Chương 2 Nghị định 206-VP/NgĐ: Các loại cho vay
Số hiệu: | 206-VP/NgĐ | Loại văn bản: | Nghị định |
Nơi ban hành: | Ngân hàng Nhà nước | Người ký: | Lê Viết Lượng |
Ngày ban hành: | 23/12/1959 | Ngày hiệu lực: | 23/12/1959 |
Ngày công báo: | 31/12/1959 | Số công báo: | Số 51 |
Lĩnh vực: | Doanh nghiệp, Tiền tệ - Ngân hàng | Tình trạng: | Không còn phù hợp |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
– Ngân hàng Quốc gia cho các Hợp tác xã vay để mua sắm phương tiện thiết bị, xây dựng kiến thiết cơ bản thêm trồng trọt, chăn nuôi và chế biến. Thuộc loại cho vay này có các đối tượng sau:
1. Mua sắm các súc vật lao động và các súc vật sinh đẻ.
2. Mua sắm các phương tiện sản xuất thô sơ không có tính chất cơ giới như nông cụ cải tiến, guồng nước, quạt hòm, máy tuốc lúa, gieo hạt các phương tiện vận tải không có động cơ.
3. Mua sắm các phương tiện bán cơ giới và cơ giới như máy móc các loại chạy bằng sức hơn nước, bằng sức điện, chạy bằng chất dầu như máy bơm nước, máy phát điện nhỏ v.v…
4. Mua sắm các loại phân để thay đổi chất đất.
5. Chi phí trong các cây công kỹ nghệ lâu năm, các cây ăn quả và để khai thác đất hoang.
6. Làm các công trình thủy lợi bậc trung.
7. Xây dựng các cơ sở chăn nuôi và chế biến sản phẩm nông nghiệp và sản phẩm chăn nuôi.
Thuộc chăn nuôi có các loại chăn nuôi cá, chăn nuôi đại gia súc và chăn nuôi tằm. Thuộc loại chế biến khi nguyên vật liệu là sản phẩm trồng trọt hoặc chăn nuôi của chính Hợp tác xã sản xuất ra. Ví dụ: làm bột, bật bông, kéo sợi, ép mật, lò xấy thuốc lá v.v…. Nếu hợp tác xã phải mua đại bộ phận nguyên vật liệu để chế biến thành không thuộc loại cho vay này.
– Tổng số cho vay các đối tượng thuộc loại này nói chung tối đa không quá 50% tổng số vốn cần thiết để mua sắm xây dựng cơ bản về trồng trọt, chăn nuôi và chế biến trong thời gian kế hoạch. Những chi phí xây dựng do xã viên bỏ ra bằng sức lao động cũng được tính vào tổng số vốn bỏ ra xây dựng khi tính tỷ lệ cho vay.
– Hàng năm sau mỗi vụ thu hoạch Hợp tác xã phải trích hoàn vốn và lãi dần cho Ngân hàng và thanh toán nợ đúng hạn đã ghi trong khế ước.
Số tiền hoàn trả lại cho những đối tượng trên căn cứ ở số tiền khấu hao phương tiện cơ bản công với số tiền ở quỹ tích lũy của các Hợp tác xã và tiền góp cổ phần của xã viên mới.
– Thuộc loại cho vay này có các loại:
- Cho vay để mua sắm các dụng cụ thiết bị, để trả các chi phí xây dựng các cơ sở sản xuất.
- Cho vay để mua sắm thuyền lưới đánh cá, khai hoang đồng muối.
Những nghề có tính chất chế biến những nguyên vật liệu chủ yếu là Hợp tác xã mua ở ngoài không do Hợp tác xã sản xuất ra thì thuộc loại cho vay này mà không thuộc loại cho vay chế biến ở trên.
– Ngân hàng cho vay loại này với điều kiện là Hợp tác xã phải có dự trù tính toán kế hoạch sản xuất, kế hoạch đảm bảo nguyên vật liệu, kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, kế hoạch thu chi tài vụ lỗ lãi, nghĩa là phải hạch toán riêng. Trong kế hoạch của Hợp tác xã có tiểu khoản theo dõi riêng về mặt sản xuất này cả về thu hoạch và chi phí. Ngân hàng không cho Hợp tác xã vay về tiểu thủ công khi Hợp tác xã kinh doanh theo lối tư bản chủ nghĩa là thuê mượn nhân công ngoài để kiếm lãi tăng thu cho xã viên. Chủ yếu nhân công phải là xã viên chuyên nghiệp, xã viên làm việc được ghi công điểm, lỗ lãi thu hoạch góp và thu hoạch của Hợp tác xã.
– Ngân hàng cho vay những đối tượng chi phí bằng tiền trực tiếp cho sản xuất. Các chi phí trực tiếp gồm có: chi phí mua nguyên vật liệu (mua thêm nguyên liệu khi cần thiết cho chế biến, nguyên vật liệu khác như phân, vôi) nhiên liệu than củi, xăng, dầu mỡ, mua thêm giống, thuốc trừ sâu, thuốc thú y, mua sắm dụng cụ nhỏ trong sản xuất, các phương tiện ít tiền, các dụng cụ thay thế và sửa chữa các máy móc, mua giống để chăn nuôi cho béo, cho lớn, các dụng cụ nuôi tằm, tiền thuê nhân công chuyên môn. Những tiền công trả ứng trước cho xã viên và những chi phí gián tiếp như quản lý phí, hành chính phí, Ngân hàng không cho vay.
– Thời hạn cho vay ấn định căn cứ vào thời gian thu hoạch sản phẩm, trong trường hợp Hợp tác xã chưa hạch toán riêng về chế biến, trồng trọt và chăn nuôi, nếu sản phẩm trồng trọt và chăn nuôi lại đem dùng vào chế biến thì thời hạn định tới khi bán các sản phẩm đã chế biến, nhưng tối đa không quá 12 tháng.
– Ngân hàng cho vay loại này để giúp cho Hợp tác xã mua sắm các dụng cụ nhỏ sửa chữa và thay thế, mua nguyên vật liệu sắm dọn thuyền lưới đánh cá từng chuyến, từng vụ, và trả tiền công thợ chuyên môn kỹ thuật trường hợp cần thiết để hướng dẫn lúc mới kinh doanh.
Nhưng nghề có tính chất chế biến nhưng nguyên liệu đại bộ phận phải mua ở ngoài vào không phải do chính Hợp tác xã sản xuất ra thì thuộc loại cho vay này không thuộc loại cho vay chế biến.
Ngân hàng áp dụng thể lệ này đối với các Hợp tác xã nông ngư nghiệp, còn đối với Hợp tác xã ngư nghiệp không áp dụng thể lệ này.
– Thời hạn cho vay nói chung không quá 12 tháng. Khi đã ấn định thời hạn phải căn cứ vào thu hoạch. Nếu là sản xuất có thời vụ thì sau khi hết thời vụ Hợp tác xã phải hoàn lại nợ. Nếu là nghề sản xuất thường xuyên trong suốt năm thì Hợp tác xã phải hoàn lại nợ khi Hợp tác xã quyết toán phân chia hoa lợi ruộng đất (tức là lúc phân chia cả hoa lợi về tiểu thủ công): Để tiếp tục sản xuất, Hợp tác xã có thể dùng quỹ sản xuất về trồng trọt đã hoàn lại khi quyết toán nhưng chưa dùng đến. Khi nào cần trồng trọt thiếu vốn Ngân hàng lại xét và cho vay chi phí trồng trọt. Nếu Hợp tác xã sản xuất tiểu thủ công mà sản phẩm lại dùng ngay vào cho trồng trọt (ví dụ vôi, phân) mỗi khi đem dùng sản phẩm vào trồng trọt, Ngân hàng thu lại nợ. Nếu Hợp tác xã không có đủ tiền để trả thì Ngân hàng sẽ điều chỉnh từ nợ chi phí sản xuất tiểu thủ công sang nợ chi phí trồng trọt.
– Ngân hàng cho vay góp cổ phần công hữu hóa nhằm giúp đỡ những xã viên nghèo lúc khó khăn, làm cho nông dân thiếu thốn có điều kiện tham gia Hợp tác xã đông đảo. Đối tượng giúp đỡ là những bần nông và trung nông nghèo thiếu tiền để góp cổ phần khi đến hạn đóng góp. Trường hợp thiếu vốn nghĩa là nếu góp cổ phần lúc thu hoạch mùa màng thì sẽ có khó khăn trong sản xuất, trong sinh hoạt hàng năm không giải quyết nổi.
– Ngân hàng cho những xã viên nghèo vay để góp cổ phần cho Hợp tác xã thôn thường chỉ giải quyết đóng góp của năm thứ nhất khi mới công hữu hóa, khi mới gia nhập Hợp tác xã sau lúc Hợp tác xã công hữu hóa. Trong những năm sau chỉ cho vay tiếp trong trường hợp thu nhập kém sút còn bình thường thì người nông dân có thể dùng số thu nhập tăng thêm do tăng năng suất mà đóng góp, Ngân hàng không cần phải cho vay.
Ngân hàng cho vay góp cổ phần sau khi thu hoạch mùa màng và phân chia hoa lợi tức là lúc nông dân phải góp cổ phần. Chưa đến mùa thu hoạch người nông dân thiếu cổ phần chưa phải góp, Ngân hàng chưa cho vay.
Về mức độ cho vay sau khi xã viên đã cố gắng tự lực và nhờ xã viên khác và nhân dân giúp đỡ mà không đủ góp thì Ngân hàng sẽ cho vay thêm cho đủ với cổ phần góp trong năm nay hay trong vụ đó.
Việc cho vay góp cổ phần công hữu hóa không áp dụng đối với nghề tiểu thủ công. Các tư liệu sản xuất về nghề tiểu thủ công nếu hợp tác xã hóa giá và công hữu hóa Hợp tác xã sẽ dùng tiền khấu hao và một phần tích lũy để thanh toán dần.
– Thời hạn cho vay cổ phần công hữu hóa định theo thời hạn góp cổ phần của từng Hợp tác xã. Ví dụ Hợp tác xã định 3 năm phải góp hết cổ phần thì Ngân hàng cho vay cùng với thời hạn 3 năm. Để giúp xã viên nghèo có điều kiện tự góp cổ phần trong những năm sau, số tiền cho vay góp cổ phần không bắt buộc phải trả dần hàng năm.
– Vốn cho vay cổ phần công hữu hóa sẽ phân biệt với vốn cho vay dài hạn về sản xuất.
Các xã viên nghèo mỗi khi cần vay góp cổ phần phải làm đơn riêng chịu nợ với Ngân hàng. Hợp tác xã sản xuất sẽ chứng nhận và có ý kiến về món vay đó. Khi đến hạn Hợp tác xã sẽ chịu trách nhiệm giữ phần thu nhập chia cho xã viên để trả nợ cho Ngân hàng.
Tình trạng hiệu lực: Không còn phù hợp