Danh sách câu hỏi

Có 80,395 câu hỏi trên 2,010 trang

Xác định hệ thống các từ lập luận và các cách thức đem lại tính biểu cảm trong đoạn trích sau:

“Cuộc tình duyên Rô-mê-ô và Giu-li-ét đã gặp đủ mọi trở ngại. Họ sinh ra trong hai gia đình oán thù nhau lâu đời, đó đã là một trở ngại lớn. Nhưng còn biết bao trở ngại khác nữa, những sự việc ngẫu nhiên, bất ngờ, chẳng may. Vì không hiểu mối tình của bạn, nên Mơ-kiu-xi-ô tưởng Rô-mê-ô hèn nhát cúi mình trước Ti-bân, và gây lộn với Ti-bân. Vì muốn can hai bên mà Rô-mê-ô khiến bạn chết oan. Và vì thương bạn chết oan mà Rô-mê-ô giết Ti-bàn và phải đi đày... Giải pháp của tu sĩ Lâu-rân bày cho Giu-li-ét tưởng chừng sẽ giải quyết mọi việc. Nhưng tu sĩ Lâu-rân lại gặp sự trắc trở giữa đường. Và khi tu sĩ Lâu-rân lật đật chạy tới hầm mộ thì Rô-mê-ô đã tới đó trước mất rồi. Nhưng Rô-mê-ô và Giu-li-ét có cúi đầu khuất phục trước những trở ngại không? Không, họ luôn luôn chiến đấu để bảo vệ tình yêu của họ. Mối hằn thù lâu đời giữa hai nhà đã không ngăn được họ yêu nhau. Lễ giáo phong kiến đã không ngăn được họ gặp nhau. Cái chết của Ti-bân, án đi đày của Rô-mê-ô cũng không chia lìa được họ. Tài mạo, danh vọng, của cải của Pa-rít không thể làm Giu-li-ét thay dạ đổi lòng. Những sự việc kinh khủng nhất (nằm một ngày một đêm giữa những thây chết) cũng không làm cô gái ngây thơ kia chùn bước...

Cái chết của họ không cho ta một cảm tưởng khuất phục đầu hàng. Họ đã thắng. [...]. Họ đã làm được một việc mà uy quyền của một vương chủ đã không làm nổi: chấm dứt một mối thù truyền kiếp.”.

(Đặng Thế Bính, Tiểu dẫn về “Rô-mê-ô và Giu-li-ét”, trong sách: William Shakespeare Tuyển tập tác phẩm, NXB Sân khấu – Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội, 2006)

Đối chiếu với những yêu cầu riêng khi phân tích một tác phẩm kịch, hãy cho biết đoạn văn sau tập trung phân tích đặc điểm nào của tác phẩm kịch?

“Đoạn trích ở Hồi 5, hồi cuối cùng vở kịch. Hồi này gồm chín lớp trong đó lớp 5 là lớp quan trọng nhất. Lớp này và lớp 1 chỉ có hai nhân vật trung tâm – Vũ Như Tô và Đan Thiềm – như là những trụ đỡ cho toàn bộ hồi kịch. Cũng có thể xem chúng như những lớp kịch được tạo ra với tư cách một thủ pháp nhằm mang đến cho các nhân vật trung tâm cơ hội bộc lộ “bản ngã” cũng như khát vọng của họ đúng vào thời điểm cao trào của vở kịch.

Hai lớp kịch tâm tình này do thế giống như một khoảng lặng giữa lúc sôi động ồn ào nhất, là thời điểm nén lại những khoảnh khắc riêng tư nhất của hai người trước khi bùng nổ những mâu thuẫn của vở kịch. Từ lớp 1 đến lớp 4 là sự gia tăng các nhân vật thuộc về một phía ủng hộ xây dựng Cửu Trùng Đài: Nguyễn Vũ, Lê Trung Mại, các quan nội giám. Rồi đột nhiên vở kịch rút bớt hết tất cả các nhân vật đó, chỉ để lại hai nhân vật trung tâm vở kịch: Vũ Như Tô và Đan Thiềm.

Số lượng các nhân vật tăng lên trong bốn lớp đầu có tác dụng làm sân khấu thêm náo nhiệt, hỗn độn thích hợp với thời điểm kết cận kề. Trong nửa đầu hồi kịch, nhóm này có hai cách ứng xử trước sự thế: bỏ trốn và tuẫn tiết. Nửa sau của hồi kịch, bắt đầu từ lớp 5, những nhân vật còn lại của triều đình như cung nữ chấp nhận đi theo quân khởi loạn. Lớp này đánh dấu sự chuyển giao quyền lực của triều đình, làm xoay ngược tình thế trong vở kịch.”.

(Phùng Kiên, Kết cấu kịch trong trích đoạn “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài”, Văn nghệ Quân đội, ngày 19-5-2021)

Nhận xét về những đặc điểm của ngôn ngữ viết trong các đoạn văn sau:

a) Trong vở kịch xuất sắc của mình, Lưu Quang Vũ không đi đến chủ nghĩa bị quan cực đoan – hình ảnh Trương Ba, người làm vườn, người vun trồng sự sống đẹp tươi, vẫn sống trong tâm tưởng của vợ ông, con dâu ông, cháu gái ông. Nhưng họ yếu đuối làm sao và bất lực làm sao trước xã hội, nơi những chủ nhân thật sự là anh đồ tể sống lại trong thân xác phù hợp với hắn, là anh con trai của Trương Ba thấm nhuần phép tồn tại ở đời này, là lũ quan chức tham nhũng vô liêm sỉ, Những con người ấy sẽ bất hạnh trong những thành đạt của họ, họ sẽ giận dữ đập tan những giá trị hôm qua họ mới dựng lên, để chạy theo những giá trị mới mà không bao giờ mãn nguyện. Vở kịch của Lưu Quang Vũ sở dĩ thu phục được nhiều khán giả nước ngoài, có lẽ bởi vì nó ứng hợp với tâm trạng phổ biến trong xã hội hiện đại – xã hội đã đánh mất niềm tin cũ vào những giá trị siêu nhân loại và chưa tìm được cái gì thay thế nó. (Phạm Vĩnh Cư)

b) Những nhà văn có phong cách đều tạo ra cho mình một thế giới nhân vật riêng. Thế giới nhân vật của Nguyễn Tuân, nói chung, gồm hai loại người đối lập nhau: loại người tài hoa nghệ sĩ, có nhân cách, có “thiên lương”, tự đặt mình lên trên hạng người thứ hai gồm những kẻ tiểu nhân phàm tục, bằng thái độ ngạo đời, khinh bạc. Loại người thứ nhất, theo Nguyễn Tuân, thường là những linh hồn đẹp còn sót lại của một thời đã qua, nay chỉ còn “vang bóng”. Loại người ấy cố nhiên là hiếm hoi. Còn kẻ tiểu nhân phàm tục thì đầy rẫy trong thiên hạ. (Nguyễn Đăng Mạnh)