![](https://vietjack.me/assets/images/loading.gif)
Chương XXI Bộ luật Tố tụng Hình sự 2003: Tranh luận tại phiên toà
Số hiệu: | 19/2003/QH11 | Loại văn bản: | Luật |
Nơi ban hành: | Quốc hội | Người ký: | Nguyễn Văn An |
Ngày ban hành: | 26/11/2003 | Ngày hiệu lực: | 01/07/2004 |
Ngày công báo: | 06/01/2004 | Số công báo: | Từ số 5 đến số 6 |
Lĩnh vực: | Thủ tục Tố tụng, Trách nhiệm hình sự | Tình trạng: |
Hết hiệu lực
01/01/2018 |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Luật Tố tụng hình sự - Ngày 26/11/2003, Quốc hội đã ban hành Luật Tố tụng hình sự số 19/2003/QH11, gồm 37 chương, 346 điều. Theo đó, ở nước ta sẽ có 3 cơ quan điều tra: cơ quan điều tra trong công an nhân dân, cơ quan điều tra trong quân đội nhân dân và cơ quan điều tra của Viện KSND tối cao.
Luật cũng quy định người bào chữa được tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trong trường hợp bắt người khẩn cấp, phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ.
Đặc biệt, để giảm bớt biện pháp tạm giam, luật cho phép căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân của bị can, bị cáo, cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lãnh.
Cá nhân có thể nhận bảo lãnh cho bị can, bị cáo là người thân thích của họ, tổ chức có thể bảo lãnh cho bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức mình.
Ngoài ra, luật cho phép được đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm để thay thế biện pháp tạm giam...
Việc tăng thẩm quyền xét xử sơ thẩm án hình sự cho tòa án cấp huyện, tòa án quân sự khu vực được quy định như sau: tòa cấp huyện, tòa quân sự khu vực có thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự về tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng và rất nghiêm trọng, trừ một số trường hợp đặc biệt (tức hầu hết các tội phạm có hình phạt 15 năm tù trở xuống)...
Bộ luật này hiện đã bị thay thế bởi Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2021.
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
1. Sau khi kết thúc việc xét hỏi tại phiên tòa, Kiểm sát viên trình bày lời luận tội, đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ hay một phần nội dung cáo trạng hoặc kết luận về tội nhẹ hơn; nếu thấy không có căn cứ để kết tội thì rút toàn bộ quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo không có tội.
Luận tội của Kiểm sát viên phải căn cứ vào những tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra tại phiên toà và ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự và những người tham gia tố tụng khác tại phiên toà.
2. Bị cáo trình bày lời bào chữa, nếu bị cáo có người bào chữa thì người này bào chữa cho bị cáo. Bị cáo có quyền bổ sung ý kiến bào chữa.
3. Người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ được trình bày ý kiến để bảo vệ quyền và lợi ích của mình; nếu có người bảo vệ quyền lợi cho họ thì người này có quyền trình bày, bổ sung ý kiến.
Điều 218. Đối đápBị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác có quyền trình bày ý kiến về luận tội của Kiểm sát viên và đưa ra đề nghị của mình; Kiểm sát viên phải đưa ra những lập luận của mình đối với từng ý kiến.
Người tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến của người khác. Chủ toạ phiên toà không được hạn chế thời gian tranh luận, tạo điều kiện cho những người tham gia tranh luận trình bày hết ý kiến, nhưng có quyền cắt những ý kiến không có liên quan đến vụ án.
Chủ tọa phiên tòa có quyền đề nghị Kiểm sát viên phải đáp lại những ý kiến có liên quan đến vụ án của người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác mà những ý kiến đó chưa được Kiểm sát viên tranh luận.
Điều 219. Trở lại việc xét hỏiNếu qua tranh luận mà thấy cần xem xét thêm chứng cứ thì Hội đồng xét xử có thể quyết định trở lại việc xét hỏi. Xét hỏi xong phải tiếp tục tranh luận.
Điều 220. Bị cáo nói lời sau cùngSau khi những người tham gia tranh luận không trình bày gì thêm, chủ tọa phiên tòa tuyên bố kết thúc tranh luận.
Bị cáo được nói lời sau cùng. Không được đặt câu hỏi khi bị cáo nói lời sau cùng. Hội đồng xét xử có quyền yêu cầu bị cáo không được trình bày những điểm không liên quan đến vụ án, nhưng không được hạn chế thời gian đối với bị cáo.
Nếu trong lời nói sau cùng, bị cáo trình bày thêm tình tiết mới có ý nghĩa quan trọng đối với vụ án, thì Hội đồng xét xử phải quyết định trở lại việc xét hỏi.
Điều 221. Xem xét việc rút quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn1. Khi Kiểm sát viên rút một phần quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn thì Hội đồng xét xử vẫn tiếp tục xét xử vụ án.
2. Trong trường hợp Kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố thì trước khi nghị án, Hội đồng xét xử yêu cầu những người tham gia tố tụng tại phiên tòa trình bày ý kiến về việc rút truy tố đó.
Chapter XXI: ARGUMENT AT COURT SESSIONS
Article 217.- Order of presentation of arguments
1. At the end of the inquiry at the court sessions, procurators shall present the arraignments, proposing the charges against the defendants on the basis of the whole or part of the indictments or conclusions on lesser offenses; if deeming that there are no grounds for conviction, they shall withdraw the whole prosecution decisions and propose the trial panels to pronounce the defendants not guilty.
The arraignments presented by procurators must be based on documents and evidences already examined at the court sessions and opinions of the defendants, defense counsels, defense counsels of the interests of the involved parties and other participants in the procedure at the court sessions.
2. Defendants shall present their defense, if they have defense counsels, such defense counsels shall defend the defendants. Defendants shall have the right to add defense opinions.
3. Victims, civil plaintiffs, civil defendants and persons with interests and obligations related to the cases or their lawful representatives may present their opinions to protect their rights and interests; if they have defense counsels of their interests, such defense counsels shall have the right to present and add opinions.
Article 218.- Counter-argument
Defendants, defense counsels and other participants in the procedure shall have the right to present their opinions on the arraignments made by procurators and put forward their requests. Procurators must present their arguments on each opinion.
Participants in the arguing process shall have the right to respond to opinions of others. The presiding judges must not restrict the arguing time, must create conditions for participants in the arguing process to present all opinions, but they shall, however, have the right to cut out opinions irrelevant to the cases.
The presiding judges shall have the right to request procurators to respond to opinions related to the cases, which are presented by defense counsels and other participants in the procedure but have not yet been touched upon by procurators in their arguments.
Article 219.- Reopening of inquiry
If, through the arguing process, they deem it necessary to further examine evidences, the trial panels may decide to reopen the inquiry. The arguing process must be continued once the inquiry ends.
Article 220.- Final words of defendants
When the participants in the arguing process make no more statements, the presiding judges shall declare to conclude the arguing process.
Defendants shall then be allowed to say their final words. Questions must not be put while the defendants are saying their final words. The trial panels shall have the right to request the defendants not to dwell on matters irrelevant to the cases but must not restrict the time for them to say.
If, in their final words, the defendants additionally present new circumstances of important significance to the cases, the trial panels must decide to re-open the inquiry.
Article 221.- Consideration of withdrawal of prosecution decisions or conclusions on lesser offenses
1. When procurators withdraw part of their prosecution decisions or conclude on lesser offenses, the trial panels shall still continue adjudicating the cases.
2. Where procurators withdraw the whole of the prosecution decisions, the trial panels, before deliberating the judgments, shall request the participants in the procedure at the court sessions to give their opinions on such withdrawal.
Tình trạng hiệu lực: Hết hiệu lực