Câu hỏi:
23/07/2024 251Hãy phân tích khát vọng tình yêu của người phụ nữ được thể hiện qua hai đoạn thơ:
Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu đổi mình
Sóng tìm ra tận bể
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”
Và:
“... Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”
(“Sóng” – Xuân Quỳnh , SGK Ngữ văn 12, Tập 1, trang 156)
Trả lời:
Phương pháp:
- Xác định rõ vấn đề cần nghị luận: Khát vọng tình yêu thông qua hai đoạn thơ.
- Biểu cảm, bình luận, phân tích, tổng hợp.
Cách giải:
I. Mở bài
- Giới thiệu một số nét tiêu biểu về tác giả Xuân Quỳnh: Xuân Quỳnh là nhà thơ nữ tiêu biểu của thơ Việt Nam hiện đại. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một người phụ nữ vừa giàu tình cảm yêu thương, vừa hồn nhiên, tươi tắn, vừa chân thành, đằm thắm và luôn mãnh liệt, da diết trong khát vọng hạnh phúc bình dị đời thường.
- Nêu khái quát chung về tác phẩm “Sóng”: Sóng là bài thơ được sáng tác năm 1967 nhân chuyến đi công tác về vùng biển Diên Điền (Thái Bình). Bài thơ in trong tập Hoa dọc chiến hào. Sóng là bài thơ tình tiêu biểu cho phong cách thơ tình yêu của Xuân Quỳnh. Sóng là hình ảnh ẩn dụ đa nghĩa, gợi lên vẻ đẹp phong phú trong tâm hồn người con gái đang yêu.
- Khái quát nội dung: Khát vọng tình yêu của người con gái thể hiện thông qua hai đoạn thơ.
II. Thân bài
1. Đoạn thơ thứ nhất: Khát vọng nhận thức, khám phá trong tình yêu.
* Khổ 1: “Dữ dội và dịu êm…Sóng tìm ra tận bể”
+ Bằng việc sử dụng bút pháp miêu tả với nhiều từ láy, sóng trước hết dược thể hiện qua những trạng thái đối cực: dữ dội – dịu êm, ồn ào – lặng lẽ. Đây là những biểu hiện thường thấy của những con sóng ngoài biển khơi, lúc biển động do phong ba, sóng dữ dội, ồn ào; khi trời yên biển lặng, sóng dịu êm, lặng lẽ. Sự đối lập ấy đôi khi thật rõ ràng, có thể dự báo trước, nhưng cũng nhiều lúc thật khó đoán, thất thường và hết sức bất ngờ.
→ Mượn hình tượng sóng, người phụ nữ đang yêu trong bài thơ đang tự nhận thức về những biến động trong lòng mình, đang chân thành bộc bạch mà không hề giấu giếm những trạng thái tâm lí, tình cảm vừa phong phú vừa phức tạp của một tâm hồn đang khát khao yêu đương: lúc giận dữ, hờn ghen; khi dịu hiền, sâu lắng.
+ Ở hai câu thơ sau, với bút pháp tự sự, sử dụng hình ảnh biểu tượng (sông, bể) và giọng thơ mang tính khẳng định, Xuân Quỳnh cho thấy sóng hiện lên thật mạnh mẽ trong hành động vượt thoát khỏi thế giới chật hẹp và thiếu sự đồng cảm để tìm ra biển rộng bao la, tìm đến với môi trường đích thực của nó. Nói cách khác, qua hai câu thơ này, nhà thơ đã mạnh dạn bộc lộ một quan niệm mới mẻ, hiện đại về tình yêu của người phụ nữ. Nếu “Sông không hiểu nổi mình” thì “sóng” dứt khoát từ bỏ nơi trật hẹp ấy để “tìm ra tận bể”, để đến với cái bao la, khoáng đạt. Các từ ngữ “không hiểu nổi”, “tìm ra tận” mang ý nghĩa nhấn mạnh khát vọng mãnh liệt của sóng, cũng là của tình yêu. Khác với người phụ nữ xưa, người phụ nữ trong thơ Xuân Quỳnh đã đến với tình yêu một cách chủ động, đầy tự tin, khát khao tìm đến với một tâm hồn đồng điệu, có thể thấu hiểu, sẻ chia, tìm đến một khung trời tình yêu cao cả, bao dung.
* Khổ 2: “Ôi con sóng ngày xưa... Bồi hồi trong ngực trẻ”
Có thể nói, hành trình “tìm ra tận bể” của sóng cũng là hành trình tự nhận thức chính mình của người phụ nữ, nhận thức giá trị đích thực của tình yêu.
+ Nếu như ở khổ 1, sóng được miêu tả trong chiều rộng của không gian thì đến khổ thơ này, sóng lại được miêu tả trong chiều dài của thời gian. Đứng trước biển, Xuân Quỳnh cảm nhận rõ nét cái vĩnh hằng, bất diệt của sóng: Ôi con sóng ngày xưa- Và ngày sau vẫn thế. Giọng thơ cảm thán cùng với những từ chỉ thời gian “ngày xưa, ngày sau, vẫn thế” cho thấy hàng ngàn, hàng triệu năm qua, những con sóng ngoài biển khơi đã, đang và sẽ còn chuyển động.
+ Cũng như sóng, “nỗi khát vọng tình yêu” mãi mãi là niềm khao khát cháy bỏng, “bồi hồi” trong trái tim con người, nhất là tuổi trẻ. Bao nhiêu thế kỉ qua, con người đã đến với tình yêu, đã sống mà không thể thiếu tình yêu và sẽ còn yêu chừng nào còn tồn tại. Xuân Quỳnh khẳng định một chân lí: khát vọng tình yêu là vĩnh viễn, nó không chỉ tồn tại trong tâm hồn con người, đặc biệt là tuổi trẻ mà còn khiến người ta trở lại, tái sinh như con sóng biển ào lên rồi lại tan ra hòa nhập vào biển cả mãi mãi. Cũng như còn biển thì còn sóng, còn con người thì tình yêu còn mãi.
2. Đoạn thơ thứ hai khát vọng về tình yêu vĩnh cửu.
- Nhân vật trữ tình khao khát hòa tình yêu con sóng nhỏ của mình vào biển lớn tình yêu – tình yêu bao la, rộng lớn – để sống hết mình trong tình yêu, để tình yêu riêng hoá thân vĩnh viễn thành tình yêu muôn thủa. - Câu thơ “Làm sao được tan ra” là một câu thơ mang cấu trúc cầu khiến, nghi vấn thể hiện niềm mong ước da diết và hiện thực.
+ Tan ra là hi sinh, là dâng hiến, là mong được hóa thân. Tan ra thành trăm con sóng là mong ước biến cái hữu hạn thành cái vô hạn. Xuân Quỳnh muốn vượt qua cái hữu hạn của đời người giống như con sóng kia ngàn năm còn vỗ giữa biển lới tình yêu.
-> Đó là tiếng lòng của một tâm hồn giàu đức hi sinh và lòng cao thượng. Cuộc đời là biển lớn tình yêu, kết tinh vị mặn ân tình, được tạo nên và hòa lẫn cùng trăm con sóng nhỏ. Trong quan niệm của nhà thơ, số phận cá nhân không thể tách khỏi cộng đồng.
- Sóng không phải là biểu tượng của một cái tôi ngạo nghễ, cô đơn và ích kỷ sóng là sự tổng hòa những vẻ đẹp khác nhau để tạo thành biển lớn.
- Song song với đó như một lẽ thường tình cái tôi ích kỷ nhỏ bé trật hẹp sẽ không thể tạo nên một tình yêu đẹp. Chỉ có lòng bao dung và trái tim yêu thương vượt lên trên mọi ích kỷ tầm thường để tạo ra một tình yêu vĩnh cửu.
=> Nhà thơ đã thể hiện một khát vọng mãnh liệt muốn làm trăm con sóng để hòa mình vào đại dương bao la, hòa mình vào biển lớn tình yêu để một đời vỗ muôn điệu yêu thương “Người yêu người, sống để yêu nhau” (Tố Hữu)...
3. Đánh giá:
- Hình tượng sóng và em có sự đồng điệu, song hành. Nhân vật trữ tình là “em” mang dấu ấn riêng và tâm hồn, phong cách tác giả.
- Bằng sự thấu hiểu, đồng cảm của “người trong cuộc”, Xuân Quỳnh đã khám phá, thể hiện một cách chân thực và sâu sắc về thế giới tâm hồn của người con gái trong tình yêu.
III. Kết bài:
Khái quát về nội dung, nghệ thuật của tác phẩm.
Phương pháp:
- Xác định rõ vấn đề cần nghị luận: Khát vọng tình yêu thông qua hai đoạn thơ.
- Biểu cảm, bình luận, phân tích, tổng hợp.
Cách giải:
I. Mở bài
- Giới thiệu một số nét tiêu biểu về tác giả Xuân Quỳnh: Xuân Quỳnh là nhà thơ nữ tiêu biểu của thơ Việt Nam hiện đại. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một người phụ nữ vừa giàu tình cảm yêu thương, vừa hồn nhiên, tươi tắn, vừa chân thành, đằm thắm và luôn mãnh liệt, da diết trong khát vọng hạnh phúc bình dị đời thường.
- Nêu khái quát chung về tác phẩm “Sóng”: Sóng là bài thơ được sáng tác năm 1967 nhân chuyến đi công tác về vùng biển Diên Điền (Thái Bình). Bài thơ in trong tập Hoa dọc chiến hào. Sóng là bài thơ tình tiêu biểu cho phong cách thơ tình yêu của Xuân Quỳnh. Sóng là hình ảnh ẩn dụ đa nghĩa, gợi lên vẻ đẹp phong phú trong tâm hồn người con gái đang yêu.
- Khái quát nội dung: Khát vọng tình yêu của người con gái thể hiện thông qua hai đoạn thơ.
II. Thân bài
1. Đoạn thơ thứ nhất: Khát vọng nhận thức, khám phá trong tình yêu.
* Khổ 1: “Dữ dội và dịu êm…Sóng tìm ra tận bể”
+ Bằng việc sử dụng bút pháp miêu tả với nhiều từ láy, sóng trước hết dược thể hiện qua những trạng thái đối cực: dữ dội – dịu êm, ồn ào – lặng lẽ. Đây là những biểu hiện thường thấy của những con sóng ngoài biển khơi, lúc biển động do phong ba, sóng dữ dội, ồn ào; khi trời yên biển lặng, sóng dịu êm, lặng lẽ. Sự đối lập ấy đôi khi thật rõ ràng, có thể dự báo trước, nhưng cũng nhiều lúc thật khó đoán, thất thường và hết sức bất ngờ.
→ Mượn hình tượng sóng, người phụ nữ đang yêu trong bài thơ đang tự nhận thức về những biến động trong lòng mình, đang chân thành bộc bạch mà không hề giấu giếm những trạng thái tâm lí, tình cảm vừa phong phú vừa phức tạp của một tâm hồn đang khát khao yêu đương: lúc giận dữ, hờn ghen; khi dịu hiền, sâu lắng.
+ Ở hai câu thơ sau, với bút pháp tự sự, sử dụng hình ảnh biểu tượng (sông, bể) và giọng thơ mang tính khẳng định, Xuân Quỳnh cho thấy sóng hiện lên thật mạnh mẽ trong hành động vượt thoát khỏi thế giới chật hẹp và thiếu sự đồng cảm để tìm ra biển rộng bao la, tìm đến với môi trường đích thực của nó. Nói cách khác, qua hai câu thơ này, nhà thơ đã mạnh dạn bộc lộ một quan niệm mới mẻ, hiện đại về tình yêu của người phụ nữ. Nếu “Sông không hiểu nổi mình” thì “sóng” dứt khoát từ bỏ nơi trật hẹp ấy để “tìm ra tận bể”, để đến với cái bao la, khoáng đạt. Các từ ngữ “không hiểu nổi”, “tìm ra tận” mang ý nghĩa nhấn mạnh khát vọng mãnh liệt của sóng, cũng là của tình yêu. Khác với người phụ nữ xưa, người phụ nữ trong thơ Xuân Quỳnh đã đến với tình yêu một cách chủ động, đầy tự tin, khát khao tìm đến với một tâm hồn đồng điệu, có thể thấu hiểu, sẻ chia, tìm đến một khung trời tình yêu cao cả, bao dung.
* Khổ 2: “Ôi con sóng ngày xưa... Bồi hồi trong ngực trẻ”
Có thể nói, hành trình “tìm ra tận bể” của sóng cũng là hành trình tự nhận thức chính mình của người phụ nữ, nhận thức giá trị đích thực của tình yêu.
+ Nếu như ở khổ 1, sóng được miêu tả trong chiều rộng của không gian thì đến khổ thơ này, sóng lại được miêu tả trong chiều dài của thời gian. Đứng trước biển, Xuân Quỳnh cảm nhận rõ nét cái vĩnh hằng, bất diệt của sóng: Ôi con sóng ngày xưa- Và ngày sau vẫn thế. Giọng thơ cảm thán cùng với những từ chỉ thời gian “ngày xưa, ngày sau, vẫn thế” cho thấy hàng ngàn, hàng triệu năm qua, những con sóng ngoài biển khơi đã, đang và sẽ còn chuyển động.
+ Cũng như sóng, “nỗi khát vọng tình yêu” mãi mãi là niềm khao khát cháy bỏng, “bồi hồi” trong trái tim con người, nhất là tuổi trẻ. Bao nhiêu thế kỉ qua, con người đã đến với tình yêu, đã sống mà không thể thiếu tình yêu và sẽ còn yêu chừng nào còn tồn tại. Xuân Quỳnh khẳng định một chân lí: khát vọng tình yêu là vĩnh viễn, nó không chỉ tồn tại trong tâm hồn con người, đặc biệt là tuổi trẻ mà còn khiến người ta trở lại, tái sinh như con sóng biển ào lên rồi lại tan ra hòa nhập vào biển cả mãi mãi. Cũng như còn biển thì còn sóng, còn con người thì tình yêu còn mãi.
2. Đoạn thơ thứ hai khát vọng về tình yêu vĩnh cửu.
- Nhân vật trữ tình khao khát hòa tình yêu con sóng nhỏ của mình vào biển lớn tình yêu – tình yêu bao la, rộng lớn – để sống hết mình trong tình yêu, để tình yêu riêng hoá thân vĩnh viễn thành tình yêu muôn thủa. - Câu thơ “Làm sao được tan ra” là một câu thơ mang cấu trúc cầu khiến, nghi vấn thể hiện niềm mong ước da diết và hiện thực.
+ Tan ra là hi sinh, là dâng hiến, là mong được hóa thân. Tan ra thành trăm con sóng là mong ước biến cái hữu hạn thành cái vô hạn. Xuân Quỳnh muốn vượt qua cái hữu hạn của đời người giống như con sóng kia ngàn năm còn vỗ giữa biển lới tình yêu.
-> Đó là tiếng lòng của một tâm hồn giàu đức hi sinh và lòng cao thượng. Cuộc đời là biển lớn tình yêu, kết tinh vị mặn ân tình, được tạo nên và hòa lẫn cùng trăm con sóng nhỏ. Trong quan niệm của nhà thơ, số phận cá nhân không thể tách khỏi cộng đồng.
- Sóng không phải là biểu tượng của một cái tôi ngạo nghễ, cô đơn và ích kỷ sóng là sự tổng hòa những vẻ đẹp khác nhau để tạo thành biển lớn.
- Song song với đó như một lẽ thường tình cái tôi ích kỷ nhỏ bé trật hẹp sẽ không thể tạo nên một tình yêu đẹp. Chỉ có lòng bao dung và trái tim yêu thương vượt lên trên mọi ích kỷ tầm thường để tạo ra một tình yêu vĩnh cửu.
=> Nhà thơ đã thể hiện một khát vọng mãnh liệt muốn làm trăm con sóng để hòa mình vào đại dương bao la, hòa mình vào biển lớn tình yêu để một đời vỗ muôn điệu yêu thương “Người yêu người, sống để yêu nhau” (Tố Hữu)...
3. Đánh giá:
- Hình tượng sóng và em có sự đồng điệu, song hành. Nhân vật trữ tình là “em” mang dấu ấn riêng và tâm hồn, phong cách tác giả.
- Bằng sự thấu hiểu, đồng cảm của “người trong cuộc”, Xuân Quỳnh đã khám phá, thể hiện một cách chân thực và sâu sắc về thế giới tâm hồn của người con gái trong tình yêu.
III. Kết bài:
Khái quát về nội dung, nghệ thuật của tác phẩm.
CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ
Câu 1:
I. ĐỌC HIỂU
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
(1) Thỉnh thoảng, khi ngồi ngắm mấy hòn đá nhỏ đặt bên cạnh hồ cá trước sân nhà, mẹ tôi lại tủm tỉm nhắc lại một kỷ niệm vui ngày mới về làm dâu. Vốn tính gọn gàng, và ưa chăm sóc vườn cảnh, mới về mấy ngày mẹ đã ra tay sắp xếp lại cái hồ cá bằng xi măng be bé vốn để không từ lâu lắm, xin mấy con cá vàng, cá bảy màu về thả, gom mấy chậu hoa vứt lỏng chỏng khắp nơi, bày thêm mấy hòn đá nhỏ đủ màu để bài trí thành một góc vườn rất đẹp.
(2) ...... Mẹ nói, nhìn vào đó có thể thấy quá khứ, vị lai của con người, và rồi thấy lòng nhẹ như tơ. Có lúc, tôi đùa rằng: "Người Nhật vẫn luyện tâm thiền bằng cách ngắm "đá mọc". Còn mẹ, ngắm đá mấy chục năm rồi, mẹ đã bao giờ thấy đá nở hoa chưa?" Mẹ nghiêm mặt. "Thiên nhiên có đời sống riêng của nó. Đơn giản và lặng lẽ thôi nhưng có thể dạy cho con người nhiều lắm đấy! Mẹ không biết đá có nở hoa không, nhưng mẹ biết là khi con thấy trái tim và trí tưởng tượng của mình không nở hoa được nữa thì khi ấy con đích thị chỉ là một viên đá mà thôi!"
(3) Càng ngày con người càng thấy thiếu thiên nhiên. Và người ta cố đưa một chút thiên nhiên vào nhà để cân bằng lại cuộc sống công nghiệp bề bộn máy móc và kỹ thuật. (... .....) Mẹ tôi chỉ tự hỏi, người ta chơi đá như một cách đến gần với thiên nhiên hay một cách chiếm hữu nó? Bà cho rằng, sẽ vô duyên làm sao, nếu như những viên đá đặt trong vườn kia chi để trang điểm phô trương, chứ không phải để gợi nhớ đến con sông ngọn suối, không tưởng nhớ đến núi cao rừng sâu... Lãng phí làm sao, nếu ta không bao giờ chịu bỏ chút thời gian quý giá để ngồi ngắm đá "mọc" trong vườn, và để nhận ra rằng lòng mình vẫn nở hoa,...
(Trích: “Hãy tìm tôi giữa cánh đồng” – Đặng Nguyễn Đông Vy, NXB Hội nhà văn)
(NB) Đoạn trích trên đã sử dụng những phương thức biểu đạt nào?
I. ĐỌC HIỂU
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
(1) Thỉnh thoảng, khi ngồi ngắm mấy hòn đá nhỏ đặt bên cạnh hồ cá trước sân nhà, mẹ tôi lại tủm tỉm nhắc lại một kỷ niệm vui ngày mới về làm dâu. Vốn tính gọn gàng, và ưa chăm sóc vườn cảnh, mới về mấy ngày mẹ đã ra tay sắp xếp lại cái hồ cá bằng xi măng be bé vốn để không từ lâu lắm, xin mấy con cá vàng, cá bảy màu về thả, gom mấy chậu hoa vứt lỏng chỏng khắp nơi, bày thêm mấy hòn đá nhỏ đủ màu để bài trí thành một góc vườn rất đẹp.
(2) ...... Mẹ nói, nhìn vào đó có thể thấy quá khứ, vị lai của con người, và rồi thấy lòng nhẹ như tơ. Có lúc, tôi đùa rằng: "Người Nhật vẫn luyện tâm thiền bằng cách ngắm "đá mọc". Còn mẹ, ngắm đá mấy chục năm rồi, mẹ đã bao giờ thấy đá nở hoa chưa?" Mẹ nghiêm mặt. "Thiên nhiên có đời sống riêng của nó. Đơn giản và lặng lẽ thôi nhưng có thể dạy cho con người nhiều lắm đấy! Mẹ không biết đá có nở hoa không, nhưng mẹ biết là khi con thấy trái tim và trí tưởng tượng của mình không nở hoa được nữa thì khi ấy con đích thị chỉ là một viên đá mà thôi!"
(3) Càng ngày con người càng thấy thiếu thiên nhiên. Và người ta cố đưa một chút thiên nhiên vào nhà để cân bằng lại cuộc sống công nghiệp bề bộn máy móc và kỹ thuật. (... .....) Mẹ tôi chỉ tự hỏi, người ta chơi đá như một cách đến gần với thiên nhiên hay một cách chiếm hữu nó? Bà cho rằng, sẽ vô duyên làm sao, nếu như những viên đá đặt trong vườn kia chi để trang điểm phô trương, chứ không phải để gợi nhớ đến con sông ngọn suối, không tưởng nhớ đến núi cao rừng sâu... Lãng phí làm sao, nếu ta không bao giờ chịu bỏ chút thời gian quý giá để ngồi ngắm đá "mọc" trong vườn, và để nhận ra rằng lòng mình vẫn nở hoa,...
(Trích: “Hãy tìm tôi giữa cánh đồng” – Đặng Nguyễn Đông Vy, NXB Hội nhà văn)
(NB) Đoạn trích trên đã sử dụng những phương thức biểu đạt nào?
Câu 2:
(VD) Thông điệp nào của đoạn trích có ý nghĩa nhất đối với anh/ chị? Vì sao?
(VD) Thông điệp nào của đoạn trích có ý nghĩa nhất đối với anh/ chị? Vì sao?
Câu 3:
(TH) Em hiểu thế nào về câu văn sau: “...khi con thấy trái tim và trí tưởng tượng của mình không nở hoa được nữa thì khi ấy con đích thị chỉ là một viên đá mà thôi!"?
(TH) Em hiểu thế nào về câu văn sau: “...khi con thấy trái tim và trí tưởng tượng của mình không nở hoa được nữa thì khi ấy con đích thị chỉ là một viên đá mà thôi!"?
Câu 4:
II. LÀM VĂN
Anh/ chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) về ý tưởng:"Thiên nhiên có đời sống riêng của nó. Đơn giản và lặng lẽ thôi nhưng có thể dạy cho con người nhiều lắm đấy!"
II. LÀM VĂN
Anh/ chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) về ý tưởng:"Thiên nhiên có đời sống riêng của nó. Đơn giản và lặng lẽ thôi nhưng có thể dạy cho con người nhiều lắm đấy!"