  cholera ,  Staphylococcus  aureus ,  Bacillus  paratyphi ,  Bacillus  coli ,  Bacillus proteus ,  Streptococcus  hemolyticus ,  Vitrio cholera ,  Baccillus  subtilis ...  Cơ  chế  tác  dụng  kháng  khuẩn được giải thích là do berberin  ức chế tổng hợp ARN, ADN và protein  đối  với  vi  khuẩn.  Ngoài  ra,  Hoàng  liên chân gà còn có tác dụng kháng  nấm  và  virus.  Kết  quả  nghiên  cứu  cho thấy, nước sắc Hoàng liên chân  gà với nồng độ 50% khi thí nghiệm  trên phôi gà có tác dụng ức chế sự  phát triển của virus cúm chủng PR8,  56S8, P.M.

- Giảm hội chứng ruột kích thích  và điều trị viêm đường tiêu hóa: năm  2011,  Yungwui  Tjong  và  cộng  sự  (Hồng Kông, Trung Quốc) đã nghiên  cứu chiết xuất rễ Hoàng liên chân gà  và nhận thấy chúng có tác dụng giảm  những  cơn  đau  nội  tạng  trên  động  vật thực nghiệm, cơ chế có thể là do  làm  giảm  hormon  cholecystokinin  và serotonin - là những chất làm co  cơ  trơn  dẫn  tới  tăng  nhu  động  đại  tràng.  Cũng  trong  năm  này,  nhóm  nghiên  cứu  của  Qian  Zhang  và  cộng sự (Trung Quốc) đã cho thấy  tác  dụng  điều  trị  viêm  đường  tiêu  hóa của dược liệu Hoàng liên chân  gà. Theo đó, dịch chiết nước Hoàng  liên chân gà với liều 300 mg/kg cân  nặng và berberin với liều 120 mg/kg  cân nặng đã có tác dụng làm giảm  tổn thương đường tiêu hóa gây ra bởi  lip oposaccharose  theo  cơ  chế  làm  tăng hoạt động của SOD và GSH-Px, ức chế hoạt động của TLR4 và NF-jB  ở hồi tràng.

(4)  Đặc biệt, một số nghiên cứu được  công bố năm 2018 cho thấy, Hoàng  liên chân gà có tiềm năng để điều trị  bệnh  Alzheimer,  bảo  vệ  thần  kinh,  thận. Cụ thể, nhóm nghiên cứu của  Cao Thảo Nguyên và cộng sự (Việt  Nam)  đã  điều  tra  thành  phần  hóa  học  một  chiết  xuất  nước  của  dược  liệu  Hoàng  liên  chân  gà  và  xác  định  được  2  protoberberines  bậc  bốn (1, 2) và 1 amide ba vòng mới  (3), cùng với 5 hợp chất đã biết (4,  5, 6, 7, 8). Các hợp chất 4, 5 và 7  cho  thấy  sự  ức  chế  mạnh  đối  với  acetylcholinesterase  (AChE)  tương  ứng với các giá trị IC 50  là 1,1; 5,6 và  12,9 μ M. Hợp chất 2 và 4 cho thấy sự  ức chế butyrylcholinesterase (BChE)  tương ứng với giá trị IC 50  là 11,5 và  27,8 μ M. Qua nghiên cứu này, các tác  giả kết luận Hoàng liên chân gà là  dược liệu tiềm năng để điều trị bệnh  Alzheimer.  Tại  Trung  Quốc,  Yujuan  Li và cộng sự đã nghiên cứu tác dụng  bảo vệ thần kinh của polysaccharide  Hoàng liên chân gà trên mô hình giun  tròn  ( Caenorhabditis  elegans )  biến  đổi gen bị bệnh Alzheimer được gây  độc bằng amyloid-beta (A β ). Những  dữ liệu nghiên cứu chứng minh rằng  polysaccharide Hoàng liên chân gà  có thể làm giảm độc tính do A β  gây  ra bằng cách trì hoãn sự lão hóa, làm  giảm tốc độ tê liệt, ức chế sự lắng  đọng của A β , và tăng mức biểu hiện  của gen HSP trong giun tròn biến đổi  gen. Bên cạnh đó, Ying-Ying Wang và  cộng sự (Trung Quốc) đã chứng minh  rằng berberine (thành phần hoạt chất  chính của Hoàng liên chân gà) có thể  bảo  vệ  chức  năng  của  podocytes  thông qua ức chế chuyển TGF- β 1 từ  các tế bào Mesangial cầu thận sang  podocyte. Đây là một trong những cơ  chế tiềm năng của tác dụng bảo vệ  đối với bệnh thận do tiểu đường.  

(5) Không chỉ dừng lại ở đó, Hoàng  liên chân gà còn được các công trình  nghiên cứu khoa học gần đây chứng  minh là dược liệu tiềm năng để điều trị  các bệnh về sa sút trí tuệ, tiểu đường,  phòng ngừa xơ vữa động mạch, lợi  mật, chống ung thư, hạ huyết áp, an  thần... Những tác dụng này đã được  Đỗ Huy Bích và cộng sự ghi chép lại  trong bộ sách  Cây thuốc và động vật  làm thuốc ở Việt Nam  do Nhà xuất  bản Khoa học và Kỹ thuật phát hành.

(6) Việt Nam là một quốc gia sở hữu  nguồn tài nguyên cây thuốc và tri thức  sử  dụng  cây  thuốc  vô  cùng  phong  phú, đa dạng. Nhu cầu sử dụng dược  liệu phục vụ cho việc chăm sóc sức  khỏe cộng đồng tương đối cao. Trước  tình trạng cạn kiệt nguồn Hoàng liên  chân gà ở nước ta cùng với việc xác  định  được  những  vai  trò  phòng  và  chữa bệnh hết sức quan trọng của vị  thuốc này trong y dược học cổ truyền  và y dược học hiện đại, cần phải có  những hướng nghiên cứu mới về cây  Hoàng liên chân gà nhằm phát triển  nguồn dược liệu và tiềm năng chữa  bệnh từ dược liệu quý này.

(7) Để bảo tồn các cây thuốc quý nói  chung, Hoàng liên chân gà nói riêng,  cách tốt nhất là hình thành nên chuỗi  giá trị cho chúng để bảo tồn và phát  triển bền vững trong thực tiễn cuộc  sống. Một số hoạt động nghiên cứu  cơ bản trong chuỗi giá trị như sau:  nghiên cứu quy trình kỹ thuật nhân  giống,  sản  xuất  giống  Hoàng  liên  chân  gà;  nghiên  cứu  quy  trình  kỹ  thuật  trồng  và  xây  dựng  mô  hình  trồng  Hoàng  liên  chân  gà;  sơ  chế,  chế biến tại vùng nguyên liệu để tạo  dược liệu Hoàng liên chân gà; nghiên  cứu  đánh  giá  các  thành  phần  hóa  học, tác dụng dược lý của dược liệu  trồng được so với dược liệu thu hái tự  nhiên và dược liệu nhập khẩu; nghiên  cứu bào chế sản phẩm bảo vệ sức  khỏe có sử dụng Hoàng liên chân gà  và các dược liệu khác đảm bảo được  tính an toàn, hiệu quả, đủ điều kiện  đưa ra thị trường.

(8) Nói  cách  khác,  nghiên  cứu  xây  dựng  cơ  chế  bảo  tồn  giống,  cơ  sở  sản xuất giống, hình thành các vùng  chuyên  canh  trồng  nguyên  liệu,  cơ  sở chế biến tại vùng nguyên liệu, tạo  ra những sản phẩm được bào chế từ  Hoàng liên chân gà là việc làm thiết  thực và cần thiết để bảo tồn nguồn  gen, tạo dược liệu quý cho y học cổ  truyền Việt Nam, góp phần chăm sóc  sức khỏe cộng đồng.

(Nguồn: “Hoàng liên chân gà – dược liệu quý đa tác dụng”, Phùng Tuấn Giang, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 12, năm 2018)

Thuốc carbetocin có ưu điểm gì so với thuốc oxytoxyn đã có trước đó?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

HOÀNG LIÊN CHÂN GÀ – DƯỢC LIỆU QUÝ ĐA TÁC DỤNG

(1) Hoàng liên chân gà ( Coptis  chinensis  Franch) là cây  thân thảo, sống lâu năm,  ưa sống  ở vùng núi cao  1.000-2.500 m, mưa nhiều,  ẩm ướt.  Hiện  nay,  loài  dược  liệu  này  được  trồng nhiều tại Trung Quốc, chủ yếu  ở các tỉnh Tứ Xuyên, Vân Nam, Hồ  Bắc,  Thiểm  Tây,  Hồ  Nam,  Giang  Tây, Triết Giang, Sơn Tây. Tại Việt  Nam,  Hoàng  liên  chân  gà  phân  bố  chủ yếu ở huyện Sa Pa (Lào Cai) và  huyện Quản Bạ (Hà Giang). Hoàng  liên chân gà thuộc diện quý hiếm, đã  được đưa vào Sách đỏ của Liên minh  bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN)  năm 1980, Sách đỏ  Ấn Độ 1980 và  Sách đỏ Việt Nam năm 1996.  

(2) Trong y học cổ truyền, Hoàng liên  chân  gà  có  vị  đắng,  tính  hàn.  Quy  kinh vào tâm, can, đởm, tiểu trường.  Có  tác  dụng  thanh  nhiệt  táo  thấp,  chủ trị các bệnh vị tràng thấp nhiệt  dẫn đến chứng lỵ, tiêu chảy; thanh  tâm  trừ  phiền:  tâm  hỏa  thịnh  gây  phiền muộn, mất ngủ, miệng lưỡi lở  loét; giải nhiệt độc ung nhọt, sốt cao,  phiền táo, chóng mặt, nói nhảm, mê  cuồng, lưỡi đỏ, mạch sác; thanh can  sáng mắt, điều trị các bệnh do can  hỏa gây đau mắt, đỏ mắt, chảy nước  mắt; giải độc ba đậu, khinh phấn.

(3) Ngày nay, dược liệu này đã được  nhiều  nhà  khoa  học  trên  thế  giới  nghiên cứu về thành phần hóa học  và tác dụng dược lý.

Thành  phần  hóa  học:  thân,  rễ  Hoàng  liên  chân  gà  có  chứa  nhiều  alcaloid  (5-8%),  với  các  thành  phần  chính  là  berberin,  palmatin,  jatrorrhizin,  coptisin,  epiberberin,  columbamin,  worenin,  magnoflorin...  Các thành phần alcaloid của Hoàng  liên  chân  gà  được  tìm  thấy  trong  hầu  hết  các  bộ  phận  của  cây,  tuy  nhiên  tỷ  lệ  alcaloid  trong  các  bộ  phận của cây thay đổi theo các giai  đoạn sinh trưởng và mùa. Vào tháng  9-10, ở thân và rễ nhỏ có hàm lượng  berberin cao; ở lá già trước khi rụng  (tháng 7-10) hàm lượng alcaloid cũng  thường cao; ở hoa có khoảng 0,56%  và hạt chứa 0,23% berberin. Ngoài  ra,  trong  thân,  rễ  của  Hoàng  liên  chân gà còn có tinh bột, acid hữu cơ  như acid ferulic... Trong số các thành  phần  hóa  học  nêu  trên,  berberin  được y học quan tâm nhiều nhất, tiếp  đến là palmatin.

Tác  dụng  dược  lý:  các  kết  quả  nghiên  cứu  cho  thấy,  Hoàng  liên  chân gà có nhiều tác dụng dược lý  khác nhau:

- Kháng khuẩn, kháng virus, kháng  nấm: nhóm nghiên cứu của Hàn Quốc  do Bae EA (1998) đứng đầu đã đánh  giá tác dụng của Hoàng liên chân gà  trên vi khuẩn  Helicobacter pylori , kết  quả  cho  thấy,  nước  sắc  từ  loài  cây  này có tác dụng làm giảm 16% hoạt  tính men urease và ức chế mạnh sự  phát triển của vi khuẩn  Helicobacter  pylori .  Các  nghiên  cứu  khác  cũng  đã chứng minh nước sắc Hoàng liên  chân  gà  và  hoạt  chất  berberin  có  phổ  kháng  khuẩn  rộng  đối  với  một  số chủng gram (+) và gram (-). Nước  sắc  thể  hiện  tác  dụng  ức  chế  một  số  vi  khuẩn  tùy  theo  độ  pha  loãng  khác nhau như:  Shigella shigac ,  Sh.  dysenteriae ,  Bacillus  tuberculosis ,  Bacillus  cholera ,  Staphylococcus  aureus ,  Bacillus  paratyphi ,  Bacillus  coli ,  Bacillus proteus ,  Streptococcus  hemolyticus ,  Vitrio cholera ,  Baccillus  subtilis ...  Cơ  chế  tác  dụng  kháng  khuẩn được giải thích là do berberin  ức chế tổng hợp ARN, ADN và protein  đối  với  vi  khuẩn.  Ngoài  ra,  Hoàng  liên chân gà còn có tác dụng kháng  nấm  và  virus.  Kết  quả  nghiên  cứu  cho thấy, nước sắc Hoàng liên chân  gà với nồng độ 50% khi thí nghiệm  trên phôi gà có tác dụng ức chế sự  phát triển của virus cúm chủng PR8,  56S8, P.M.

- Giảm hội chứng ruột kích thích  và điều trị viêm đường tiêu hóa: năm  2011,  Yungwui  Tjong  và  cộng  sự  (Hồng Kông, Trung Quốc) đã nghiên  cứu chiết xuất rễ Hoàng liên chân gà  và nhận thấy chúng có tác dụng giảm  những  cơn  đau  nội  tạng  trên  động  vật thực nghiệm, cơ chế có thể là do  làm  giảm  hormon  cholecystokinin  và serotonin - là những chất làm co  cơ  trơn  dẫn  tới  tăng  nhu  động  đại  tràng.  Cũng  trong  năm  này,  nhóm  nghiên  cứu  của  Qian  Zhang  và  cộng sự (Trung Quốc) đã cho thấy  tác  dụng  điều  trị  viêm  đường  tiêu  hóa của dược liệu Hoàng liên chân  gà. Theo đó, dịch chiết nước Hoàng  liên chân gà với liều 300 mg/kg cân  nặng và berberin với liều 120 mg/kg  cân nặng đã có tác dụng làm giảm  tổn thương đường tiêu hóa gây ra bởi  lip oposaccharose  theo  cơ  chế  làm  tăng hoạt động của SOD và GSH-Px, ức chế hoạt động của TLR4 và NF-jB  ở hồi tràng.

(4)  Đặc biệt, một số nghiên cứu được  công bố năm 2018 cho thấy, Hoàng  liên chân gà có tiềm năng để điều trị  bệnh  Alzheimer,  bảo  vệ  thần  kinh,  thận. Cụ thể, nhóm nghiên cứu của  Cao Thảo Nguyên và cộng sự (Việt  Nam)  đã  điều  tra  thành  phần  hóa  học  một  chiết  xuất  nước  của  dược  liệu  Hoàng  liên  chân  gà  và  xác  định  được  2  protoberberines  bậc  bốn (1, 2) và 1 amide ba vòng mới  (3), cùng với 5 hợp chất đã biết (4,  5, 6, 7, 8). Các hợp chất 4, 5 và 7  cho  thấy  sự  ức  chế  mạnh  đối  với  acetylcholinesterase  (AChE)  tương  ứng với các giá trị IC 50  là 1,1; 5,6 và  12,9 μ M. Hợp chất 2 và 4 cho thấy sự  ức chế butyrylcholinesterase (BChE)  tương ứng với giá trị IC 50  là 11,5 và  27,8 μ M. Qua nghiên cứu này, các tác  giả kết luận Hoàng liên chân gà là  dược liệu tiềm năng để điều trị bệnh  Alzheimer.  Tại  Trung  Quốc,  Yujuan  Li và cộng sự đã nghiên cứu tác dụng  bảo vệ thần kinh của polysaccharide  Hoàng liên chân gà trên mô hình giun  tròn  ( Caenorhabditis  elegans )  biến  đổi gen bị bệnh Alzheimer được gây  độc bằng amyloid-beta (A β ). Những  dữ liệu nghiên cứu chứng minh rằng  polysaccharide Hoàng liên chân gà  có thể làm giảm độc tính do A β  gây  ra bằng cách trì hoãn sự lão hóa, làm  giảm tốc độ tê liệt, ức chế sự lắng  đọng của A β , và tăng mức biểu hiện  của gen HSP trong giun tròn biến đổi  gen. Bên cạnh đó, Ying-Ying Wang và  cộng sự (Trung Quốc) đã chứng minh  rằng berberine (thành phần hoạt chất  chính của Hoàng liên chân gà) có thể  bảo  vệ  chức  năng  của  podocytes  thông qua ức chế chuyển TGF- β 1 từ  các tế bào Mesangial cầu thận sang  podocyte. Đây là một trong những cơ  chế tiềm năng của tác dụng bảo vệ  đối với bệnh thận do tiểu đường.  

(5) Không chỉ dừng lại ở đó, Hoàng  liên chân gà còn được các công trình  nghiên cứu khoa học gần đây chứng  minh là dược liệu tiềm năng để điều trị  các bệnh về sa sút trí tuệ, tiểu đường,  phòng ngừa xơ vữa động mạch, lợi  mật, chống ung thư, hạ huyết áp, an  thần... Những tác dụng này đã được  Đỗ Huy Bích và cộng sự ghi chép lại  trong bộ sách  Cây thuốc và động vật  làm thuốc ở Việt Nam  do Nhà xuất  bản Khoa học và Kỹ thuật phát hành.

(6) Việt Nam là một quốc gia sở hữu  nguồn tài nguyên cây thuốc và tri thức  sử  dụng  cây  thuốc  vô  cùng  phong  phú, đa dạng. Nhu cầu sử dụng dược  liệu phục vụ cho việc chăm sóc sức  khỏe cộng đồng tương đối cao. Trước  tình trạng cạn kiệt nguồn Hoàng liên  chân gà ở nước ta cùng với việc xác  định  được  những  vai  trò  phòng  và  chữa bệnh hết sức quan trọng của vị  thuốc này trong y dược học cổ truyền  và y dược học hiện đại, cần phải có  những hướng nghiên cứu mới về cây  Hoàng liên chân gà nhằm phát triển  nguồn dược liệu và tiềm năng chữa  bệnh từ dược liệu quý này.

(7) Để bảo tồn các cây thuốc quý nói  chung, Hoàng liên chân gà nói riêng,  cách tốt nhất là hình thành nên chuỗi  giá trị cho chúng để bảo tồn và phát  triển bền vững trong thực tiễn cuộc  sống. Một số hoạt động nghiên cứu  cơ bản trong chuỗi giá trị như sau:  nghiên cứu quy trình kỹ thuật nhân  giống,  sản  xuất  giống  Hoàng  liên  chân  gà;  nghiên  cứu  quy  trình  kỹ  thuật  trồng  và  xây  dựng  mô  hình  trồng  Hoàng  liên  chân  gà;  sơ  chế,  chế biến tại vùng nguyên liệu để tạo  dược liệu Hoàng liên chân gà; nghiên  cứu  đánh  giá  các  thành  phần  hóa  học, tác dụng dược lý của dược liệu  trồng được so với dược liệu thu hái tự  nhiên và dược liệu nhập khẩu; nghiên  cứu bào chế sản phẩm bảo vệ sức  khỏe có sử dụng Hoàng liên chân gà  và các dược liệu khác đảm bảo được  tính an toàn, hiệu quả, đủ điều kiện  đưa ra thị trường.

(8) Nói  cách  khác,  nghiên  cứu  xây  dựng  cơ  chế  bảo  tồn  giống,  cơ  sở  sản xuất giống, hình thành các vùng  chuyên  canh  trồng  nguyên  liệu,  cơ  sở chế biến tại vùng nguyên liệu, tạo  ra những sản phẩm được bào chế từ  Hoàng liên chân gà là việc làm thiết  thực và cần thiết để bảo tồn nguồn  gen, tạo dược liệu quý cho y học cổ  truyền Việt Nam, góp phần chăm sóc  sức khỏe cộng đồng.

(Nguồn: “Hoàng liên chân gà – dược liệu quý đa tác dụng”, Phùng Tuấn Giang, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 12, năm 2018)

Nội dung chính của đoạn (7) là gì?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

HOÀNG LIÊN CHÂN GÀ – DƯỢC LIỆU QUÝ ĐA TÁC DỤNG

(1) Hoàng liên chân gà ( Coptis  chinensis  Franch) là cây  thân thảo, sống lâu năm,  ưa sống  ở vùng núi cao  1.000-2.500 m, mưa nhiều,  ẩm ướt.  Hiện  nay,  loài  dược  liệu  này  được  trồng nhiều tại Trung Quốc, chủ yếu  ở các tỉnh Tứ Xuyên, Vân Nam, Hồ  Bắc,  Thiểm  Tây,  Hồ  Nam,  Giang  Tây, Triết Giang, Sơn Tây. Tại Việt  Nam,  Hoàng  liên  chân  gà  phân  bố  chủ yếu ở huyện Sa Pa (Lào Cai) và  huyện Quản Bạ (Hà Giang). Hoàng  liên chân gà thuộc diện quý hiếm, đã  được đưa vào Sách đỏ của Liên minh  bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN)  năm 1980, Sách đỏ  Ấn Độ 1980 và  Sách đỏ Việt Nam năm 1996.  

(2) Trong y học cổ truyền, Hoàng liên  chân  gà  có  vị  đắng,  tính  hàn.  Quy  kinh vào tâm, can, đởm, tiểu trường.  Có  tác  dụng  thanh  nhiệt  táo  thấp,  chủ trị các bệnh vị tràng thấp nhiệt  dẫn đến chứng lỵ, tiêu chảy; thanh  tâm  trừ  phiền:  tâm  hỏa  thịnh  gây  phiền muộn, mất ngủ, miệng lưỡi lở  loét; giải nhiệt độc ung nhọt, sốt cao,  phiền táo, chóng mặt, nói nhảm, mê  cuồng, lưỡi đỏ, mạch sác; thanh can  sáng mắt, điều trị các bệnh do can  hỏa gây đau mắt, đỏ mắt, chảy nước  mắt; giải độc ba đậu, khinh phấn.

(3) Ngày nay, dược liệu này đã được  nhiều  nhà  khoa  học  trên  thế  giới  nghiên cứu về thành phần hóa học  và tác dụng dược lý.

Thành  phần  hóa  học:  thân,  rễ  Hoàng  liên  chân  gà  có  chứa  nhiều  alcaloid  (5-8%),  với  các  thành  phần  chính  là  berberin,  palmatin,  jatrorrhizin,  coptisin,  epiberberin,  columbamin,  worenin,  magnoflorin...  Các thành phần alcaloid của Hoàng  liên  chân  gà  được  tìm  thấy  trong  hầu  hết  các  bộ  phận  của  cây,  tuy  nhiên  tỷ  lệ  alcaloid  trong  các  bộ  phận của cây thay đổi theo các giai  đoạn sinh trưởng và mùa. Vào tháng  9-10, ở thân và rễ nhỏ có hàm lượng  berberin cao; ở lá già trước khi rụng  (tháng 7-10) hàm lượng alcaloid cũng  thường cao; ở hoa có khoảng 0,56%  và hạt chứa 0,23% berberin. Ngoài  ra,  trong  thân,  rễ  của  Hoàng  liên  chân gà còn có tinh bột, acid hữu cơ  như acid ferulic... Trong số các thành  phần  hóa  học  nêu  trên,  berberin  được y học quan tâm nhiều nhất, tiếp  đến là palmatin.

Tác  dụng  dược  lý:  các  kết  quả  nghiên  cứu  cho  thấy,  Hoàng  liên  chân gà có nhiều tác dụng dược lý  khác nhau:

- Kháng khuẩn, kháng virus, kháng  nấm: nhóm nghiên cứu của Hàn Quốc  do Bae EA (1998) đứng đầu đã đánh  giá tác dụng của Hoàng liên chân gà  trên vi khuẩn  Helicobacter pylori , kết  quả  cho  thấy,  nước  sắc  từ  loài  cây  này có tác dụng làm giảm 16% hoạt  tính men urease và ức chế mạnh sự  phát triển của vi khuẩn  Helicobacter  pylori .  Các  nghiên  cứu  khác  cũng  đã chứng minh nước sắc Hoàng liên  chân  gà  và  hoạt  chất  berberin  có  phổ  kháng  khuẩn  rộng  đối  với  một  số chủng gram (+) và gram (-). Nước  sắc  thể  hiện  tác  dụng  ức  chế  một  số  vi  khuẩn  tùy  theo  độ  pha  loãng  khác nhau như:  Shigella shigac ,  Sh.  dysenteriae ,  Bacillus  tuberculosis ,  Bacillus  cholera ,  Staphylococcus  aureus ,  Bacillus  paratyphi ,  Bacillus  coli ,  Bacillus proteus ,  Streptococcus  hemolyticus ,  Vitrio cholera ,  Baccillus  subtilis ...  Cơ  chế  tác  dụng  kháng  khuẩn được giải thích là do berberin  ức chế tổng hợp ARN, ADN và protein  đối  với  vi  khuẩn.  Ngoài  ra,  Hoàng  liên chân gà còn có tác dụng kháng  nấm  và  virus.  Kết  quả  nghiên  cứu  cho thấy, nước sắc Hoàng liên chân  gà với nồng độ 50% khi thí nghiệm  trên phôi gà có tác dụng ức chế sự  phát triển của virus cúm chủng PR8,  56S8, P.M.

- Giảm hội chứng ruột kích thích  và điều trị viêm đường tiêu hóa: năm  2011,  Yungwui  Tjong  và  cộng  sự  (Hồng Kông, Trung Quốc) đã nghiên  cứu chiết xuất rễ Hoàng liên chân gà  và nhận thấy chúng có tác dụng giảm  những  cơn  đau  nội  tạng  trên  động  vật thực nghiệm, cơ chế có thể là do  làm  giảm  hormon  cholecystokinin  và serotonin - là những chất làm co  cơ  trơn  dẫn  tới  tăng  nhu  động  đại  tràng.  Cũng  trong  năm  này,  nhóm  nghiên  cứu  của  Qian  Zhang  và  cộng sự (Trung Quốc) đã cho thấy  tác  dụng  điều  trị  viêm  đường  tiêu  hóa của dược liệu Hoàng liên chân  gà. Theo đó, dịch chiết nước Hoàng  liên chân gà với liều 300 mg/kg cân  nặng và berberin với liều 120 mg/kg  cân nặng đã có tác dụng làm giảm  tổn thương đường tiêu hóa gây ra bởi  lip oposaccharose  theo  cơ  chế  làm  tăng hoạt động của SOD và GSH-Px, ức chế hoạt động của TLR4 và NF-jB  ở hồi tràng.

(4)  Đặc biệt, một số nghiên cứu được  công bố năm 2018 cho thấy, Hoàng  liên chân gà có tiềm năng để điều trị  bệnh  Alzheimer,  bảo  vệ  thần  kinh,  thận. Cụ thể, nhóm nghiên cứu của  Cao Thảo Nguyên và cộng sự (Việt  Nam)  đã  điều  tra  thành  phần  hóa  học  một  chiết  xuất  nước  của  dược  liệu  Hoàng  liên  chân  gà  và  xác  định  được  2  protoberberines  bậc  bốn (1, 2) và 1 amide ba vòng mới  (3), cùng với 5 hợp chất đã biết (4,  5, 6, 7, 8). Các hợp chất 4, 5 và 7  cho  thấy  sự  ức  chế  mạnh  đối  với  acetylcholinesterase  (AChE)  tương  ứng với các giá trị IC 50  là 1,1; 5,6 và  12,9 μ M. Hợp chất 2 và 4 cho thấy sự  ức chế butyrylcholinesterase (BChE)  tương ứng với giá trị IC 50  là 11,5 và  27,8 μ M. Qua nghiên cứu này, các tác  giả kết luận Hoàng liên chân gà là  dược liệu tiềm năng để điều trị bệnh  Alzheimer.  Tại  Trung  Quốc,  Yujuan  Li và cộng sự đã nghiên cứu tác dụng  bảo vệ thần kinh của polysaccharide  Hoàng liên chân gà trên mô hình giun  tròn  ( Caenorhabditis  elegans )  biến  đổi gen bị bệnh Alzheimer được gây  độc bằng amyloid-beta (A β ). Những  dữ liệu nghiên cứu chứng minh rằng  polysaccharide Hoàng liên chân gà  có thể làm giảm độc tính do A β  gây  ra bằng cách trì hoãn sự lão hóa, làm  giảm tốc độ tê liệt, ức chế sự lắng  đọng của A β , và tăng mức biểu hiện  của gen HSP trong giun tròn biến đổi  gen. Bên cạnh đó, Ying-Ying Wang và  cộng sự (Trung Quốc) đã chứng minh  rằng berberine (thành phần hoạt chất  chính của Hoàng liên chân gà) có thể  bảo  vệ  chức  năng  của  podocytes  thông qua ức chế chuyển TGF- β 1 từ  các tế bào Mesangial cầu thận sang  podocyte. Đây là một trong những cơ  chế tiềm năng của tác dụng bảo vệ  đối với bệnh thận do tiểu đường.  

(5) Không chỉ dừng lại ở đó, Hoàng  liên chân gà còn được các công trình  nghiên cứu khoa học gần đây chứng  minh là dược liệu tiềm năng để điều trị  các bệnh về sa sút trí tuệ, tiểu đường,  phòng ngừa xơ vữa động mạch, lợi  mật, chống ung thư, hạ huyết áp, an  thần... Những tác dụng này đã được  Đỗ Huy Bích và cộng sự ghi chép lại  trong bộ sách  Cây thuốc và động vật  làm thuốc ở Việt Nam  do Nhà xuất  bản Khoa học và Kỹ thuật phát hành.

(6) Việt Nam là một quốc gia sở hữu  nguồn tài nguyên cây thuốc và tri thức  sử  dụng  cây  thuốc  vô  cùng  phong  phú, đa dạng. Nhu cầu sử dụng dược  liệu phục vụ cho việc chăm sóc sức  khỏe cộng đồng tương đối cao. Trước  tình trạng cạn kiệt nguồn Hoàng liên  chân gà ở nước ta cùng với việc xác  định  được  những  vai  trò  phòng  và  chữa bệnh hết sức quan trọng của vị  thuốc này trong y dược học cổ truyền  và y dược học hiện đại, cần phải có  những hướng nghiên cứu mới về cây  Hoàng liên chân gà nhằm phát triển  nguồn dược liệu và tiềm năng chữa  bệnh từ dược liệu quý này.

(7) Để bảo tồn các cây thuốc quý nói  chung, Hoàng liên chân gà nói riêng,  cách tốt nhất là hình thành nên chuỗi  giá trị cho chúng để bảo tồn và phát  triển bền vững trong thực tiễn cuộc  sống. Một số hoạt động nghiên cứu  cơ bản trong chuỗi giá trị như sau:  nghiên cứu quy trình kỹ thuật nhân  giống,  sản  xuất  giống  Hoàng  liên  chân  gà;  nghiên  cứu  quy  trình  kỹ  thuật  trồng  và  xây  dựng  mô  hình  trồng  Hoàng  liên  chân  gà;  sơ  chế,  chế biến tại vùng nguyên liệu để tạo  dược liệu Hoàng liên chân gà; nghiên  cứu  đánh  giá  các  thành  phần  hóa  học, tác dụng dược lý của dược liệu  trồng được so với dược liệu thu hái tự  nhiên và dược liệu nhập khẩu; nghiên  cứu bào chế sản phẩm bảo vệ sức  khỏe có sử dụng Hoàng liên chân gà  và các dược liệu khác đảm bảo được  tính an toàn, hiệu quả, đủ điều kiện  đưa ra thị trường.

(8) Nói  cách  khác,  nghiên  cứu  xây  dựng  cơ  chế  bảo  tồn  giống,  cơ  sở  sản xuất giống, hình thành các vùng  chuyên  canh  trồng  nguyên  liệu,  cơ  sở chế biến tại vùng nguyên liệu, tạo  ra những sản phẩm được bào chế từ  Hoàng liên chân gà là việc làm thiết  thực và cần thiết để bảo tồn nguồn  gen, tạo dược liệu quý cho y học cổ  truyền Việt Nam, góp phần chăm sóc  sức khỏe cộng đồng.

(Nguồn: “Hoàng liên chân gà – dược liệu quý đa tác dụng”, Phùng Tuấn Giang, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 12, năm 2018)

Qua nghiên cứu, nhóm nghiên cứu của  Cao Thảo Nguyên và cộng sự kết luận Hoàng liên chân gà là  dược liệu tiềm năng để điều trị bệnh gì?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

HOÀNG LIÊN CHÂN GÀ – DƯỢC LIỆU QUÝ ĐA TÁC DỤNG

(1) Hoàng liên chân gà ( Coptis  chinensis  Franch) là cây  thân thảo, sống lâu năm,  ưa sống  ở vùng núi cao  1.000-2.500 m, mưa nhiều,  ẩm ướt.  Hiện  nay,  loài  dược  liệu  này  được  trồng nhiều tại Trung Quốc, chủ yếu  ở các tỉnh Tứ Xuyên, Vân Nam, Hồ  Bắc,  Thiểm  Tây,  Hồ  Nam,  Giang  Tây, Triết Giang, Sơn Tây. Tại Việt  Nam,  Hoàng  liên  chân  gà  phân  bố  chủ yếu ở huyện Sa Pa (Lào Cai) và  huyện Quản Bạ (Hà Giang). Hoàng  liên chân gà thuộc diện quý hiếm, đã  được đưa vào Sách đỏ của Liên minh  bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN)  năm 1980, Sách đỏ  Ấn Độ 1980 và  Sách đỏ Việt Nam năm 1996.  

(2) Trong y học cổ truyền, Hoàng liên  chân  gà  có  vị  đắng,  tính  hàn.  Quy  kinh vào tâm, can, đởm, tiểu trường.  Có  tác  dụng  thanh  nhiệt  táo  thấp,  chủ trị các bệnh vị tràng thấp nhiệt  dẫn đến chứng lỵ, tiêu chảy; thanh  tâm  trừ  phiền:  tâm  hỏa  thịnh  gây  phiền muộn, mất ngủ, miệng lưỡi lở  loét; giải nhiệt độc ung nhọt, sốt cao,  phiền táo, chóng mặt, nói nhảm, mê  cuồng, lưỡi đỏ, mạch sác; thanh can  sáng mắt, điều trị các bệnh do can  hỏa gây đau mắt, đỏ mắt, chảy nước  mắt; giải độc ba đậu, khinh phấn.

(3) Ngày nay, dược liệu này đã được  nhiều  nhà  khoa  học  trên  thế  giới  nghiên cứu về thành phần hóa học  và tác dụng dược lý.

Thành  phần  hóa  học:  thân,  rễ  Hoàng  liên  chân  gà  có  chứa  nhiều  alcaloid  (5-8%),  với  các  thành  phần  chính  là  berberin,  palmatin,  jatrorrhizin,  coptisin,  epiberberin,  columbamin,  worenin,  magnoflorin...  Các thành phần alcaloid của Hoàng  liên  chân  gà  được  tìm  thấy  trong  hầu  hết  các  bộ  phận  của  cây,  tuy  nhiên  tỷ  lệ  alcaloid  trong  các  bộ  phận của cây thay đổi theo các giai  đoạn sinh trưởng và mùa. Vào tháng  9-10, ở thân và rễ nhỏ có hàm lượng  berberin cao; ở lá già trước khi rụng  (tháng 7-10) hàm lượng alcaloid cũng  thường cao; ở hoa có khoảng 0,56%  và hạt chứa 0,23% berberin. Ngoài  ra,  trong  thân,  rễ  của  Hoàng  liên  chân gà còn có tinh bột, acid hữu cơ  như acid ferulic... Trong số các thành  phần  hóa  học  nêu  trên,  berberin  được y học quan tâm nhiều nhất, tiếp  đến là palmatin.

Tác  dụng  dược  lý:  các  kết  quả  nghiên  cứu  cho  thấy,  Hoàng  liên  chân gà có nhiều tác dụng dược lý  khác nhau:

- Kháng khuẩn, kháng virus, kháng  nấm: nhóm nghiên cứu của Hàn Quốc  do Bae EA (1998) đứng đầu đã đánh  giá tác dụng của Hoàng liên chân gà  trên vi khuẩn  Helicobacter pylori , kết  quả  cho  thấy,  nước  sắc  từ  loài  cây  này có tác dụng làm giảm 16% hoạt  tính men urease và ức chế mạnh sự  phát triển của vi khuẩn  Helicobacter  pylori .  Các  nghiên  cứu  khác  cũng  đã chứng minh nước sắc Hoàng liên  chân  gà  và  hoạt  chất  berberin  có  phổ  kháng  khuẩn  rộng  đối  với  một  số chủng gram (+) và gram (-). Nước  sắc  thể  hiện  tác  dụng  ức  chế  một  số  vi  khuẩn  tùy  theo  độ  pha  loãng  khác nhau như:  Shigella shigac ,  Sh.  dysenteriae ,  Bacillus  tuberculosis ,  Bacillus  cholera ,  Staphylococcus  aureus ,  Bacillus  paratyphi ,  Bacillus  coli ,  Bacillus proteus ,  Streptococcus  hemolyticus ,  Vitrio cholera ,  Baccillus  subtilis ...  Cơ  chế  tác  dụng  kháng  khuẩn được giải thích là do berberin  ức chế tổng hợp ARN, ADN và protein  đối  với  vi  khuẩn.  Ngoài  ra,  Hoàng  liên chân gà còn có tác dụng kháng  nấm  và  virus.  Kết  quả  nghiên  cứu  cho thấy, nước sắc Hoàng liên chân  gà với nồng độ 50% khi thí nghiệm  trên phôi gà có tác dụng ức chế sự  phát triển của virus cúm chủng PR8,  56S8, P.M.

- Giảm hội chứng ruột kích thích  và điều trị viêm đường tiêu hóa: năm  2011,  Yungwui  Tjong  và  cộng  sự  (Hồng Kông, Trung Quốc) đã nghiên  cứu chiết xuất rễ Hoàng liên chân gà  và nhận thấy chúng có tác dụng giảm  những  cơn  đau  nội  tạng  trên  động  vật thực nghiệm, cơ chế có thể là do  làm  giảm  hormon  cholecystokinin  và serotonin - là những chất làm co  cơ  trơn  dẫn  tới  tăng  nhu  động  đại  tràng.  Cũng  trong  năm  này,  nhóm  nghiên  cứu  của  Qian  Zhang  và  cộng sự (Trung Quốc) đã cho thấy  tác  dụng  điều  trị  viêm  đường  tiêu  hóa của dược liệu Hoàng liên chân  gà. Theo đó, dịch chiết nước Hoàng  liên chân gà với liều 300 mg/kg cân  nặng và berberin với liều 120 mg/kg  cân nặng đã có tác dụng làm giảm  tổn thương đường tiêu hóa gây ra bởi  lip oposaccharose  theo  cơ  chế  làm  tăng hoạt động của SOD và GSH-Px, ức chế hoạt động của TLR4 và NF-jB  ở hồi tràng.

(4)  Đặc biệt, một số nghiên cứu được  công bố năm 2018 cho thấy, Hoàng  liên chân gà có tiềm năng để điều trị  bệnh  Alzheimer,  bảo  vệ  thần  kinh,  thận. Cụ thể, nhóm nghiên cứu của  Cao Thảo Nguyên và cộng sự (Việt  Nam)  đã  điều  tra  thành  phần  hóa  học  một  chiết  xuất  nước  của  dược  liệu  Hoàng  liên  chân  gà  và  xác  định  được  2  protoberberines  bậc  bốn (1, 2) và 1 amide ba vòng mới  (3), cùng với 5 hợp chất đã biết (4,  5, 6, 7, 8). Các hợp chất 4, 5 và 7  cho  thấy  sự  ức  chế  mạnh  đối  với  acetylcholinesterase  (AChE)  tương  ứng với các giá trị IC 50  là 1,1; 5,6 và  12,9 μ M. Hợp chất 2 và 4 cho thấy sự  ức chế butyrylcholinesterase (BChE)  tương ứng với giá trị IC 50  là 11,5 và  27,8 μ M. Qua nghiên cứu này, các tác  giả kết luận Hoàng liên chân gà là  dược liệu tiềm năng để điều trị bệnh  Alzheimer.  Tại  Trung  Quốc,  Yujuan  Li và cộng sự đã nghiên cứu tác dụng  bảo vệ thần kinh của polysaccharide  Hoàng liên chân gà trên mô hình giun  tròn  ( Caenorhabditis  elegans )  biến  đổi gen bị bệnh Alzheimer được gây  độc bằng amyloid-beta (A β ). Những  dữ liệu nghiên cứu chứng minh rằng  polysaccharide Hoàng liên chân gà  có thể làm giảm độc tính do A β  gây  ra bằng cách trì hoãn sự lão hóa, làm  giảm tốc độ tê liệt, ức chế sự lắng  đọng của A β , và tăng mức biểu hiện  của gen HSP trong giun tròn biến đổi  gen. Bên cạnh đó, Ying-Ying Wang và  cộng sự (Trung Quốc) đã chứng minh  rằng berberine (thành phần hoạt chất  chính của Hoàng liên chân gà) có thể  bảo  vệ  chức  năng  của  podocytes  thông qua ức chế chuyển TGF- β 1 từ  các tế bào Mesangial cầu thận sang  podocyte. Đây là một trong những cơ  chế tiềm năng của tác dụng bảo vệ  đối với bệnh thận do tiểu đường.  

(5) Không chỉ dừng lại ở đó, Hoàng  liên chân gà còn được các công trình  nghiên cứu khoa học gần đây chứng  minh là dược liệu tiềm năng để điều trị  các bệnh về sa sút trí tuệ, tiểu đường,  phòng ngừa xơ vữa động mạch, lợi  mật, chống ung thư, hạ huyết áp, an  thần... Những tác dụng này đã được  Đỗ Huy Bích và cộng sự ghi chép lại  trong bộ sách  Cây thuốc và động vật  làm thuốc ở Việt Nam  do Nhà xuất  bản Khoa học và Kỹ thuật phát hành.

(6) Việt Nam là một quốc gia sở hữu  nguồn tài nguyên cây thuốc và tri thức  sử  dụng  cây  thuốc  vô  cùng  phong  phú, đa dạng. Nhu cầu sử dụng dược  liệu phục vụ cho việc chăm sóc sức  khỏe cộng đồng tương đối cao. Trước  tình trạng cạn kiệt nguồn Hoàng liên  chân gà ở nước ta cùng với việc xác  định  được  những  vai  trò  phòng  và  chữa bệnh hết sức quan trọng của vị  thuốc này trong y dược học cổ truyền  và y dược học hiện đại, cần phải có  những hướng nghiên cứu mới về cây  Hoàng liên chân gà nhằm phát triển  nguồn dược liệu và tiềm năng chữa  bệnh từ dược liệu quý này.

(7) Để bảo tồn các cây thuốc quý nói  chung, Hoàng liên chân gà nói riêng,  cách tốt nhất là hình thành nên chuỗi  giá trị cho chúng để bảo tồn và phát  triển bền vững trong thực tiễn cuộc  sống. Một số hoạt động nghiên cứu  cơ bản trong chuỗi giá trị như sau:  nghiên cứu quy trình kỹ thuật nhân  giống,  sản  xuất  giống  Hoàng  liên  chân  gà;  nghiên  cứu  quy  trình  kỹ  thuật  trồng  và  xây  dựng  mô  hình  trồng  Hoàng  liên  chân  gà;  sơ  chế,  chế biến tại vùng nguyên liệu để tạo  dược liệu Hoàng liên chân gà; nghiên  cứu  đánh  giá  các  thành  phần  hóa  học, tác dụng dược lý của dược liệu  trồng được so với dược liệu thu hái tự  nhiên và dược liệu nhập khẩu; nghiên  cứu bào chế sản phẩm bảo vệ sức  khỏe có sử dụng Hoàng liên chân gà  và các dược liệu khác đảm bảo được  tính an toàn, hiệu quả, đủ điều kiện  đưa ra thị trường.

(8) Nói  cách  khác,  nghiên  cứu  xây  dựng  cơ  chế  bảo  tồn  giống,  cơ  sở  sản xuất giống, hình thành các vùng  chuyên  canh  trồng  nguyên  liệu,  cơ  sở chế biến tại vùng nguyên liệu, tạo  ra những sản phẩm được bào chế từ  Hoàng liên chân gà là việc làm thiết  thực và cần thiết để bảo tồn nguồn  gen, tạo dược liệu quý cho y học cổ  truyền Việt Nam, góp phần chăm sóc  sức khỏe cộng đồng.

(Nguồn: “Hoàng liên chân gà – dược liệu quý đa tác dụng”, Phùng Tuấn Giang, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 12, năm 2018)

Hoàng liên chân gà không có tác dụng dược lí nào dưới đây?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

HOÀNG LIÊN CHÂN GÀ – DƯỢC LIỆU QUÝ ĐA TÁC DỤNG

(1) Hoàng liên chân gà ( Coptis  chinensis  Franch) là cây  thân thảo, sống lâu năm,  ưa sống  ở vùng núi cao  1.000-2.500 m, mưa nhiều,  ẩm ướt.  Hiện  nay,  loài  dược  liệu  này  được  trồng nhiều tại Trung Quốc, chủ yếu  ở các tỉnh Tứ Xuyên, Vân Nam, Hồ  Bắc,  Thiểm  Tây,  Hồ  Nam,  Giang  Tây, Triết Giang, Sơn Tây. Tại Việt  Nam,  Hoàng  liên  chân  gà  phân  bố  chủ yếu ở huyện Sa Pa (Lào Cai) và  huyện Quản Bạ (Hà Giang). Hoàng  liên chân gà thuộc diện quý hiếm, đã  được đưa vào Sách đỏ của Liên minh  bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN)  năm 1980, Sách đỏ  Ấn Độ 1980 và  Sách đỏ Việt Nam năm 1996.  

(2) Trong y học cổ truyền, Hoàng liên  chân  gà  có  vị  đắng,  tính  hàn.  Quy  kinh vào tâm, can, đởm, tiểu trường.  Có  tác  dụng  thanh  nhiệt  táo  thấp,  chủ trị các bệnh vị tràng thấp nhiệt  dẫn đến chứng lỵ, tiêu chảy; thanh  tâm  trừ  phiền:  tâm  hỏa  thịnh  gây  phiền muộn, mất ngủ, miệng lưỡi lở  loét; giải nhiệt độc ung nhọt, sốt cao,  phiền táo, chóng mặt, nói nhảm, mê  cuồng, lưỡi đỏ, mạch sác; thanh can  sáng mắt, điều trị các bệnh do can  hỏa gây đau mắt, đỏ mắt, chảy nước  mắt; giải độc ba đậu, khinh phấn.

(3) Ngày nay, dược liệu này đã được  nhiều  nhà  khoa  học  trên  thế  giới  nghiên cứu về thành phần hóa học  và tác dụng dược lý.

Thành  phần  hóa  học:  thân,  rễ  Hoàng  liên  chân  gà  có  chứa  nhiều  alcaloid  (5-8%),  với  các  thành  phần  chính  là  berberin,  palmatin,  jatrorrhizin,  coptisin,  epiberberin,  columbamin,  worenin,  magnoflorin...  Các thành phần alcaloid của Hoàng  liên  chân  gà  được  tìm  thấy  trong  hầu  hết  các  bộ  phận  của  cây,  tuy  nhiên  tỷ  lệ  alcaloid  trong  các  bộ  phận của cây thay đổi theo các giai  đoạn sinh trưởng và mùa. Vào tháng  9-10, ở thân và rễ nhỏ có hàm lượng  berberin cao; ở lá già trước khi rụng  (tháng 7-10) hàm lượng alcaloid cũng  thường cao; ở hoa có khoảng 0,56%  và hạt chứa 0,23% berberin. Ngoài  ra,  trong  thân,  rễ  của  Hoàng  liên  chân gà còn có tinh bột, acid hữu cơ  như acid ferulic... Trong số các thành  phần  hóa  học  nêu  trên,  berberin  được y học quan tâm nhiều nhất, tiếp  đến là palmatin.

Tác  dụng  dược  lý:  các  kết  quả  nghiên  cứu  cho  thấy,  Hoàng  liên  chân gà có nhiều tác dụng dược lý  khác nhau:

- Kháng khuẩn, kháng virus, kháng  nấm: nhóm nghiên cứu của Hàn Quốc  do Bae EA (1998) đứng đầu đã đánh  giá tác dụng của Hoàng liên chân gà  trên vi khuẩn  Helicobacter pylori , kết  quả  cho  thấy,  nước  sắc  từ  loài  cây  này có tác dụng làm giảm 16% hoạt  tính men urease và ức chế mạnh sự  phát triển của vi khuẩn  Helicobacter  pylori .  Các  nghiên  cứu  khác  cũng  đã chứng minh nước sắc Hoàng liên  chân  gà  và  hoạt  chất  berberin  có  phổ  kháng  khuẩn  rộng  đối  với  một  số chủng gram (+) và gram (-). Nước  sắc  thể  hiện  tác  dụng  ức  chế  một  số  vi  khuẩn  tùy  theo  độ  pha  loãng  khác nhau như:  Shigella shigac ,  Sh.  dysenteriae ,  Bacillus  tuberculosis ,  Bacillus  cholera ,  Staphylococcus  aureus ,  Bacillus  paratyphi ,  Bacillus  coli ,  Bacillus proteus ,  Streptococcus  hemolyticus ,  Vitrio cholera ,  Baccillus  subtilis ...  Cơ  chế  tác  dụng  kháng  khuẩn được giải thích là do berberin  ức chế tổng hợp ARN, ADN và protein  đối  với  vi  khuẩn.  Ngoài  ra,  Hoàng  liên chân gà còn có tác dụng kháng  nấm  và  virus.  Kết  quả  nghiên  cứu  cho thấy, nước sắc Hoàng liên chân  gà với nồng độ 50% khi thí nghiệm  trên phôi gà có tác dụng ức chế sự  phát triển của virus cúm chủng PR8,  56S8, P.M.

- Giảm hội chứng ruột kích thích  và điều trị viêm đường tiêu hóa: năm  2011,  Yungwui  Tjong  và  cộng  sự  (Hồng Kông, Trung Quốc) đã nghiên  cứu chiết xuất rễ Hoàng liên chân gà  và nhận thấy chúng có tác dụng giảm  những  cơn  đau  nội  tạng  trên  động  vật thực nghiệm, cơ chế có thể là do  làm  giảm  hormon  cholecystokinin  và serotonin - là những chất làm co  cơ  trơn  dẫn  tới  tăng  nhu  động  đại  tràng.  Cũng  trong  năm  này,  nhóm  nghiên  cứu  của  Qian  Zhang  và  cộng sự (Trung Quốc) đã cho thấy  tác  dụng  điều  trị  viêm  đường  tiêu  hóa của dược liệu Hoàng liên chân  gà. Theo đó, dịch chiết nước Hoàng  liên chân gà với liều 300 mg/kg cân  nặng và berberin với liều 120 mg/kg  cân nặng đã có tác dụng làm giảm  tổn thương đường tiêu hóa gây ra bởi  lip oposaccharose  theo  cơ  chế  làm  tăng hoạt động của SOD và GSH-Px, ức chế hoạt động của TLR4 và NF-jB  ở hồi tràng.

(4)  Đặc biệt, một số nghiên cứu được  công bố năm 2018 cho thấy, Hoàng  liên chân gà có tiềm năng để điều trị  bệnh  Alzheimer,  bảo  vệ  thần  kinh,  thận. Cụ thể, nhóm nghiên cứu của  Cao Thảo Nguyên và cộng sự (Việt  Nam)  đã  điều  tra  thành  phần  hóa  học  một  chiết  xuất  nước  của  dược  liệu  Hoàng  liên  chân  gà  và  xác  định  được  2  protoberberines  bậc  bốn (1, 2) và 1 amide ba vòng mới  (3), cùng với 5 hợp chất đã biết (4,  5, 6, 7, 8). Các hợp chất 4, 5 và 7  cho  thấy  sự  ức  chế  mạnh  đối  với  acetylcholinesterase  (AChE)  tương  ứng với các giá trị IC 50  là 1,1; 5,6 và  12,9 μ M. Hợp chất 2 và 4 cho thấy sự  ức chế butyrylcholinesterase (BChE)  tương ứng với giá trị IC 50  là 11,5 và  27,8 μ M. Qua nghiên cứu này, các tác  giả kết luận Hoàng liên chân gà là  dược liệu tiềm năng để điều trị bệnh  Alzheimer.  Tại  Trung  Quốc,  Yujuan  Li và cộng sự đã nghiên cứu tác dụng  bảo vệ thần kinh của polysaccharide  Hoàng liên chân gà trên mô hình giun  tròn  ( Caenorhabditis  elegans )  biến  đổi gen bị bệnh Alzheimer được gây  độc bằng amyloid-beta (A β ). Những  dữ liệu nghiên cứu chứng minh rằng  polysaccharide Hoàng liên chân gà  có thể làm giảm độc tính do A β  gây  ra bằng cách trì hoãn sự lão hóa, làm  giảm tốc độ tê liệt, ức chế sự lắng  đọng của A β , và tăng mức biểu hiện  của gen HSP trong giun tròn biến đổi  gen. Bên cạnh đó, Ying-Ying Wang và  cộng sự (Trung Quốc) đã chứng minh  rằng berberine (thành phần hoạt chất  chính của Hoàng liên chân gà) có thể  bảo  vệ  chức  năng  của  podocytes  thông qua ức chế chuyển TGF- β 1 từ  các tế bào Mesangial cầu thận sang  podocyte. Đây là một trong những cơ  chế tiềm năng của tác dụng bảo vệ  đối với bệnh thận do tiểu đường.  

(5) Không chỉ dừng lại ở đó, Hoàng  liên chân gà còn được các công trình  nghiên cứu khoa học gần đây chứng  minh là dược liệu tiềm năng để điều trị  các bệnh về sa sút trí tuệ, tiểu đường,  phòng ngừa xơ vữa động mạch, lợi  mật, chống ung thư, hạ huyết áp, an  thần... Những tác dụng này đã được  Đỗ Huy Bích và cộng sự ghi chép lại  trong bộ sách  Cây thuốc và động vật  làm thuốc ở Việt Nam  do Nhà xuất  bản Khoa học và Kỹ thuật phát hành.

(6) Việt Nam là một quốc gia sở hữu  nguồn tài nguyên cây thuốc và tri thức  sử  dụng  cây  thuốc  vô  cùng  phong  phú, đa dạng. Nhu cầu sử dụng dược  liệu phục vụ cho việc chăm sóc sức  khỏe cộng đồng tương đối cao. Trước  tình trạng cạn kiệt nguồn Hoàng liên  chân gà ở nước ta cùng với việc xác  định  được  những  vai  trò  phòng  và  chữa bệnh hết sức quan trọng của vị  thuốc này trong y dược học cổ truyền  và y dược học hiện đại, cần phải có  những hướng nghiên cứu mới về cây  Hoàng liên chân gà nhằm phát triển  nguồn dược liệu và tiềm năng chữa  bệnh từ dược liệu quý này.

(7) Để bảo tồn các cây thuốc quý nói  chung, Hoàng liên chân gà nói riêng,  cách tốt nhất là hình thành nên chuỗi  giá trị cho chúng để bảo tồn và phát  triển bền vững trong thực tiễn cuộc  sống. Một số hoạt động nghiên cứu  cơ bản trong chuỗi giá trị như sau:  nghiên cứu quy trình kỹ thuật nhân  giống,  sản  xuất  giống  Hoàng  liên  chân  gà;  nghiên  cứu  quy  trình  kỹ  thuật  trồng  và  xây  dựng  mô  hình  trồng  Hoàng  liên  chân  gà;  sơ  chế,  chế biến tại vùng nguyên liệu để tạo  dược liệu Hoàng liên chân gà; nghiên  cứu  đánh  giá  các  thành  phần  hóa  học, tác dụng dược lý của dược liệu  trồng được so với dược liệu thu hái tự  nhiên và dược liệu nhập khẩu; nghiên  cứu bào chế sản phẩm bảo vệ sức  khỏe có sử dụng Hoàng liên chân gà  và các dược liệu khác đảm bảo được  tính an toàn, hiệu quả, đủ điều kiện  đưa ra thị trường.

(8) Nói  cách  khác,  nghiên  cứu  xây  dựng  cơ  chế  bảo  tồn  giống,  cơ  sở  sản xuất giống, hình thành các vùng  chuyên  canh  trồng  nguyên  liệu,  cơ  sở chế biến tại vùng nguyên liệu, tạo  ra những sản phẩm được bào chế từ  Hoàng liên chân gà là việc làm thiết  thực và cần thiết để bảo tồn nguồn  gen, tạo dược liệu quý cho y học cổ  truyền Việt Nam, góp phần chăm sóc  sức khỏe cộng đồng.

(Nguồn: “Hoàng liên chân gà – dược liệu quý đa tác dụng”, Phùng Tuấn Giang, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 12, năm 2018)

Trong số các thành  phần  hóa  học  của Hoàng liên chân gà, thành phần nào được quan tâm nhiều nhất?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

HOÀNG LIÊN CHÂN GÀ – DƯỢC LIỆU QUÝ ĐA TÁC DỤNG

(1) Hoàng liên chân gà ( Coptis  chinensis  Franch) là cây  thân thảo, sống lâu năm,  ưa sống  ở vùng núi cao  1.000-2.500 m, mưa nhiều,  ẩm ướt.  Hiện  nay,  loài  dược  liệu  này  được  trồng nhiều tại Trung Quốc, chủ yếu  ở các tỉnh Tứ Xuyên, Vân Nam, Hồ  Bắc,  Thiểm  Tây,  Hồ  Nam,  Giang  Tây, Triết Giang, Sơn Tây. Tại Việt  Nam,  Hoàng  liên  chân  gà  phân  bố  chủ yếu ở huyện Sa Pa (Lào Cai) và  huyện Quản Bạ (Hà Giang). Hoàng  liên chân gà thuộc diện quý hiếm, đã  được đưa vào Sách đỏ của Liên minh  bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN)  năm 1980, Sách đỏ  Ấn Độ 1980 và  Sách đỏ Việt Nam năm 1996.  

(2) Trong y học cổ truyền, Hoàng liên  chân  gà  có  vị  đắng,  tính  hàn.  Quy  kinh vào tâm, can, đởm, tiểu trường.  Có  tác  dụng  thanh  nhiệt  táo  thấp,  chủ trị các bệnh vị tràng thấp nhiệt  dẫn đến chứng lỵ, tiêu chảy; thanh  tâm  trừ  phiền:  tâm  hỏa  thịnh  gây  phiền muộn, mất ngủ, miệng lưỡi lở  loét; giải nhiệt độc ung nhọt, sốt cao,  phiền táo, chóng mặt, nói nhảm, mê  cuồng, lưỡi đỏ, mạch sác; thanh can  sáng mắt, điều trị các bệnh do can  hỏa gây đau mắt, đỏ mắt, chảy nước  mắt; giải độc ba đậu, khinh phấn.

(3) Ngày nay, dược liệu này đã được  nhiều  nhà  khoa  học  trên  thế  giới  nghiên cứu về thành phần hóa học  và tác dụng dược lý.

Thành  phần  hóa  học:  thân,  rễ  Hoàng  liên  chân  gà  có  chứa  nhiều  alcaloid  (5-8%),  với  các  thành  phần  chính  là  berberin,  palmatin,  jatrorrhizin,  coptisin,  epiberberin,  columbamin,  worenin,  magnoflorin...  Các thành phần alcaloid của Hoàng  liên  chân  gà  được  tìm  thấy  trong  hầu  hết  các  bộ  phận  của  cây,  tuy  nhiên  tỷ  lệ  alcaloid  trong  các  bộ  phận của cây thay đổi theo các giai  đoạn sinh trưởng và mùa. Vào tháng  9-10, ở thân và rễ nhỏ có hàm lượng  berberin cao; ở lá già trước khi rụng  (tháng 7-10) hàm lượng alcaloid cũng  thường cao; ở hoa có khoảng 0,56%  và hạt chứa 0,23% berberin. Ngoài  ra,  trong  thân,  rễ  của  Hoàng  liên  chân gà còn có tinh bột, acid hữu cơ  như acid ferulic... Trong số các thành  phần  hóa  học  nêu  trên,  berberin  được y học quan tâm nhiều nhất, tiếp  đến là palmatin.

Tác  dụng  dược  lý:  các  kết  quả  nghiên  cứu  cho  thấy,  Hoàng  liên  chân gà có nhiều tác dụng dược lý  khác nhau:

- Kháng khuẩn, kháng virus, kháng  nấm: nhóm nghiên cứu của Hàn Quốc  do Bae EA (1998) đứng đầu đã đánh  giá tác dụng của Hoàng liên chân gà  trên vi khuẩn  Helicobacter pylori , kết  quả  cho  thấy,  nước  sắc  từ  loài  cây  này có tác dụng làm giảm 16% hoạt  tính men urease và ức chế mạnh sự  phát triển của vi khuẩn  Helicobacter  pylori .  Các  nghiên  cứu  khác  cũng  đã chứng minh nước sắc Hoàng liên  chân  gà  và  hoạt  chất  berberin  có  phổ  kháng  khuẩn  rộng  đối  với  một  số chủng gram (+) và gram (-). Nước  sắc  thể  hiện  tác  dụng  ức  chế  một  số  vi  khuẩn  tùy  theo  độ  pha  loãng  khác nhau như:  Shigella shigac ,  Sh.  dysenteriae ,  Bacillus  tuberculosis ,  Bacillus  cholera ,  Staphylococcus  aureus ,  Bacillus  paratyphi ,  Bacillus  coli ,  Bacillus proteus ,  Streptococcus  hemolyticus ,  Vitrio cholera ,  Baccillus  subtilis ...  Cơ  chế  tác  dụng  kháng  khuẩn được giải thích là do berberin  ức chế tổng hợp ARN, ADN và protein  đối  với  vi  khuẩn.  Ngoài  ra,  Hoàng  liên chân gà còn có tác dụng kháng  nấm  và  virus.  Kết  quả  nghiên  cứu  cho thấy, nước sắc Hoàng liên chân  gà với nồng độ 50% khi thí nghiệm  trên phôi gà có tác dụng ức chế sự  phát triển của virus cúm chủng PR8,  56S8, P.M.

- Giảm hội chứng ruột kích thích  và điều trị viêm đường tiêu hóa: năm  2011,  Yungwui  Tjong  và  cộng  sự  (Hồng Kông, Trung Quốc) đã nghiên  cứu chiết xuất rễ Hoàng liên chân gà  và nhận thấy chúng có tác dụng giảm  những  cơn  đau  nội  tạng  trên  động  vật thực nghiệm, cơ chế có thể là do  làm  giảm  hormon  cholecystokinin  và serotonin - là những chất làm co  cơ  trơn  dẫn  tới  tăng  nhu  động  đại  tràng.  Cũng  trong  năm  này,  nhóm  nghiên  cứu  của  Qian  Zhang  và  cộng sự (Trung Quốc) đã cho thấy  tác  dụng  điều  trị  viêm  đường  tiêu  hóa của dược liệu Hoàng liên chân  gà. Theo đó, dịch chiết nước Hoàng  liên chân gà với liều 300 mg/kg cân  nặng và berberin với liều 120 mg/kg  cân nặng đã có tác dụng làm giảm  tổn thương đường tiêu hóa gây ra bởi  lip oposaccharose  theo  cơ  chế  làm  tăng hoạt động của SOD và GSH-Px, ức chế hoạt động của TLR4 và NF-jB  ở hồi tràng.

(4)  Đặc biệt, một số nghiên cứu được  công bố năm 2018 cho thấy, Hoàng  liên chân gà có tiềm năng để điều trị  bệnh  Alzheimer,  bảo  vệ  thần  kinh,  thận. Cụ thể, nhóm nghiên cứu của  Cao Thảo Nguyên và cộng sự (Việt  Nam)  đã  điều  tra  thành  phần  hóa  học  một  chiết  xuất  nước  của  dược  liệu  Hoàng  liên  chân  gà  và  xác  định  được  2  protoberberines  bậc  bốn (1, 2) và 1 amide ba vòng mới  (3), cùng với 5 hợp chất đã biết (4,  5, 6, 7, 8). Các hợp chất 4, 5 và 7  cho  thấy  sự  ức  chế  mạnh  đối  với  acetylcholinesterase  (AChE)  tương  ứng với các giá trị IC 50  là 1,1; 5,6 và  12,9 μ M. Hợp chất 2 và 4 cho thấy sự  ức chế butyrylcholinesterase (BChE)  tương ứng với giá trị IC 50  là 11,5 và  27,8 μ M. Qua nghiên cứu này, các tác  giả kết luận Hoàng liên chân gà là  dược liệu tiềm năng để điều trị bệnh  Alzheimer.  Tại  Trung  Quốc,  Yujuan  Li và cộng sự đã nghiên cứu tác dụng  bảo vệ thần kinh của polysaccharide  Hoàng liên chân gà trên mô hình giun  tròn  ( Caenorhabditis  elegans )  biến  đổi gen bị bệnh Alzheimer được gây  độc bằng amyloid-beta (A β ). Những  dữ liệu nghiên cứu chứng minh rằng  polysaccharide Hoàng liên chân gà  có thể làm giảm độc tính do A β  gây  ra bằng cách trì hoãn sự lão hóa, làm  giảm tốc độ tê liệt, ức chế sự lắng  đọng của A β , và tăng mức biểu hiện  của gen HSP trong giun tròn biến đổi  gen. Bên cạnh đó, Ying-Ying Wang và  cộng sự (Trung Quốc) đã chứng minh  rằng berberine (thành phần hoạt chất  chính của Hoàng liên chân gà) có thể  bảo  vệ  chức  năng  của  podocytes  thông qua ức chế chuyển TGF- β 1 từ  các tế bào Mesangial cầu thận sang  podocyte. Đây là một trong những cơ  chế tiềm năng của tác dụng bảo vệ  đối với bệnh thận do tiểu đường.  

(5) Không chỉ dừng lại ở đó, Hoàng  liên chân gà còn được các công trình  nghiên cứu khoa học gần đây chứng  minh là dược liệu tiềm năng để điều trị  các bệnh về sa sút trí tuệ, tiểu đường,  phòng ngừa xơ vữa động mạch, lợi  mật, chống ung thư, hạ huyết áp, an  thần... Những tác dụng này đã được  Đỗ Huy Bích và cộng sự ghi chép lại  trong bộ sách  Cây thuốc và động vật  làm thuốc ở Việt Nam  do Nhà xuất  bản Khoa học và Kỹ thuật phát hành.

(6) Việt Nam là một quốc gia sở hữu  nguồn tài nguyên cây thuốc và tri thức  sử  dụng  cây  thuốc  vô  cùng  phong  phú, đa dạng. Nhu cầu sử dụng dược  liệu phục vụ cho việc chăm sóc sức  khỏe cộng đồng tương đối cao. Trước  tình trạng cạn kiệt nguồn Hoàng liên  chân gà ở nước ta cùng với việc xác  định  được  những  vai  trò  phòng  và  chữa bệnh hết sức quan trọng của vị  thuốc này trong y dược học cổ truyền  và y dược học hiện đại, cần phải có  những hướng nghiên cứu mới về cây  Hoàng liên chân gà nhằm phát triển  nguồn dược liệu và tiềm năng chữa  bệnh từ dược liệu quý này.

(7) Để bảo tồn các cây thuốc quý nói  chung, Hoàng liên chân gà nói riêng,  cách tốt nhất là hình thành nên chuỗi  giá trị cho chúng để bảo tồn và phát  triển bền vững trong thực tiễn cuộc  sống. Một số hoạt động nghiên cứu  cơ bản trong chuỗi giá trị như sau:  nghiên cứu quy trình kỹ thuật nhân  giống,  sản  xuất  giống  Hoàng  liên  chân  gà;  nghiên  cứu  quy  trình  kỹ  thuật  trồng  và  xây  dựng  mô  hình  trồng  Hoàng  liên  chân  gà;  sơ  chế,  chế biến tại vùng nguyên liệu để tạo  dược liệu Hoàng liên chân gà; nghiên  cứu  đánh  giá  các  thành  phần  hóa  học, tác dụng dược lý của dược liệu  trồng được so với dược liệu thu hái tự  nhiên và dược liệu nhập khẩu; nghiên  cứu bào chế sản phẩm bảo vệ sức  khỏe có sử dụng Hoàng liên chân gà  và các dược liệu khác đảm bảo được  tính an toàn, hiệu quả, đủ điều kiện  đưa ra thị trường.

(8) Nói  cách  khác,  nghiên  cứu  xây  dựng  cơ  chế  bảo  tồn  giống,  cơ  sở  sản xuất giống, hình thành các vùng  chuyên  canh  trồng  nguyên  liệu,  cơ  sở chế biến tại vùng nguyên liệu, tạo  ra những sản phẩm được bào chế từ  Hoàng liên chân gà là việc làm thiết  thực và cần thiết để bảo tồn nguồn  gen, tạo dược liệu quý cho y học cổ  truyền Việt Nam, góp phần chăm sóc  sức khỏe cộng đồng.

(Nguồn: “Hoàng liên chân gà – dược liệu quý đa tác dụng”, Phùng Tuấn Giang, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 12, năm 2018)

Tác dụng của Hoàng liên chân gà  trong y học cổ truyền là gì?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

HOÀNG LIÊN CHÂN GÀ – DƯỢC LIỆU QUÝ ĐA TÁC DỤNG

(1) Hoàng liên chân gà ( Coptis  chinensis  Franch) là cây  thân thảo, sống lâu năm,  ưa sống  ở vùng núi cao  1.000-2.500 m, mưa nhiều,  ẩm ướt.  Hiện  nay,  loài  dược  liệu  này  được  trồng nhiều tại Trung Quốc, chủ yếu  ở các tỉnh Tứ Xuyên, Vân Nam, Hồ  Bắc,  Thiểm  Tây,  Hồ  Nam,  Giang  Tây, Triết Giang, Sơn Tây. Tại Việt  Nam,  Hoàng  liên  chân  gà  phân  bố  chủ yếu ở huyện Sa Pa (Lào Cai) và  huyện Quản Bạ (Hà Giang). Hoàng  liên chân gà thuộc diện quý hiếm, đã  được đưa vào Sách đỏ của Liên minh  bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN)  năm 1980, Sách đỏ  Ấn Độ 1980 và  Sách đỏ Việt Nam năm 1996.  

(2) Trong y học cổ truyền, Hoàng liên  chân  gà  có  vị  đắng,  tính  hàn.  Quy  kinh vào tâm, can, đởm, tiểu trường.  Có  tác  dụng  thanh  nhiệt  táo  thấp,  chủ trị các bệnh vị tràng thấp nhiệt  dẫn đến chứng lỵ, tiêu chảy; thanh  tâm  trừ  phiền:  tâm  hỏa  thịnh  gây  phiền muộn, mất ngủ, miệng lưỡi lở  loét; giải nhiệt độc ung nhọt, sốt cao,  phiền táo, chóng mặt, nói nhảm, mê  cuồng, lưỡi đỏ, mạch sác; thanh can  sáng mắt, điều trị các bệnh do can  hỏa gây đau mắt, đỏ mắt, chảy nước  mắt; giải độc ba đậu, khinh phấn.

(3) Ngày nay, dược liệu này đã được  nhiều  nhà  khoa  học  trên  thế  giới  nghiên cứu về thành phần hóa học  và tác dụng dược lý.

Thành  phần  hóa  học:  thân,  rễ  Hoàng  liên  chân  gà  có  chứa  nhiều  alcaloid  (5-8%),  với  các  thành  phần  chính  là  berberin,  palmatin,  jatrorrhizin,  coptisin,  epiberberin,  columbamin,  worenin,  magnoflorin...  Các thành phần alcaloid của Hoàng  liên  chân  gà  được  tìm  thấy  trong  hầu  hết  các  bộ  phận  của  cây,  tuy  nhiên  tỷ  lệ  alcaloid  trong  các  bộ  phận của cây thay đổi theo các giai  đoạn sinh trưởng và mùa. Vào tháng  9-10, ở thân và rễ nhỏ có hàm lượng  berberin cao; ở lá già trước khi rụng  (tháng 7-10) hàm lượng alcaloid cũng  thường cao; ở hoa có khoảng 0,56%  và hạt chứa 0,23% berberin. Ngoài  ra,  trong  thân,  rễ  của  Hoàng  liên  chân gà còn có tinh bột, acid hữu cơ  như acid ferulic... Trong số các thành  phần  hóa  học  nêu  trên,  berberin  được y học quan tâm nhiều nhất, tiếp  đến là palmatin.

Tác  dụng  dược  lý:  các  kết  quả  nghiên  cứu  cho  thấy,  Hoàng  liên  chân gà có nhiều tác dụng dược lý  khác nhau:

- Kháng khuẩn, kháng virus, kháng  nấm: nhóm nghiên cứu của Hàn Quốc  do Bae EA (1998) đứng đầu đã đánh  giá tác dụng của Hoàng liên chân gà  trên vi khuẩn  Helicobacter pylori , kết  quả  cho  thấy,  nước  sắc  từ  loài  cây  này có tác dụng làm giảm 16% hoạt  tính men urease và ức chế mạnh sự  phát triển của vi khuẩn  Helicobacter  pylori .  Các  nghiên  cứu  khác  cũng  đã chứng minh nước sắc Hoàng liên  chân  gà  và  hoạt  chất  berberin  có  phổ  kháng  khuẩn  rộng  đối  với  một  số chủng gram (+) và gram (-). Nước  sắc  thể  hiện  tác  dụng  ức  chế  một  số  vi  khuẩn  tùy  theo  độ  pha  loãng  khác nhau như:  Shigella shigac ,  Sh.  dysenteriae ,  Bacillus  tuberculosis ,  Bacillus  cholera ,  Staphylococcus  aureus ,  Bacillus  paratyphi ,  Bacillus  coli ,  Bacillus proteus ,  Streptococcus  hemolyticus ,  Vitrio cholera ,  Baccillus  subtilis ...  Cơ  chế  tác  dụng  kháng  khuẩn được giải thích là do berberin  ức chế tổng hợp ARN, ADN và protein  đối  với  vi  khuẩn.  Ngoài  ra,  Hoàng  liên chân gà còn có tác dụng kháng  nấm  và  virus.  Kết  quả  nghiên  cứu  cho thấy, nước sắc Hoàng liên chân  gà với nồng độ 50% khi thí nghiệm  trên phôi gà có tác dụng ức chế sự  phát triển của virus cúm chủng PR8,  56S8, P.M.

- Giảm hội chứng ruột kích thích  và điều trị viêm đường tiêu hóa: năm  2011,  Yungwui  Tjong  và  cộng  sự  (Hồng Kông, Trung Quốc) đã nghiên  cứu chiết xuất rễ Hoàng liên chân gà  và nhận thấy chúng có tác dụng giảm  những  cơn  đau  nội  tạng  trên  động  vật thực nghiệm, cơ chế có thể là do  làm  giảm  hormon  cholecystokinin  và serotonin - là những chất làm co  cơ  trơn  dẫn  tới  tăng  nhu  động  đại  tràng.  Cũng  trong  năm  này,  nhóm  nghiên  cứu  của  Qian  Zhang  và  cộng sự (Trung Quốc) đã cho thấy  tác  dụng  điều  trị  viêm  đường  tiêu  hóa của dược liệu Hoàng liên chân  gà. Theo đó, dịch chiết nước Hoàng  liên chân gà với liều 300 mg/kg cân  nặng và berberin với liều 120 mg/kg  cân nặng đã có tác dụng làm giảm  tổn thương đường tiêu hóa gây ra bởi  lip oposaccharose  theo  cơ  chế  làm  tăng hoạt động của SOD và GSH-Px, ức chế hoạt động của TLR4 và NF-jB  ở hồi tràng.

(4)  Đặc biệt, một số nghiên cứu được  công bố năm 2018 cho thấy, Hoàng  liên chân gà có tiềm năng để điều trị  bệnh  Alzheimer,  bảo  vệ  thần  kinh,  thận. Cụ thể, nhóm nghiên cứu của  Cao Thảo Nguyên và cộng sự (Việt  Nam)  đã  điều  tra  thành  phần  hóa  học  một  chiết  xuất  nước  của  dược  liệu  Hoàng  liên  chân  gà  và  xác  định  được  2  protoberberines  bậc  bốn (1, 2) và 1 amide ba vòng mới  (3), cùng với 5 hợp chất đã biết (4,  5, 6, 7, 8). Các hợp chất 4, 5 và 7  cho  thấy  sự  ức  chế  mạnh  đối  với  acetylcholinesterase  (AChE)  tương  ứng với các giá trị IC 50  là 1,1; 5,6 và  12,9 μ M. Hợp chất 2 và 4 cho thấy sự  ức chế butyrylcholinesterase (BChE)  tương ứng với giá trị IC 50  là 11,5 và  27,8 μ M. Qua nghiên cứu này, các tác  giả kết luận Hoàng liên chân gà là  dược liệu tiềm năng để điều trị bệnh  Alzheimer.  Tại  Trung  Quốc,  Yujuan  Li và cộng sự đã nghiên cứu tác dụng  bảo vệ thần kinh của polysaccharide  Hoàng liên chân gà trên mô hình giun  tròn  ( Caenorhabditis  elegans )  biến  đổi gen bị bệnh Alzheimer được gây  độc bằng amyloid-beta (A β ). Những  dữ liệu nghiên cứu chứng minh rằng  polysaccharide Hoàng liên chân gà  có thể làm giảm độc tính do A β  gây  ra bằng cách trì hoãn sự lão hóa, làm  giảm tốc độ tê liệt, ức chế sự lắng  đọng của A β , và tăng mức biểu hiện  của gen HSP trong giun tròn biến đổi  gen. Bên cạnh đó, Ying-Ying Wang và  cộng sự (Trung Quốc) đã chứng minh  rằng berberine (thành phần hoạt chất  chính của Hoàng liên chân gà) có thể  bảo  vệ  chức  năng  của  podocytes  thông qua ức chế chuyển TGF- β 1 từ  các tế bào Mesangial cầu thận sang  podocyte. Đây là một trong những cơ  chế tiềm năng của tác dụng bảo vệ  đối với bệnh thận do tiểu đường.  

(5) Không chỉ dừng lại ở đó, Hoàng  liên chân gà còn được các công trình  nghiên cứu khoa học gần đây chứng  minh là dược liệu tiềm năng để điều trị  các bệnh về sa sút trí tuệ, tiểu đường,  phòng ngừa xơ vữa động mạch, lợi  mật, chống ung thư, hạ huyết áp, an  thần... Những tác dụng này đã được  Đỗ Huy Bích và cộng sự ghi chép lại  trong bộ sách  Cây thuốc và động vật  làm thuốc ở Việt Nam  do Nhà xuất  bản Khoa học và Kỹ thuật phát hành.

(6) Việt Nam là một quốc gia sở hữu  nguồn tài nguyên cây thuốc và tri thức  sử  dụng  cây  thuốc  vô  cùng  phong  phú, đa dạng. Nhu cầu sử dụng dược  liệu phục vụ cho việc chăm sóc sức  khỏe cộng đồng tương đối cao. Trước  tình trạng cạn kiệt nguồn Hoàng liên  chân gà ở nước ta cùng với việc xác  định  được  những  vai  trò  phòng  và  chữa bệnh hết sức quan trọng của vị  thuốc này trong y dược học cổ truyền  và y dược học hiện đại, cần phải có  những hướng nghiên cứu mới về cây  Hoàng liên chân gà nhằm phát triển  nguồn dược liệu và tiềm năng chữa  bệnh từ dược liệu quý này.

(7) Để bảo tồn các cây thuốc quý nói  chung, Hoàng liên chân gà nói riêng,  cách tốt nhất là hình thành nên chuỗi  giá trị cho chúng để bảo tồn và phát  triển bền vững trong thực tiễn cuộc  sống. Một số hoạt động nghiên cứu  cơ bản trong chuỗi giá trị như sau:  nghiên cứu quy trình kỹ thuật nhân  giống,  sản  xuất  giống  Hoàng  liên  chân  gà;  nghiên  cứu  quy  trình  kỹ  thuật  trồng  và  xây  dựng  mô  hình  trồng  Hoàng  liên  chân  gà;  sơ  chế,  chế biến tại vùng nguyên liệu để tạo  dược liệu Hoàng liên chân gà; nghiên  cứu  đánh  giá  các  thành  phần  hóa  học, tác dụng dược lý của dược liệu  trồng được so với dược liệu thu hái tự  nhiên và dược liệu nhập khẩu; nghiên  cứu bào chế sản phẩm bảo vệ sức  khỏe có sử dụng Hoàng liên chân gà  và các dược liệu khác đảm bảo được  tính an toàn, hiệu quả, đủ điều kiện  đưa ra thị trường.

(8) Nói  cách  khác,  nghiên  cứu  xây  dựng  cơ  chế  bảo  tồn  giống,  cơ  sở  sản xuất giống, hình thành các vùng  chuyên  canh  trồng  nguyên  liệu,  cơ  sở chế biến tại vùng nguyên liệu, tạo  ra những sản phẩm được bào chế từ  Hoàng liên chân gà là việc làm thiết  thực và cần thiết để bảo tồn nguồn  gen, tạo dược liệu quý cho y học cổ  truyền Việt Nam, góp phần chăm sóc  sức khỏe cộng đồng.

(Nguồn: “Hoàng liên chân gà – dược liệu quý đa tác dụng”, Phùng Tuấn Giang, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 12, năm 2018)

Hoàn liên chân gà phát triển trong môi trường nào?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

HOÀNG LIÊN CHÂN GÀ – DƯỢC LIỆU QUÝ ĐA TÁC DỤNG

(1) Hoàng liên chân gà ( Coptis  chinensis  Franch) là cây  thân thảo, sống lâu năm,  ưa sống  ở vùng núi cao  1.000-2.500 m, mưa nhiều,  ẩm ướt.  Hiện  nay,  loài  dược  liệu  này  được  trồng nhiều tại Trung Quốc, chủ yếu  ở các tỉnh Tứ Xuyên, Vân Nam, Hồ  Bắc,  Thiểm  Tây,  Hồ  Nam,  Giang  Tây, Triết Giang, Sơn Tây. Tại Việt  Nam,  Hoàng  liên  chân  gà  phân  bố  chủ yếu ở huyện Sa Pa (Lào Cai) và  huyện Quản Bạ (Hà Giang). Hoàng  liên chân gà thuộc diện quý hiếm, đã  được đưa vào Sách đỏ của Liên minh  bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN)  năm 1980, Sách đỏ  Ấn Độ 1980 và  Sách đỏ Việt Nam năm 1996.  

(2) Trong y học cổ truyền, Hoàng liên  chân  gà  có  vị  đắng,  tính  hàn.  Quy  kinh vào tâm, can, đởm, tiểu trường.  Có  tác  dụng  thanh  nhiệt  táo  thấp,  chủ trị các bệnh vị tràng thấp nhiệt  dẫn đến chứng lỵ, tiêu chảy; thanh  tâm  trừ  phiền:  tâm  hỏa  thịnh  gây  phiền muộn, mất ngủ, miệng lưỡi lở  loét; giải nhiệt độc ung nhọt, sốt cao,  phiền táo, chóng mặt, nói nhảm, mê  cuồng, lưỡi đỏ, mạch sác; thanh can  sáng mắt, điều trị các bệnh do can  hỏa gây đau mắt, đỏ mắt, chảy nước  mắt; giải độc ba đậu, khinh phấn.

(3) Ngày nay, dược liệu này đã được  nhiều  nhà  khoa  học  trên  thế  giới  nghiên cứu về thành phần hóa học  và tác dụng dược lý.

Thành  phần  hóa  học:  thân,  rễ  Hoàng  liên  chân  gà  có  chứa  nhiều  alcaloid  (5-8%),  với  các  thành  phần  chính  là  berberin,  palmatin,  jatrorrhizin,  coptisin,  epiberberin,  columbamin,  worenin,  magnoflorin...  Các thành phần alcaloid của Hoàng  liên  chân  gà  được  tìm  thấy  trong  hầu  hết  các  bộ  phận  của  cây,  tuy  nhiên  tỷ  lệ  alcaloid  trong  các  bộ  phận của cây thay đổi theo các giai  đoạn sinh trưởng và mùa. Vào tháng  9-10, ở thân và rễ nhỏ có hàm lượng  berberin cao; ở lá già trước khi rụng  (tháng 7-10) hàm lượng alcaloid cũng  thường cao; ở hoa có khoảng 0,56%  và hạt chứa 0,23% berberin. Ngoài  ra,  trong  thân,  rễ  của  Hoàng  liên  chân gà còn có tinh bột, acid hữu cơ  như acid ferulic... Trong số các thành  phần  hóa  học  nêu  trên,  berberin  được y học quan tâm nhiều nhất, tiếp  đến là palmatin.

Tác  dụng  dược  lý:  các  kết  quả  nghiên  cứu  cho  thấy,  Hoàng  liên  chân gà có nhiều tác dụng dược lý  khác nhau:

- Kháng khuẩn, kháng virus, kháng  nấm: nhóm nghiên cứu của Hàn Quốc  do Bae EA (1998) đứng đầu đã đánh  giá tác dụng của Hoàng liên chân gà  trên vi khuẩn  Helicobacter pylori , kết  quả  cho  thấy,  nước  sắc  từ  loài  cây  này có tác dụng làm giảm 16% hoạt  tính men urease và ức chế mạnh sự  phát triển của vi khuẩn  Helicobacter  pylori .  Các  nghiên  cứu  khác  cũng  đã chứng minh nước sắc Hoàng liên  chân  gà  và  hoạt  chất  berberin  có  phổ  kháng  khuẩn  rộng  đối  với  một  số chủng gram (+) và gram (-). Nước  sắc  thể  hiện  tác  dụng  ức  chế  một  số  vi  khuẩn  tùy  theo  độ  pha  loãng  khác nhau như:  Shigella shigac ,  Sh.  dysenteriae ,  Bacillus  tuberculosis ,  Bacillus  cholera ,  Staphylococcus  aureus ,  Bacillus  paratyphi ,  Bacillus  coli ,  Bacillus proteus ,  Streptococcus  hemolyticus ,  Vitrio cholera ,  Baccillus  subtilis ...  Cơ  chế  tác  dụng  kháng  khuẩn được giải thích là do berberin  ức chế tổng hợp ARN, ADN và protein  đối  với  vi  khuẩn.  Ngoài  ra,  Hoàng  liên chân gà còn có tác dụng kháng  nấm  và  virus.  Kết  quả  nghiên  cứu  cho thấy, nước sắc Hoàng liên chân  gà với nồng độ 50% khi thí nghiệm  trên phôi gà có tác dụng ức chế sự  phát triển của virus cúm chủng PR8,  56S8, P.M.

- Giảm hội chứng ruột kích thích  và điều trị viêm đường tiêu hóa: năm  2011,  Yungwui  Tjong  và  cộng  sự  (Hồng Kông, Trung Quốc) đã nghiên  cứu chiết xuất rễ Hoàng liên chân gà  và nhận thấy chúng có tác dụng giảm  những  cơn  đau  nội  tạng  trên  động  vật thực nghiệm, cơ chế có thể là do  làm  giảm  hormon  cholecystokinin  và serotonin - là những chất làm co  cơ  trơn  dẫn  tới  tăng  nhu  động  đại  tràng.  Cũng  trong  năm  này,  nhóm  nghiên  cứu  của  Qian  Zhang  và  cộng sự (Trung Quốc) đã cho thấy  tác  dụng  điều  trị  viêm  đường  tiêu  hóa của dược liệu Hoàng liên chân  gà. Theo đó, dịch chiết nước Hoàng  liên chân gà với liều 300 mg/kg cân  nặng và berberin với liều 120 mg/kg  cân nặng đã có tác dụng làm giảm  tổn thương đường tiêu hóa gây ra bởi  lip oposaccharose  theo  cơ  chế  làm  tăng hoạt động của SOD và GSH-Px, ức chế hoạt động của TLR4 và NF-jB  ở hồi tràng.

(4)  Đặc biệt, một số nghiên cứu được  công bố năm 2018 cho thấy, Hoàng  liên chân gà có tiềm năng để điều trị  bệnh  Alzheimer,  bảo  vệ  thần  kinh,  thận. Cụ thể, nhóm nghiên cứu của  Cao Thảo Nguyên và cộng sự (Việt  Nam)  đã  điều  tra  thành  phần  hóa  học  một  chiết  xuất  nước  của  dược  liệu  Hoàng  liên  chân  gà  và  xác  định  được  2  protoberberines  bậc  bốn (1, 2) và 1 amide ba vòng mới  (3), cùng với 5 hợp chất đã biết (4,  5, 6, 7, 8). Các hợp chất 4, 5 và 7  cho  thấy  sự  ức  chế  mạnh  đối  với  acetylcholinesterase  (AChE)  tương  ứng với các giá trị IC 50  là 1,1; 5,6 và  12,9 μ M. Hợp chất 2 và 4 cho thấy sự  ức chế butyrylcholinesterase (BChE)  tương ứng với giá trị IC 50  là 11,5 và  27,8 μ M. Qua nghiên cứu này, các tác  giả kết luận Hoàng liên chân gà là  dược liệu tiềm năng để điều trị bệnh  Alzheimer.  Tại  Trung  Quốc,  Yujuan  Li và cộng sự đã nghiên cứu tác dụng  bảo vệ thần kinh của polysaccharide  Hoàng liên chân gà trên mô hình giun  tròn  ( Caenorhabditis  elegans )  biến  đổi gen bị bệnh Alzheimer được gây  độc bằng amyloid-beta (A β ). Những  dữ liệu nghiên cứu chứng minh rằng  polysaccharide Hoàng liên chân gà  có thể làm giảm độc tính do A β  gây  ra bằng cách trì hoãn sự lão hóa, làm  giảm tốc độ tê liệt, ức chế sự lắng  đọng của A β , và tăng mức biểu hiện  của gen HSP trong giun tròn biến đổi  gen. Bên cạnh đó, Ying-Ying Wang và  cộng sự (Trung Quốc) đã chứng minh  rằng berberine (thành phần hoạt chất  chính của Hoàng liên chân gà) có thể  bảo  vệ  chức  năng  của  podocytes  thông qua ức chế chuyển TGF- β 1 từ  các tế bào Mesangial cầu thận sang  podocyte. Đây là một trong những cơ  chế tiềm năng của tác dụng bảo vệ  đối với bệnh thận do tiểu đường.  

(5) Không chỉ dừng lại ở đó, Hoàng  liên chân gà còn được các công trình  nghiên cứu khoa học gần đây chứng  minh là dược liệu tiềm năng để điều trị  các bệnh về sa sút trí tuệ, tiểu đường,  phòng ngừa xơ vữa động mạch, lợi  mật, chống ung thư, hạ huyết áp, an  thần... Những tác dụng này đã được  Đỗ Huy Bích và cộng sự ghi chép lại  trong bộ sách  Cây thuốc và động vật  làm thuốc ở Việt Nam  do Nhà xuất  bản Khoa học và Kỹ thuật phát hành.

(6) Việt Nam là một quốc gia sở hữu  nguồn tài nguyên cây thuốc và tri thức  sử  dụng  cây  thuốc  vô  cùng  phong  phú, đa dạng. Nhu cầu sử dụng dược  liệu phục vụ cho việc chăm sóc sức  khỏe cộng đồng tương đối cao. Trước  tình trạng cạn kiệt nguồn Hoàng liên  chân gà ở nước ta cùng với việc xác  định  được  những  vai  trò  phòng  và  chữa bệnh hết sức quan trọng của vị  thuốc này trong y dược học cổ truyền  và y dược học hiện đại, cần phải có  những hướng nghiên cứu mới về cây  Hoàng liên chân gà nhằm phát triển  nguồn dược liệu và tiềm năng chữa  bệnh từ dược liệu quý này.

(7) Để bảo tồn các cây thuốc quý nói  chung, Hoàng liên chân gà nói riêng,  cách tốt nhất là hình thành nên chuỗi  giá trị cho chúng để bảo tồn và phát  triển bền vững trong thực tiễn cuộc  sống. Một số hoạt động nghiên cứu  cơ bản trong chuỗi giá trị như sau:  nghiên cứu quy trình kỹ thuật nhân  giống,  sản  xuất  giống  Hoàng  liên  chân  gà;  nghiên  cứu  quy  trình  kỹ  thuật  trồng  và  xây  dựng  mô  hình  trồng  Hoàng  liên  chân  gà;  sơ  chế,  chế biến tại vùng nguyên liệu để tạo  dược liệu Hoàng liên chân gà; nghiên  cứu  đánh  giá  các  thành  phần  hóa  học, tác dụng dược lý của dược liệu  trồng được so với dược liệu thu hái tự  nhiên và dược liệu nhập khẩu; nghiên  cứu bào chế sản phẩm bảo vệ sức  khỏe có sử dụng Hoàng liên chân gà  và các dược liệu khác đảm bảo được  tính an toàn, hiệu quả, đủ điều kiện  đưa ra thị trường.

(8) Nói  cách  khác,  nghiên  cứu  xây  dựng  cơ  chế  bảo  tồn  giống,  cơ  sở  sản xuất giống, hình thành các vùng  chuyên  canh  trồng  nguyên  liệu,  cơ  sở chế biến tại vùng nguyên liệu, tạo  ra những sản phẩm được bào chế từ  Hoàng liên chân gà là việc làm thiết  thực và cần thiết để bảo tồn nguồn  gen, tạo dược liệu quý cho y học cổ  truyền Việt Nam, góp phần chăm sóc  sức khỏe cộng đồng.

(Nguồn: “Hoàng liên chân gà – dược liệu quý đa tác dụng”, Phùng Tuấn Giang, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 12, năm 2018)

Hoàn liên chân gà là gì?

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Đột phá mới trong điều trị xuất huyết hậu sản

(1) Băng huyết được giới chuyên  môn cho là hiện tượng khi lượng  máu chảy từ đường sinh dục của  sản  phụ  trong  vòng  24  giờ  sau  sinh  lớn  hơn  500  ml  hoặ c  mất  máu lớn hơn 1% trọng lượng cơ  thể, hoặc một lượng máu mất bất  kỳ nhưng ảnh hưởng đến huyết  động học.  Mức độ nặng của băng  huyết  không  chỉ  phụ  thuộc  vào  lượng máu mất mà còn phụ thuộc  rất nhiều vào thể trạng của sản  phụ trước khi bị băng huyết.  

(2) “Mẹ tròn con vuông” là niềm  mong mỏi và là hạnh phúc của  mọi  gia  đình  khi  có  sản  phụ  đi  sinh.  Nhưng  quá  trình  sinh  nở  luôn là nỗi lo canh cánh của rất  nhiều  bà  mẹ  mang  thai  và  gia  đình họ. Mỗi ngày, trên thế giới  có hàng nghìn bà mẹ tử vong do  tai  biến  sản  khoa  và  mỗi  năm  có  hàng  triệu  phụ  nữ  không  có  cơ hội sống để hoàn thành thiên  chức làm mẹ, đặc biệt là sản phụ  ở những nơi có điều kiện địa lý,  kinh tế - xã hội khó khăn, an sinh  xã  hội  kém  và  thiếu  thốn  các  điều kiện sống cơ bản. Cho đến  nay,  băng  huyết  vẫn  được  xem  là nguyên nhân gây tử vong cao  nhất trong 5 nguyên nhân tử vong  hàng đầu đối với sản phụ.

(3) Mặc dù những tiến bộ trong y  học đã góp phần làm giảm tỷ lệ  tử vong do băng huyết, nhưng hai  từ này luôn là nỗi ám ảnh không  chỉ với những phụ nữ sinh thường  và những người thân của họ mà  còn cả với nhiều chuyên gia sản  khoa. Theo WHO, hiện có khoảng  70.000 phụ nữ tử vong mỗi năm vì  xuất huyết hậu sản, điều này  cũng  có  nghĩa  là  tăng  nguy  cơ  con của họ cũng chết trong vòng  một tháng. Đối với Việt Nam, tỷ lệ  băng huyết sau sinh chiếm 3-8%  tổng số sinh.  

(4) Với  những  nước  đang  phát  triển, đặc biệt là những quốc gia  nghèo, thì tỷ lệ phụ nữ tử vong  do  băng  huyết  lại  càng  cao  do  nguyên nhân cơ bản là cuộc sống  khó khăn, phụ nữ mang thai phải  làm  việc  nặng  nhọc,  thậm  chí  lao  động  trong  môi  trường  độc  hại; chế độ nghỉ ngơi không đảm  bảo; chế độ ăn uống thiếu dinh  dưỡng... Cơ sở y tế nghèo nàn,  không  đảm  bảo  vệ  sinh,  thiếu  thốn các trang thiết bị và thuốc  điều trị khiến việc cấp cứu và điều  trị những phụ nữ bị xuất huyết hậu  sản trở nên khó khăn hơn bao giờ  hết. Hiện nay, WHO khuyến cáo  dùng oxytocin là thuốc lựa chọn  đầu tiên để ngăn ngừa chảy máu  quá mức sau khi sinh. Tuy nhiên,  oxytocin  phải  được  bảo  quản  ở  nhiệt  độ  2-8 o C.  Đây  thực  sự  là  một công việc khó khăn ở nhiều  quốc gia nghèo. Bởi vậy mà rất  nhiều sản phụ không có cơ hội  được tiếp cận nguồn thuốc này.  Hoặc nếu có được loại thuốc này  trong tay thì hiệu lực của thuốc đã  bị giảm đáng kể do tiếp xúc với  nhiệt  độ  cao bên  ngoài vì  thiếu  thốn trang thiết bị bảo quản cần  thiết.

(5) Vừa  qua,  WHO  đã  nghiên  cứu  thành  công  một  loại  thuốc  với  công  thức  mới  (có  tên  là  carbetocin) có thể giúp ngăn ngừa  băng huyết ở phụ nữ sau khi sinh.  Nghiên  cứu  được  công  bố  trên  Tạp chí Y học New England [3].  Thuốc carbetocin được bảo quản  ở môi trường bình thường (30 o C,  độ ẩm tương đối là 75%) với hạn  sử dụng lên tới 3 năm. TS Tedros  Adhanom  Ghebreyesus  -  Tổng  giám đốc WHO nhận định: “Đây  là một bước tiến vượt bậc của y  học, giúp cứu sống hàng vạn bà  mẹ và trẻ sơ sinh mỗi năm”.  

(6) Trong  nghiên  cứu  của  mình,  các nhà khoa học đã tiến hành  một  cuộc  thử  nghiệm  lâm  sàng  đối  chứng  ngẫu  nhiên  (RCT)  với  quy  mô  lớn  (29.645  phụ  nữ  sinh  thường)  đến  từ  23  bệnh  viện  ở  các  quốc  gia:  Argentina,  Ai Cập, Ấn Độ, Kenya, Nigeria,  Singapore,  Nam  Phi,  Thái  Lan,  Uganda và Vương quốc Anh. Mỗi  phụ  nữ  được  tiêm  ngẫu  nhiên  một liều carbetocin hoặc oxytocin  ngay  sau  khi  sinh  con.  Nghiên  cứu  cho  thấy,  cả  hai  loại  thuốc  đều có hiệu quả như nhau trong  việc ngăn ngừa băng huyết sau  khi sinh.

(7) Để có được đánh giá so sánh  chính  xác  phương  pháp  thử  nghiệm  không  thấp  kém  hơn  (non-inferiority) chứng minh phương  pháp điều trị mới, cá c nhà khoa  học  đã  đảm  bảo  các  điều  kiện  bảo  quản,  đặc  biệt  là  nhiệt  độ  của  oxytocin,  để  mỗi  loại  thuốc  đạt  hiệu  quả  tối  đa  khi  điều  trị.  Thử  nghiệm  được  tiến  hành  với  việc sử dụng carbetocin ổn định  nhiệt  trong  môi  trường  thực  tế,  nơi oxytocin có thể bị thoái hóa  do tiếp xúc với nhiệt độ cao hơn.  Kết  quả  thử  nghiệm  cho  thấy,  tác  dụng  và  hiệu  quả  điều  trị  với  carbetocin  không  thua  kém  oxytocin:  tần  suất  mất  máu  ít  nhất 500 ml hoặc sử dụng thêm  thuốc  co  hồi  tử  cung  là  14,5%  ở  nhóm  carbetocin  và  14,4%  ở  nhóm oxytocin; tần suất mất máu  ít nhất 1.000 ml là 1,51% ở nhóm  carbetocin  và  1,45%  ở  nhóm  oxytocin. Việc sử dụng các thuốc  co hồi tử cung bổ sung, can thiệp  để  ngừng  chảy  máu  và  các  tác  dụng phụ không khác biệt đáng  kể giữa hai nhóm. “Sự phát triển  của một loại thuốc để ngăn ngừa  xuất huyết hậu sản vẫn tiếp tục  có hiệu quả trong điều kiện nóng  và ẩm là tin rất tốt cho hàng triệu  phụ  nữ  sinh  con  ở  các  nơi  trên  thế giới mà không được tiếp cận  với các thiết bị bảo quản tốt”, TS  Metin G ü lmezoglu - Viện Nghiên  cứu  Sức  khỏe  và  Sinh  sản  của  WHO cho biết.

(8) Với  sự  ra  đời  của  thuốc  mới  carbetocin, tới đây, những phụ nữ  ở các khu vực hẻo lánh và thiếu  thốn sẽ không còn bị ám ảnh bởi  thần chết mang tên “băng huyết”  rình  rập.  WHO  đang  chuẩn  bị  bước tiếp theo là xem xét và phê  duyệt theo quy định của các quốc  gia  để  đưa  carbetocin  vào  sử  dụng trong điều trị.

(9) Điều  thú  vị  hơn  là  mới  đây,  một  nghiên  cứu  được  thực  hiện  bởi các nhà khoa học thuộc Đại  học  Birmingham  (Vương  quốc  Anh) cũng đã chỉ ra rằng, việc  ra  đời  những  loại  thuốc  mới  sẽ  giúp ngăn chặn hiệu quả những  tai biến nguy hiểm có thể xảy ra  đối với các sản phụ. Công trình  nghiên  cứu  của  họ  đã  đưa  ra  một giải pháp mới, đó là kết hợp  các loại thuốc với nhau để tăng  hiệu  quả  điều  trị.  Chẳng  hạn  như  ergometrine  với  oxytocin,  misoprostol với oxytocin hay điều  trị  bằng  carbetocin  sẽ  hiệu  quả  hơn  rất  nhiều  nếu  chỉ  sử  dụng  oxytocin như hiện nay. Phân tích  dữ liệu từ 140 cuộc thử nghiệm  lâm  sàng  khác  nhau  liên  quan  đến hơn 88.000 phụ nữ, các nhà  khoa  học  đã  có  được  cách  so  sánh chính xác đối với hiệu quả  điều trị của tất cả các loại thuốc  này.

(Nguồn: “Đột phá mới trong điều trị xuất huyết hậu sản”, Nguyễn Minh Đức, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 12, năm 2018)

Thuốc carbetocin còn được gọi là gì?